39 Manh Mối - tập 1: Mê Cung Xương - Rick Riordan[Bestselling series][Giả Tưởng]

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      39 Manh Mối - tập 1: Mê Cung Xương - Rick Riordan[Giả Tưởng]
      [​IMG]
      Bộ Sách: 39 Manh Mối (tập 1)
      Nguyên tác: The 39 Clues Book 1: The Maze of Bones
      Tác giả: Rick Riordan
      Thể loại: Best seller, Giả tưởng, Phiêu lưu, Trinh thám, Văn học phương Tây
      Dịch giả: Dương Thu
      Công ty phát hành: Phương Nam
      Nhà xuất bản: NXB Hội Nhà Văn
      Trọng lượng vận chuyển: 400 grams
      Kích thước: 14 x 20 cm
      Số trang: 300
      Ngày xuất bản: 20-07-2011
      Giá bìa: 82.000₫
      Nguồn: tve-4u.org
      Type+Làm ebook: thanhbt


      Giới Thiệu:
      Bộ sách The 39 Clues - 39 Manh mối được xuất bản bởi Nhà xuất bản Scholastics (Mỹ) - NXB tạo nên tượng Harry Potter toàn cầu.
      The 39 Clues - 39 Manh mối câu chuyện ly kỳ xung quanh việc khám phá và sở hữu sức mạnh tối thượng. Đó là câu chuyện về nhà Cahill, gia tộc quyền lực nhất thế giới với những cái tên lừng lẫy trong gia phả, từ nhà lập quốc Mỹ Benjamin Franklin đến nhạc sĩ thiên tài Mozart. Trong giả thiết pha trộn huyền thoại và những nghi vấn lịch sử, bộ sách đưa ra bí mật lớn nằm trong 39 manh mối rải rác khắp thế giới. Người nào sở hữu được tất cả 39 manh mối đó nắm được bí quyết sở hữu quyền lực tối thượng.​

      Phần chính của bộ truyện gồm 10 tập. Nội dung các tập truyện xoay quanh cuộc chạy đua của hai đứa trẻ nhà Cahill là Amy (14 tuổi) và Dan (11 tuổi) với những thành viên từ các nhánh khác trong gia tộc để trở thành những người đầu tiên sở hữu tất cả các manh mối dẫn tới sức mạnh tối thượng. Qua mỗi cuộc phiêu lưu, qua từng manh mối được khám phá, những bí lịch sử vừa có vừa hư cấu được giải đáp. Cốt truyện The 39 Clues - 39 Manh mối phát triển đến cao trào để sau đó mở ra những đường dây câu chuyện mới, dọn đường cho các phần tiếp theo của bộ sách.
      NXB Scholastics tin tưởng giao nhiệm vụ soạn cốt truyện và viết tập đầu của The 39 Clues - 39 Manh mối cho Rick Riordan, nhà văn nổi tiếng khắp thế giới với tác phẩm Percy Jackson và các vị thần Olympia Các hùng đỉnh Olympus. Các tập sau do các nhà văn khác chấp bút.
      cùng The 39 Clues - 39 Manh mối là trò chơi trực tuyến cùng tên tại website chính thức www.39clues.com. Tại đây, người chơi sau khi đăng ký tài khoản, có thể tham gia trò chơi tìm kiếm 39 manh mối và nhận được rất nhiều giải thưởng có giá trị bằng tiền mặt và vật. trò chơi được áp dụng cho 9 quốc gia (chủ yếu là các nước có sử dụng tiếng ): Australia, Canada, Ấn Độ, Ai-len, Malaysia, New Zealand, Singapore, , Mỹ. số website địa phương cũng được thành lập dành cho các thị trường phát hành bản chuyển ngữ 39 clues, đó là Bulgaria, Phần Lan, Thụy Điển, Na Uy, Đan Mạch, Tây Ban Nha
      The 39 Clues - 39 Manh mối được kỳ vọng như là kiện xuất bản lớn tầm thế giới, và Scholastics tập trung marketing mạnh hơn nữa cho bộ sách này khi những ồn ào về Harry Potter thực lắng xuống, là lúc bộ phim cuối cùng từ bộ truyện này được công chiếu.
      nay, hãng phim của đạo diễn Steven Spielberg giành được bản quyền chuyển thể The 39 Clues - 39 Manh mối thành phim. Tập đầu tiên (có thể do chính Spielberg đạo diễn) ra mắt vào năm 2014.
      The 39 Clues - 39 Manh mối gồm các tập:​
      - Tập 1: Mê Cung Xương
      - Tập 2: Bí Mật của Mozart
      - Tập 3: Kẻ đánh cắp Thanh Gươm
      - Tập 4: Bước vào Cõi tử
      - Tập 5: Vòng tròn tuyệt mật
      - Tập 6: Trong vùng Nước Ngầm
      - Tập 7: The Viper's Nest
      - Tập 8: The Emperor's Code
      - Tập 9: Storm Warning
      - Tập 10: Into The Gauntlet
      - Tập 11: Vespers Rising

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 1


      NĂM PHÚT TRƯỚC KHI CHẾT, Grace Cahill thay đổi bản di chúc của mình.


      Luật sư của bà mang ra di chúc khác, là bí mật được chôn giấu kỹ càng nhất của bà trong suốt bảy năm qua. Thế nhưng liệu bà có đủ điên rồ để sử dụng đến nó hay William McIntyre vẫn hoàn toàn .


      Ông hỏi, “Bà có chắc , thưa bà?”


      Grace dõi mắt ra ngoài cửa sổ, lướt qua những đồng cỏ đầy ắp nắng của điền trang. Con mèo cưng Saladin nằm cuộn tròn bên bà chủ như nó vẫn hay làm trong suốt thời kỳ bà lâm bệnh, thế nhưng diện của nó hôm nay vẫn đủ để an ủi vị chủ nhân. Bà sắp sửa cho bắt đầu loạt những kiện mà biết đâu điều đó có thể khiến cả nền văn minh của nhân loại chấm dứt.


      “Chắc, ông William ạ.” Mỗi hơi thở bà phát ra đều nhọc nhằn. “Tôi hoàn toàn chắc.”


      William gỡ bỏ niêm phong tệp tài liệu bọc da màu nâu. Đó là người đàn ông cao và xương xẩu. Mũi ông nhọn như chiếc đồng hồ mặt trời lúc nào cũng đổ bóng lên bên khuôn mặt. Ông vẫn luôn là người cố vấn cho bà Grace, là người thân tín nhất cũng dễ tới hơn nửa cuộc đời bà rồi. Trong nhiều năm cả hai sẻ chia với nhau nhiều bí mật, nhưng bí mật nào lại hung hiểm như bí mật này.


      Ông cầm tờ giấy trao cho bà xem lại. cơn ho làm cả người bà sụm xuống. Saladin kêu “meo” vẻ lo lắng. Khi dứt cơn ho, William giúp bà cầm bút. Bà nguệch chữ ký yếu ớt của mình lên trang giấy.


      “Hai đứa còn quá,” William than thở. “Giá như cha mẹ chúng...”


      “Nhưng cha mẹ chúng còn nữa,” Grace cay đắng. “Và giờ bọn trẻ buộc phải trưởng thành hơn. Chúng là cơ hội duy nhất của chúng ta.”


      “Nếu chúng thành công...”


      năm trăm năm công sức coi như thành công cốc,” Grace . “Mọi thứ sụp đổ. Gia đình, thế giới này - tất cả mọi thứ.


      William gật đầu buồn bã. Ông đón lấy tệp tài liệu từ tay bà.


      Grace ngồi dựa vào giường, luồn tay vào đám lông màu bạc của con Saladin. Cảnh tượng bên ngoài cửa sổ khiến bà buồn rười rượi. Chết trong ngày đẹp đẽ như hôm nay hay ho chút nào. Bà muốn picnic lần cuối cùng với bọn trẻ. Bà muốn trẻ trung, đủ khỏe mạnh để chu du khắp thế gian lần nữa.


      Nhưng ánh mắt của bà dần trĩu xuống. Phổi bà cật lực làm việc. Tay bà nắm lấy chuỗi dây chuyền bằng ngọc bích, chiếc bùa may mắn mà bà tìm thấy ở Trung Quốc nhiều năm trước. Nó từng chứng kiến bà trải qua nhiều cuộc chạm trán với tử thần, bao lần thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Nhưng nó còn giúp bà được thêm lần nào nữa.


      phải làm rất nhiều để chuẩn bị cho cái ngày này. Thế nhưng vẫn còn quá nhiều chuyện dang dở... quá nhiều điều bà vẫn chưa kể cùng bọn trẻ.


      “Chuyện rồi đâu vào đấy thôi,” Bà thầm.


      Và với câu đó, Grace Cahill khép lại cặp mắt của mình lần cuối.


      ***


      Khi chắc chắn rằng Grace ra , William McIntyre đến bên cửa sổ và kéo tấm rèm xuống. William ưa bóng tối. Dường như nó hợp hơn với công việc ngay lúc này.


      Cánh cửa đằng sau ông mở ra. Con mèo của Grace rít lên tiếng rồi lủi mất xuống gầm giường.


      William ngoảnh đầu lại. Ông nhìn chữ ký của Grace Cahill tờ di chúc, chính là tài liệu quan trọng nhất trong toàn bộ lịch sử diện của dòng họ Cahill.


      “Giờ sao đây?” giọng cộc cằn cất lên.


      William quay lưng lại. Người đàn ông đứng ngay ngưỡng cửa, khuôn mặt bị bóng tối che khuất, bộ quần áo mặc đen óng như dầu.


      đến lúc rồi,” William đáp. “Hãy làm sao cho bọn họ nghi ngờ điều gì cả.”


      William thể chắc chắn, nhưng ông nghĩ người mặc đồ đen vừa mỉm cười.


      “Đừng lo,” Người kia hứa. “Bọn họ chẳng có tí manh mối nào đâu.”







      CHƯƠNG 2


      DAN CAHILL NGHĨ NÓ CÓ NGƯỜI CHỊ LỚN khó ưa nhất trái đất này. Suy nghĩ đó có trước cả khi chị nó châm lửa đốt béng hai triệu đô la.


      Mọi bắt đầu khi cả hai đến dự đám tang bà của chúng. cách bí mật, Dan thấy hứng thú lắm, vì nó hy vọng lấy được dấu các họa tiết ngôi mộ khi mọi người về hết. Nó nghĩ Grace cũng chả quan tâm. Bà lúc nào cũng là người bà tử tế đó thôi.


      Dan thích sưu tập mọi thứ. Nó sưu tập thẻ bóng chày, chữ viết tay của những tên tội phạm lừng danh, vũ khí từ thời Nội chiến Nam Bắc[1], những đồng xu hiếm và bất kỳ khuôn đúc nào rơi vào tay kể từ hồi nó còn học mẫu giáo (tất cả mười hai tấm). Lúc này, thứ nó muốn sưu tầm nhất là những bản khắc than chì ghi lại các đường nét bia mộ. Ở nhà, nó có vài bản tuyệt vời. Cái nó thích nhất có ghi như sau:


      PRUELLA GOODE


      1891-1929


      TA CHẾT RỒI. HÃY MỞ TIỆC THÔI


      [1] Nội chiến Nam Bắc nước Mỹ(1861-1865) về việc giải phóng nô lệ. Chiến thắng thuộc về quân Liên Bang, chấm dứt hoàn toàn chế độ nô lệ tại Mỹ. (Tất cả các chú thích đều của người dịch)


      Cu chình dung rằng nếu có bản họa tiết bia mộ của bà Grace trong bộ sưu tập, có lẽ nó hoàn toàn cảm thấy bà ra mãi mãi.


      Dù gì , cả đoạn đường từ Boston đến đám tang tại hạt Bristol, bà dì quý hóa Beatrice của nó điều khiển chiếc xe chậm chạp khôn tả lại còn như kẻ tâm thần. Bà cứ chạy ở vận tốc hai mươi lăm dặm giờ đường cao tốc, lấn hết từ làn này sang làn khác khiến những chiếc xe chạy sau bóp còi inh ỏi, quẹo tay lái hay húc thẳng vào vành đai bảo vệ. Bà Beatrice ghì chặt tay lái bằng những ngón tay đầy trang sức óng ánh. Khuôn mặt nhăn nhúm được điểm tô bằng son môi đỏ Day-Glo và phấn hồng dày, làm cho mái tóc xanh của bà càng xanh tợn. Dan tự hỏi biết bà có khiến những lái xe khác đường phát khiếp khi liên tưởng đến những lão hề già khụ hay .


      “Amy à!” Beatrice gắt, khi chiếc SUV phải quặt gấp sang đường thoát hiểm bởi bà dì vừa thắng lại ngay trước mũi nó. “ được đọc sách xe! an toàn đâu!”


      “Nhưng mà, bà Beatrice...”


      “Tiểu thư, đóng quyển sách lại mau!”


      Tất nhiên Amy làm theo. Nó bao giờ chống lệnh người lớn. Amy có mái tóc dài nâu đỏ, khác với mái tóc màu vàng sẫm của Dan. Điều đó khiến Dan có thể hình dung ra chị nó là kẻ giả dạng đến từ hành tinh khác, nhưng rủi thay cả hai lại có đôi mắt giống hệt nhau - xanh như ngọc bích, bà chúng vẫn thường vậy.


      Amy hơn Dan ba tuổi, cao hơn nó những mười lăm phân hơn, và luôn luôn để em mình quên điều đó - như thể mười bốn tuổi là cái gì đó ngon lành lắm. Thông thường Amy mặc quần jeans và chiếc áo thun chữ T cũ vì muốn người khác chú ý tới mình, nhưng hôm nay nó mặc chiếc váy màu đen để dự đám tang, nên nhìn cứ như vị hôn thê của con ma cà rồng.


      Dan mong sao trang phục của chị nó cũng khó chịu hệt như bộ com-lê ngu ngốc nó mặc. Trong khi nó định đến đám tang trong trang phục ninja bà Beatrice ném cho nó bộ đồ này. Bộ đồ nhằm để Grace quan tâm xem Dan có cảm thấy thoải mái và “chết chóc” như cái cách mà nó cảm thấy khi muốn hóa trang thành ninja hay , nhưng tất nhiên bà Beatrice làm sao hiểu được. Nhiều khi nó thấy khó tin bà Beatrice và Grace lại là chị em ruộ


      “Hãy nhắc ta sa thải ả au pair[2] của hai đứa ngay khi về Boston,” Beatrice làu bàu trong miệng. “Hai đứa bây hỏng hết rồi.”


      [2] Au pair là cụm từ ngữ hóa từ tiếng Pháp có nghĩa là “đôi cặp” hoặc “ngang bằng” để chỉ bạn trẻ sống với gia đình nuôi ở nước ngoài dựa cơ sở bình đẳng. Au pair giúp đỡ gia đình chăm sóc trẻ, việc nhà hoặc cả hai trong thời gian sống như người khách của gia đình và thông thường nhận được khoản thù lao (hay tiền tiêu vặt). Au pair thông thường là nữ, nhưng thỉnh thoảng có trường hợp là nam, được đồng ý sống như thành viên của gia đình. Cả hai, Au pair và gia đình, đều tôn trọng những khác biệt văn hóa của nhau và thể hòa nhã với nhau.


      “Nellie rất tử tế đấy ạ!” Dan cự lại.


      “Hừ! Cái ả Nellie suýt nữa cho hai đứa đốt trụi tòa nhà kế bên đó!”


      “Chính xác!”


      Cứ vài tuần lần, Beatrice lại sa thải au pair và thuê người mới. Điều tử tế duy nhất là Beatrice ở cùng chúng. Bà sống bên kia thị trấn trong tòa nhà cho phép trẻ con vào, do vậy phải đến vài ngày sau bà mới biết được những kỳ tích mới nhất của nhóc tì Dan.


      Nellie là người trụ lại lâu nhất. Dan thấy thích làm bánh quế ngon tuyệt cú mèo và thường vặn iPod lên mức dễ làm bại não. Thậm chí còn nghe thấy tiếng bộ sưu tập tên lửa bằng vỏ chai của Dan phóng lên oanh tạc vào tòa nhà bên kia con hẻm. Dan nhớ Nellie lắm nếu bị sa thải.


      Bà Beatrice tiếp tục lái xe và càu nhàu về hai đứa cháu hư thân mất nết. Amy lén quay trở lại với quyển sách bự chảng đọc dở. Hai ngày qua, kể từ khi hay tin Grace mất, Amy bắt đầu đọc nhiều hơn mọi ngày. Dan biết đó là cách chị nó giấu cảm xúc, nhưng nó cũng khá ghét điều đó vì như vậy cũng đồng nghĩa với việc nó bị hất cẳng ra ngoài.


      “Giờ chị đọc gì đó?” Nó hỏi. “Nắm cửa Trung cổ châu Âu? Khăn tắm qua các thời kỳ?”


      Amy làm mặt xấu với em nó - thậm chí còn xấu hơn thường ngày nữa. “ phải chuyện của em, nhãi à.”


      “Chị được gọi chúa tể ninja là nhãi. Chị làm cho thanh danh gia tộc bị ô uế. Chị phải thực seppuku[3].”


      [3] Seppuku: hình phạt tự phanh thây của Nhật, thường áp dụng cho Samurai.


      Amy trợn mắt lên.


      Chỉ sau vài dặm nữa, thành phố chuyển dần sang những cánh đồng xanh rì. Quang cảnh trông giống như điền trang của Grace và mặc dù tự hứa mít ướt nhưng Dan bắt đầu thấy buồn. Grace là người bà tuyệt vời nhất thế gian. Bà cư xử với nó và Amy như những con người thực , chứ phải như hai đứa trẻ. Đó là lý do vì sao bà luôn bảo chúng gọi mình là Grace, chứ phải bà ngoại, ngoại hay bất kỳ cái tên ngớ ngẩn nào tương tự như vậy. Bà nằm trong số ít ỏi những người quan tâm đến hai đứa. Giờ còn, hai đứa trẻ phải đến dự đám tang của bà và gặp mặt lô lốc những gã họ hàng, những người chưa từng tử tế với chúng dù chỉ lần...


      ***


      Nghĩa trang gia đình nằm ở dưới chân ngọn đồi trong trang viên. Dan nghĩ nếu phải thuê chiếc xe tang chỉ để rước di hài của Grace xuống hàng trăm thước bên dưới mới đến lối quả là điều vô cùng ngớ ngẩn. Bọn họ lẽ ra có thể gắn bánh xe vào cỗ quan tài tương tự như với mớ hành lý và cách đó hoàn toàn hiệu quả.


      Những đám mây giông mùa hạ kéo đến giăng kín bầu trời. Cơ dinh của gia đình trông ảm đạm, u ám phía ngọn đồi, như tòa lâu đài của lãnh chúa. Dan thích nơi này, với hàng tỉ căn phòng, ống khói và những ô cửa sổ gắn kính màu.


      Nó còn thích nghĩa trang của gia đình hơn nữa. Hàng chục tấm bia mộ rêu phong rải rác cánh đồng xanh rì được bao quanh bởi cây cối, ngay bên cạnh khe suối . số phiến đá cũ kỹ đến độ các nét chữ đó phai hết theo thời gian. Grace thường dắt nó xuống đây mỗi khi chúng đến thăm bà vào dịp cuối tuần. Khi đó vào những buổi chiều, Grace và Amy nằm xoài tấm vải picnic, cùng đọc sách hay trò chuyện, trong khi Dan khám phá những ngôi mộ, cánh rừng, con suối.


      Thôi nào, Dan tự nhủ. Mày lại bắt đầu tình ca tình cảm rồi.


      “Đông người quá,” Amy lẩm bẩm trong lúc hai đứa đường xuống lối dẫn vào trang viên.


      “Chị sợ chết khiếp khi ở dưới đó chứ?”


      Amy chỉnh lại cổ chiếc váy mặc. “Chị - có đâu. Chị chỉ thấy...”


      “Chị chỉ ghét đám đông,” Dan tiếp hộ chị nó. “Nhưng chị thừa biết đám đông mà. Năm nào bọn họ chả tới đây.”


      Cứ mỗi mùa đông đến, theo những gì Dan còn nhớ được, Grace lại mời những người họ hàng từ khắp nơi thế giới đến tham dự kỳ nghỉ kéo dài tuần. Tòa nhà khi đó đầy ắp những thành viên của họ Cahill đến từ Trung Quốc, , Nam Phi, Venezuela. Hầu hết bọn họ thậm chí còn có tên là Cahill, thế nhưng Grace cam đoan tất cả đều có họ hàng với nhau. Bà thường giải thích về chị em họ đời thứ nhất, chị em họ đời thứ hai, thứ ba rồi tới ba rưỡi cho đến khi đầu của Dan tưởng như sắp nổ tung ra. Amy khi đó lại thường lẻn vào thư viện cùng với con mèo.


      “Chị biết chứ,” Amy đáp. “Nhưng mà... ý chị là, hãy nhìn bọn họ kìa.”


      Con bé có lý. Có đến khoảng bốn trăm người tụ tập tại nghĩa trang.


      “Bọn họ chỉ muốn gia tài của bà thôi.” Dan nhận xét.


      “Dan!”


      “Sao cơ? Đúng vậy mà.”


      Hai đứa vừa nhập vào đám rước bất thình lìnhan trượt chân và ngã lộn nhào.


      “Này!” Nó ré lên.


      “Trông kìa, mọi người,” Tiếng đứa con . “Chúng ta vừa tóm được con chuột nè!”


      ở tư thế dễ dàng quan sát, nhưng Dan có thể nhận ra đó ai khác ngoài hai chị em nhà Holt - Madison và Reagan - đứng ở hai bên và nắm hai ̉ chân nó. Hai đứa song sinh mặc bộ đồ màu tím giống hệt nhau, tóc vàng tết đuôi sam và nhệch miệng ra cười. Hai đứa cũng mười tuổi, trạc tuổi Dan, nhưng việc giữ cu cậu với chúng có gì là khó khăn. Dan lại thấy có thêm nhiều bộ đồ màu tím đằng sau nó - những thành viên còn lại của nhà Holt. Arnold - con chó giống pitbull của nhà Holt chạy quanh và sủa oang oác.


      “Hãy ném nó xuống suối nào,” Madison .


      “Tao muốn quẳng nó vào bụi hơn!” Reagan lên tiếng. “Chúng ta chưa khi nào làm theo ý kiến của tao hết!”


      Thằng Hamilton của hai đứa cười như ngây dại. Cạnh nó là ông bố Eisenhower Holt và bà mẹ Mary Todd đều toe toét cười như thể mọi chuyện hay ho lắm.


      “Coi nào các ,” Eisenhower . “Chúng ta thể ném người ta trong đám tang được. Đây là dịp vui kia mà!”


      “Amy!” Dan gọi. “Cần chút giúp đỡ ở đây nè?”


      Khuôn mặt con bé thoắt chuyển sang tái mét. Nó lắp bắp trong miệng. “Bbbbbbỏ xxxxuống...”


      Dan thở dài tuyệt vọng. “Chị ấy muốn là hãy thả tao xuống!”


      Madison và Reagan làm đúng như vậy - Thả chúi đầu nó xuống.


      “Oái!” Dan la lên


      “Mmmmadison”, Amy phản đối.


      “Cccccái gì?” Madison nhại lại. “Chắc là mớ sách vở kia làm cho mày nhũn não rồi, đồ quái gở.”


      Nếu con bé là ai khác hẳn Dan đánh trả, nhưng nó quá biết về nhà Holt, đến hai đứa nhất là Madison và Reagan cũng có thể nghiền nó ra tương. Cả gia đình đó quả thực rất đỗi trâu bò. Tất cả có những bàn tay ngộn thịt, cổ gấp thành ngấn, còn khuôn mặt bặm trợn như những nhân vật trong G.I. Joe[4]. Thậm chí bà mẹ trông cũng cần phải cạo râu và nhai xì gà.


      [4] Bộ đồ chơi nổi tiếng của hãng Hasbro, Mỹ, cũng là nơi sản xuất bộ đồ chơi robot Transformers. G.I Joe ra đời từ năm 1982, bao gồm các nhân vật cơ bắp và hành động đẹp mắt.


      “Tao hy vọng lũ bỏ chúng mày nhìn kĩ ngôi nhà lần cuối.” Madison . “Tụi bây còn được mời trở lại đây lần nào nữa, khi ả phù thủy già kia ngỏm củ tỏi rồi.”


      Gâu! Con Arnold hầm hè sủa.


      Dan dõi mắt tìm bà Beatrice, nhưng như thường lệ, chẳng bao giờ thấy bà ở gần hai đứa. Bà lủi gặp và chuyện với những người già cả khác.


      “Grace phải là phù thủy,” Dan phản đối. “Và tụi này là người thừa kế nơi đây!”


      Thằng lớn Hamilton nghe thấy và cười hô hố. “Ừa, đúng rồi.” Tóc của nó được chải ngược lên đỉnh đầu, chúng chĩa lên tua tủa như vây cá mập. “Hãy chờ đến khi người ta đọc bản di chúc nhé, đồ thộn. Tự tao tống cổ hai đứa bây ra khỏi nơi này!”


      “Nào, cả đội,” Ông bố lên tiếng. “Như vậy là đủ rồi. Vào đội hình!”


      Cả nhà xếp hàng lại và bắt đầu về phía nghĩa trang, hất hết những họ hàng khác tránh ra khỏi đường “hành quân” bởi Arnold cứ giẫm bừa lên gót chân mọi người.


      “Đầu em sao chứ?” Amy hỏi, giọng đầy áy náy.>

      Dan gật đầu. Nó chỉ hơi bực tí khi Amy giúp gì nó hết, nhưng thể phàn nàn về chuyện đó được. Lúc nào ở xung quanh mọi người con bé cũng bị đớ lưỡi cả. “Trời ạ, em ghét bọn nhà Holt này quá.”


      “Chúng ta có vấn đề còn tệ hơn đây.” Amy chỉ về phía nghĩa trang và tim của Dan như thể rơi tọt ra ngoài.


      “Lũ Rắn hổ mang[5],” Nó lầm bầm trong miệng.


      [5] Nguyên văn “Cobra” nghĩa là Rắn hổ mang, Dan nhại từ, để chế giễu hai em nhà Kabra.


      Ian và Natalie Kabra đứng bên cạnh cỗ quan tài của Grace, trông như những thiên sứ trò chuyện với vị linh mục. Cả hai mặc bộ đồ tang tinh tế làm tôn lên mái tóc đen óng và làn da màu quế. Chúng hoàn toàn có thể trở thành những siêu mẫu trẻ con.


      “Bọn kia giở trò gì trong suốt lễ tang đâu,” Dan vẻ hy vọng. “Chúng chỉ có mặt ở đây để nhận gia tài của Grace như tất cả những kẻ kia mà thôi. Nhưng còn khuya chúng mới có được điều mình muốn.”


      Amy nhăn mặt. “Dan này... em có tin vào điều em vừa mới , rằng chúng ta thừa kế cơ dinh này chứ?”


      “Tất nhiên là vậy rồi! Chị biết Grace thương tụi mình nhất mà. Hai đứa mình gần gũi với bà hơn bất kỳ ai khác.”


      Amy thở dài, như thể Dan vẫn còn quá để hiểu được vấn đề, đây là điều mà Dan rất ghét ở chị nó.


      “Coi nào,” Con bé . “Chúng ta rồi cũng vượt qua tất cả chuyện này.” Và cả hai hòa mình vào đám đông.


      ***


      Đám tang với Dan là thứ gì đó rất mơ hồ. Vị mục sư này nọ về tro bụi. Rồi người ta hạ cỗ quan tài xuống đất. Mỗi người hất ít đất xuống bên dưới huyệt. Dan nghĩ những người đưa tang rất thích công đoạn này, nhất là Ian và Natalie.


      Nó nhận ra thêm vài người họ hàng khác: Alistair Oh, lão người Hàn Quốc già khú với cây gậy chống có đầu nạm kim cương lúc nào cũng muốn chúng gọi bằng bác; ả người Nga Irina Spasky có bên mắt bịt kín lại do đó ở sau lưng, mọi người gọi ả là Nhấp nháy; bộ ba nhà Starling - Ned, Ted và Sinead - trông hệt như thành viên đội Lacrosse[6] của Liên đoàn Ivy được nhân bản vô tính. Thậm chí cả nhóc siêu sao cũng có mặt ngày hôm nay: Jonah Wizard. Gã đứng về phía, để người ta chụp ảnh cùng với lốc con và có cả dãy người xếp hàng chờ chuyện với gã. Cậu chàng ăn mặc hệt như truyền hình, với hàng tá xiềng xích bạc lủng lẳng, quần jeans xé te tua và chiếc áo thun đen bó sát khoe cơ bắp (quả là thậm ngốc khi mà tay này chả có nhúm cơ bắp nào). người Mỹ gốc Phi luống tuổi mặc vest đứng ngay sau lưng cậu chàng, tay bấm miết chiếc BlackBerry. Có lẽ là cha của Jonah. Dan nghe rằng Jonah Wizard có dính dáng đến nhà Cahill, nhưng trước đây nó chưa từng thấy gã bằng xương bằng thịt. Dan tự nhủ liệu nó có thể có bút tích của tay này để bổ sung vào bộ sưu tập của mình hay .


      [6] Môn thể thao dùng vợt để bắt và ném bóng.


      Sau phần nghi thức, người mặc bộ vest xám tro bước lên bục lễ. Trông ông khá quen thuộc với Dan. Người đàn ông có cái mũi dài nhọn hoắt chĩa ra phía trước và quả đầu hói bóng lưỡng. Ông khiến Dan liên tưởng đến con kền kền.


      “Chân thành cảm ơn mọi người có mặt tại đây ngày hôm nay,” Ông cất giọng trang nghiêm. “Tôi là William McIntyre, luật sư và người thừa hành của bà Cahill.”


      “Người thừa hành?” Dan thào với Amy. “Ông ta giết Grace sao?”“ phải, đồ ngốc,” Amy thầm đáp lại nó. “Có nghĩa rằng ông ta là người thực di chúc của bà.”


      “Nếu nhìn vào tập chương trình tay các vị,” William McIntyre tiếp tục, “Vài người trong số các quý vị đây tìm thấy thiếp mời viền vàng.”


      Tiếng lao nhao hào hứng rộ lên giữa đám đông khi tất cả bốn trăm người có mặt nhìn vào cuốn chương trình của họ. Rồi hầu hết bắt đầu chửi rủa và lên tiếng phàn nàn khi tìm thấy gì. Dan đọc cuốn của mình. Bên trong đó có tấm thiếp viền mạ vàng, ghi như sau:





      “Biết ngay mà!” Dan .


      “Tôi cam đoan với quý vị,” McIntyre lên giọng to hơn để át thanh của đám đông tức tối, “Thư mời được chọn ra cách ngẫu nhiên. Tôi rất lấy làm tiếc cho những ai chẳng may được mời tham dự. Bà Grace Cahill hoàn toàn có ý định khinh mạn gì quý vị. Trong tất cả các thành viên của tộc Cahill chỉ có số ít được chọn ra như những người phù hợp nhất.”


      Đám đông bắt đầu la ó và tranh cãi ỏm tỏi. Cuối cùng, Dan thể nào chịu đựng được nữa. Nó hét lên to, “Phù hợp nhất với cái gì chứ?”


      “Trong trường hợp của mày , Dan à,” Ian Kabra đốp lại câu hỏi của Dan ngay từ phía sau lưng nó, “Phù hợp để trở thành thứ giòi bọ nước Mỹ ngu ngốc.”


      Con em Natalie của nó cười khúc khích. này cầm thiệp mời và nom thỏa mãn.


      Trước khi Dan kịp cho Ian cú đá vào chỗ mềm người đàn ông mặc đồ vest xám có câu trả lời. “Để trở thành những người trực tiếp thừa hưởng di chúc của bà Grace Cahill. Bây giờ xin mời quý vị, những ai có thiệp mời trong tay hãy tập trung tại đại sảnh.”


      Những nhân vật có thiệp mời hối hả đến trang viên hệt như có kẻ nào đó vừa mới réo lên “Thức ăn miễn phí đây!”


      Natalie Kabra nheo mắt với Dan. “Ciao[7] người họ hàng. Ta phải chạy đến gom gia tài của mình thôi.” Rồi con và thằng nó bước nhanh đến lối .


      [7] Chào, tiếng Ý.


      “Quên bọn chúng ,” Amy . “Dan ạ, có thể em đúng. Có thể chúng ta được thừa kế cái gì đó.”


      Nhưng Dan lại cau có. Nếu thiệp mời quả tình là thứ gì đó tuyệt vời như vậy, lẽ nào vị luật sư kia trông buồn bã đến thế? Và tại sao Grace cũng để lại tài sản cho bọn Kabra nữa>


      Khi băng qua cổng chính dẫn vào trang viên, Dan ngẩng đầu lên nhìn huy hiệu bằng đá ngay cánh cửa - chữ C lớn bao quanh bởi bốn hình ảnh hơn - con rồng, con gấu, con sói và hai con rắn quấn quanh thanh gươm. Huy hiệu đó vẫn luôn khiến Dan thích thú, mặc dù nó hiểu huy hiệu có ý nghĩa gì. Tất cả các con vật đó như trừng mắt nhìn nó, như thể chúng chực tấn công cậu bé. Nó theo đám đông vào bên trong, tự hỏi cớ gì mà những con thú kia lại giận dữ đến vậy.


      ***


      Đại sảnh có kích thước cỡ sân bóng rổ, với vô số giáp trụ và gươm giáo thẳng tắp thành hàng tường, những cánh cửa sổ lớn cơ hồ người Dơi có thể xông thẳng vào bất cứ lúc nào.


      William McIntyre đứng bên cạnh cái bàn, sau lưng là màn hình máy chiếu, trong khi những người khác lục tục ngồi vào chỗ. Tất cả chừng bốn mươi người, có luôn nhà Holt và nhà Kabra, cả bà Beatrice, người nom như việc diện tại đây là điều gì đó tởm lợm lắm - hay biết đâu bà chỉ thấy kinh tởm vì tất cả những người khác đều được mời đến buổi đọc di chúc của chị mình.


      Ông McIntyre đưa tay lên ra hiệu im lặng. Ông rút từ chiếc cặp đựng hồ sơ bằng da màu nâu ra bộ tài liệu, chỉnh lại cặp kính hai tròng và bắt đầu đọc: “Tôi, Grace Cahill, trong trạng thái hoàn toàn khỏe mạnh và minh mẫn, xin được chia tất cả gia sản của mình cho những người chấp nhận cuộc thử thách và những người chấp nhận.”


      “Cái gì?” Eisenhower Holt cắt ngang. “Thử thách gì? Ý bà ta là sao?”


      “Tôi sắp đọc đến đoạn ấy đây thưa ngài.” Ông McIntyre hắng giọng và tiếp tục. “Các vị được chọn là những người có khả năng thành công cao nhất với trọng trách lớn lao và nguy hiểm nhất mọi thời đại - cuộc tìm kiếm mang tính quan trọng sống còn đối với gia đình Cahill và cả thế giới.”


      Bốn mươi người lên tiếng cùng lúc, đặt ra các câu hỏi và cầu được trả lời.


      “Trọng trách nguy hiểm?” Gã họ Ingrid kêu to. “Bà ta nóiái gì vậy?”


      “Tôi tưởng cái này chỉ về chuyện tiền bạc!” Chú José la lên. “Cuộc tìm kiếm à? Bà ta nghĩ chúng ta là ai? Chúng ta là những người nhà Cahill, đâu phải những kẻ phiêu lưu!”


      Dan để ý thấy Ian và Natalie Kabra trao nhau cái nhìn đầy ý. Irina Spasky thầm điều gì đó vào tai Alistair Oh còn hầu như những người khác trông đều bối rối như Dan.


      “Xin quý vị vui lòng,” Ông McIntyre . “Xin vui lòng hướng chú ý lên màn hình, có lẽ bà Cahill giải thích cho quý vị ràng hơn tôi.”


      Tim Dan đập thình thịch. Cái ông McIntyre đó về chuyện gì thế nhỉ? Rồi chiếc máy chiếu treo trần nhà khởi động phát ra tiếng kêu o o. Những tiếng lao nhao trong phòng im bặt khi hình của Grace sáng lên màn hình.


      Bà Grace ngồi giường với con Saladin trong lòng. Bà mặc chiếc áo dài màu đen như tham dự tang lễ của chính mình. Nhưng trông bà vẫn còn khỏe hơn lần cuối cùng Dan gặp mặt. Nước da vẫn còn hồng hào. Khuôn mặt và đôi tay bà trông còn chưa đến nỗi gầy gò. Đoạn băng này hẳn được quay từ nhiều tháng trước, trước khi căn bệnh ung thư của bà trở nên trầm trọng hơn. Dan thấy cổ họng nghèn nghẹn. cảm giác điên cuồng thôi thúc nó muốn hét lên với bà: Grace, con đây! Là nhóc Dan đây! Nhưng tất nhiên kia chỉ là hình ảnh mà thôi. Nó quay sang nhìn Amy và thấy giọt nước mắt lăn dài cánh mũi bé.


      “Hỡi những người họ hàng nhà Cahill,” Bà Grace . “Nếu các người xem những hình ảnh này có nghĩa là ta chết và ta quyết định dùng đến bản di chúc số hai của mình. có gì ngạc nhiên khi các người gấu ó cãi cọ nhau cũng như làm khó ông McIntyre tội nghiệp về cuộc thi mà ta đưa ra.” Grace nở nụ cười khô khan vào chiếc camera. “Các người luôn là những kẻ cứng đầu. Vì vậy hãy lần câm họng lại và nghe những gì ta .”


      “Ê, chờ cái !” Eisenhower Holt phản đối nhưng bà vợ bịt mồm ông ta.


      “Ta xin đảm bảo,” Bà Grace tiếp, “Cuộc thi này có gì khuất tất. Đây là việc cực kì nghiêm túc và cũng nguy hiểm chết người. Phần đông mọi người biết rằng mình thuộc dòng dõi nhà Cahill, nhưng rất nhiều trong số các người chắc hẳn hề biết rằng gia đình ta lại có tầm quan trọng như thế nào. Xin thưa, những người nhà Cahill có tầm ảnh hưởng tới nền văn minh nhân loại lớn hơn bất cứ dòng họ nào khác trong lịch sử.”


      Thêm nhiều tiếng kêu đầy thắc mắc khác nổ ra. Irina Spasky đứng dậy la lên: “Yên lặng! Tôi muốn nghe!”


      “Hỡi những người họ hàng,” Bà Grace . “Các người đứng bờ vực thử thách lớn nhất. Mỗi người trong số các người đều có khả năng thành công. số có thể lập nhóm với những người khác trong phòng này để theo đuổi cuộc thử thách. số khác có thể tham dự cuộc thi này mình. Hầu hết trong số các người, ta e là thế, từ chối tham dự và cúp đuôi bỏ . Chỉ có duy nhất nhóm thành công và mỗi người phải hi sinh phần thừa kế của mình để tham dự.”


      Bà giơ lên chiếc phong bì màu vàng nhạt được niêm phong bằng xi đỏ. Ánh mắt bà rực sáng và sắt đá. “Nếu chấp nhận, các người nhận được manh mối đầu tiên trong số ba mươi chín đầu mối. Những đầu mối này dẫn các người tới bí mật mà khi tìm thấy, nó khiến cho các người trở thành kẻ có quyền lực và sức ảnh hưởng lớn nhất hành tinh. Các người hiểu ra định mệnh của nhà Cahill. Làm ơn lắng nghe ông McIntyre. Hãy để cho ông ấy giải thích các luật lệ. Hãy suy nghĩ kĩ trước khi lựa chọn.” Bà nhìn thẳng vào camera. Dan muốn bà điều gì đó đặc biệt với hai đứa: Dan và Amy, bà nhớ hai con hơn ai hết. ai trong phòng này thực có ý nghĩa gì với bà. Đại khái như vậy.


      Thay vào đó, bà Grace , “Ta trông cậy vào tất cả các người. Chúc may mắn và xin cáo từ.”


      Màn ảnh trở lại tối đen. Amy bóp chặt tay Dan. Các ngón tay của con bé run lên. Dan cảm thấy như hai đứa vừa mất bà Grace thêm lần nữa. Và sau đó mọi người xung quanh chúng cùng nhao nhao lên lượt.


      “Gia đình vĩ đại nhất lịch sử à?” Gã họ Ingrid hét lên. “Bà ấy bị điên hay sao?”


      “Cứng đầu à?” Eisenhower gào lên. “Bà ta gọi chúng ta là cứng đầu sao?”Ông William!” Tiếng lão Alistair Oh nổi lên giữa đám đông. “Xin cho hỏi! Có những người ở đây mà tôi thậm chí còn chẳng biết họ là ai, những người có thể phải là thành viên của gia đình này. Làm thế nào mà chúng tôi biết...”


      “Nếu ông đứng trong căn phòng này, thưa ông,” Ông McIntyre , “ ông là người nhà Cahill. Họ của ông có phải là Cahill hay chẳng quan trọng. Mọi người ở đây đều mang dòng máu nhà Cahill.”


      “Ngay cả ông à, McIntyre?” Natalie Kabra hỏi bằng thứ giọng ngọt xớt.


      Ông luật sư già đỏ mặt “Điều đó, thưa , nằm trong phạm trù câu chuyện. Còn bây giờ, nếu tôi được phép kết thúc...”


      “Nhưng còn chuyện hi sinh phần thừa kế của chúng tôi sao?” Bà Beatrice phàn nàn. “Vậy tiền đâu? Bà chị tôi chỉ toàn nghĩ ra những điều ngốc nghếch!”


      “Thưa bà,” Ông McIntyre , “Bà hoàn toàn có quyền từ chối tham gia cuộc thi. Nếu chọn cách này bà nhận được những gì ở dưới ghế ngồi của mình.”


      Ngay lập tức bốn mươi người thò tay xuống dưới ghế ngồi của mình. Eisenhower Holt lo lắng đến nỗi nhấc bổng cả chiếc ghế lẫn con bé Reagan ngồi lên. Dan phát ra chiếc phong bì được dính vào bằng băng dính dưới ghế của mình. Khi mở phong bì ra, nó tìm thấy mảnh giấy màu xanh cùng dãy số và cụm từ NGÂN HÀNG HOÀNG GIA SCOTLAND. Amy cũng có cái. Ai trong phòng cũng có cái như vậy.


      “Cái mà quý vị cầm là tấm ngân phiếu,” Ông McIntyre giải thích. “Nó chỉ được kích hoạt nếu quý vị tuyên bố tham gia cuộc thi. Nếu quý vị chọn cách này, mỗi người ra khỏi phòng với triệu đô la và bao giờ phải nghĩ về Grace Cahill hay những mong muốn cuối cùng của bà ấy thêm lần nào nữa. Hoặc là... quý vị có thể chọn đầu mối bí mật, cũng chính là tài sản thừa kế duy nhất quý vị có. xu. bất động sản. Chỉ là dấu hiệu có thể dẫn quý vị tới kho tàng quan trọng nhất thế giới và khiến quý vị trở nên quyền lực sao tượng tưởng nổi...”


      Cặp mắt màu xám của William dường như nhìn đăm đăm vào Dan. “...Hoặc là nó giết chết triệu đô la hay là đầu mối đó. Quý vị có năm phút để quyết định.”

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 3


      AMY CAHILL NGHĨ RẰNG mình có đứa em phiền phức nhất quả đất. Đó là còn từ trước khi nó suýt nữa làm con bé mất mạng.


      Mọi chuyện bắt đầu khi ông McIntyre đọc bản di chúc của bà hai đứa và cho chúng xem đoạn video.


      Amy ngồi đó trong nỗi bàng hoàng. Con bé cầm mảnh giấy màu xanh trị giá triệu đô la. cuộc thi ư? bí mật nguy hiểm ư? Chuyện gì xảy ra đây? Amy nhìn đăm đăm vào tấm màn chiếu trống trơn. Nó thể tin được là bà mình lại làm chuyện như thế này. Theo như dáng vẻ của Grace trong hình, đoạn video chắc chắn phải được quay trước đây nhiều tháng. Nhìn thấy bà lần nữa màn hình khiến lòng con bé xót xa hơn cả cái cảm giác vết thương bị xát muối. Tại sao Grace có thể sắp đặt việc trọng đại dường này mà hề báo trước tí gì cho hai đứa?


      Amy bao giờ mong được nhiều của thừa kế. Tất cả những gì con bé muốn là thứ gì đó gợi nhớ đến Grace - vật lưu niệm chẳng hạn, có thể là món từ những đồ trang sức tuyệt đẹp của bà. Bây giờ tất cả những thứ này... Nó thấy mình hoàn toàn lạc lối.


      Việc Dan cứ nhảy dựng như thể cần vệ sinh cũng chẳng giúp được gì. “ triệu đô la!” Nó ré lên. “Em có thể có được thẻ sưu tầm bóng chày hình Mickey Mantle và tấm hình Babe Ruth từ năm 1914 lận!”


      Cà vạt của Dan vắt cong lên y như cái miệng cười ngoác ra của nó. Nó có vết sẹo dưới bên mắt, hậu quả của cú ngã nhào vào khẩu AK-47 bằng nhựa khi chơi trò đánh trận biệt kích năm lên bảy tuổi. thằng nhóc ma mãnh. Nhưng điều Amy thực bực bội là nó lại tỏ ra thoải mái đến thế, cứ như thể những người kia chẳng làm cho nó bận tâm.


      Amy ghét đám đông. Con bé cảm thấy mọi người đều theo dõi mình, chờ cho nó làm điều gì đó ngu ngốc. Đôi khi ngay trong những cơn ác mộng, nó mơ thấy đứng dưới đáy cái hố sâu và tất cả những người nó biết đều nhìn xuống cười chế nhạo. Nó cố sức trèo thoát khỏi đó nhưng chẳng bao giờ có thể làm nổi.


      Ngay bây giờ tất cả những gì Amy muốn là chạy tới thư viện của Grace, đóng cửa và thu mình lại với cuốn sách. Nó muốn tìm Saladin, con mèo giống Ai Cập của Grace và vuốt ve nó. Nhưng Grace mất, còn con mèo tội nghiệp... ai mà biết được bây giờ nó ở đâu? Con bé chớp chớp đôi mi để gạt những giọt nước mắt còn đọng lại, nghĩ tới lần cuối được nhìn thấy bà mình.


      Con làm bà hãnh diện, Amy à, Grace thế khi hai người ngồi chiếc giường có bốn cọc lớn của bà với con Saladin gừ nhè bên cạnh. Grace cho con xem tấm bản đồ châu Phi vẽ tay và kể các câu chuyện về những chuyến phiêu lưu mà bà trải qua khi còn là nhà thám hiểm trẻ tuổi. Grace lúc đó trông mảnh mai và yếu ớt, nhưng ánh lửa trong mắt bà cháy mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Ánh mặt trời làm mái tóc bà trở nên bạc trắng. Bà có rất nhiều chuyến phiêu lưu, con à, nhưng rồi chúng bị lu mờ trước những chuyến phiêu lưu sau này của con.


      Amy muốn bật khóc. Tại sao Grace lại nghĩ rằng con có thể có những chuyến phiêu lưu lớn được chứ? Nó còn kiếm đủ can đảm để tự đến trường vào mỗi buổi sáng nữa là.


      “Em mua thanh gươm ninja,” Dan vẫn tiếp tục lảm nhảm. “Hoặc là thanh kiếm cong từ thời Nội chiến!”


      “Im , Dan,” Con bé . “Đây là chuyện nghiêm túc.”


      “Nhưng tiền...”


      “Chị biết,” Con bé đáp. “Nhưng nếu chúng ta nhận tiền, chúng ta cần dùng nó vào việc học đại học và các thứ khác. Em biết là bà Beatrice ra sao rồi đó.”


      Dan cau mày. Dường như nó quên mất điều đó. Nó biết thừa rằng bà Beatrice chỉ nhận trông chúng vì Grace. Amy luôn ước rằng Grace nhận nuôi hai đứa sau khi cha mẹ chúng qua đời, nhưng bà làm vậy. Vì vài lý do nào đó mà bà bao giờ giải thích. Grace gây sức ép để Beatrice thay mình trở thành người giám hộ lũ trẻ.


      Bảy năm qua, Dan và Amy sống nhờ vào lòng hảo tâm của bà Beatrice trong căn hộ bé tí với sê-ri những au pair. Bà Beatrice chi trả cho tất cả, song bà cũng phải tốn kém gì nhiều. Amy và Dan luôn có đủ đồ ăn thức uống và những bộ quần áo mới cứ mỗi sáu tháng. Nhưng tất cả chỉ bấy nhiêu. có chế độ đặc biệt gì, trợ cấp. Chúng học ở những trường công bình thường và Amy chưa bao giờ được cho thêm tiền để mua sách. Con bé đọc trong thư viện công cộng hoặc đôi khi lang thang ngoài tiệm sách cũ ở phố Boylston, những người làm công ở đây đều quen biết nó. Dan kiếm được ít tiền từ bộ sưu tập các thẻ bài của nó nhưng cũng chẳng đáng là bao.


      Vào mỗi ngày thường trong suốt bảy năm ròng, Amy đều thấy rầu lòng vì Grace tự mình nhận nuôi chúng, nhưng đến mỗi cuối tuần Amy lại chẳng thể giận bà được. Khi hai đứa đến lâu đài, Grace toàn tâm toàn ý chăm sóc bọn trẻ. Bà đối xử với chúng như những con người quan trọng nhất thế giới. Cứ mỗi khi Amy đủ can đảm để hỏi tại sao chúng thể luôn được ở bên bà Grace lại mỉm cười buồn bã. Có những lý do, con . ngày nào đó con hiểu.


      Bây giờ Grace còn nữa. Amy chẳng biết bà Beatrice làm gì nhưng chúng hoàn toàn có thể sử dụng số tiền này. Điều đó có nghĩa là chúng có được chút ít tự do. Chúng có thể kiếm được căn hộ lớn hơn, có lẽ vậy. Chúng có thể mua những cuốn sách bất cứ khi nào chúng muốn và thậm chí học đại học nữa. Amy mong muốn khủng khiếp rằng nó học đại học tại Harvard. Nó muốn học lịch sử và khảo cổ học. Mẹ chắc thích điều đó.


      Ít nhất... Amy hy vọng là như thế. Amy chỉ biết chút ít về cha mẹ mình. Thậm chí nó cũng chẳng hiểu tại sao mình và Dan lại mang họ Cahill của mẹ trong khi bố của hai đứa họ Trent. Con bé từng hỏi Grace về việc này lần nhưng bà chỉ mỉm cười. “Đó là điều mà cha mẹ con mong muốn,” Bà . Nhưng ngữ khí cứng cỏi của Grace làm Amy thắc mắc liệu có phải chính bà muốn cho hai đứa mang họ Cahill hay .


      Amy gặp khó khăn mỗi khi nhớ lại khuôn mặt của mẹ hay bất cứ điều gì về cha mẹ hai đứa trước cái đêm khủng khiếp họ ra . Và đó là tất cả những gì Amy cố hết sức để nhớ tới.


      “Được rồi.” Dan thủng thẳng . “Tức là em dùng triệu của mình để học đại học. Chị cũng có thể dùng tiền để họ học. Và thế là ai nấy đều vui vẻ.”


      Amy cảm thấy chán nản và thất vọng. Những cuộc tranh cãi nổ ra khắp phòng. Gia đình nhà Holt nhìn giống như tập trận giả. Sinead Starling cho giữ hai đứa em Ned và Ted xa nhau ra để chúng khỏi bóp cổ nhau. Irina Spasky bằng tiếng Nga như bắn súng liên thanh với thằng nhóc ngôi sao ở chương trình truyền hình thực tế, Jonah Wizard, và bố nó. Nhưng với cách mà hai người đó nhìn lại bà ta ràng là họ chẳng biết tí tiếng Nga nào. Những giọng giận dữ vang lên tràn ngập đại sảnh. Cứ như là những kẻ đó xé Grace ra thành từng mảnh , cãi cọ ầm ĩ về gia sản thừa kế của bà. Họ chẳng thèm quan tâm tới việc bà của Amy chỉ vừa mới qua đời.


      Rồi sau đó giọng người vang lên ngay sau lưng bé. “Con từ chối cuộc thi, chắc là thế nhỉ.”


      Đó là Ian Kabra cùng với con em khó chịu của nó, Natalie, đứng bên cạnh. Nhe để chóng lại con bé, Amy thấy bụng mình nôn nao, vì Ian trông rất đẹp trai. Nó có làn da sẫm màu đẹp tuyệt, cặp mắt màu hổ phách và nụ cười hoàn hảo. Nó khoảng mười bốn tuổi, trạc tuổi Amy, nhưng nó ăn mặc giống như thanh niên lớn, trong bộ com-lê và cà vạt bằng tơ. Thậm chí nó còn thơm phức như cây đinh hương. Amy tự giận mình vì để ý đến những điều đó.


      “Tôi rất buồn nếu như có chuyện gì xảy ra với ,” Ian với những thanh gừ gừ trong cổ họng như tiếng của con mèo. “Và lại cần tiền như thế.”


      Natalie đưa tay lên bịt miệng ra vẻ ngạc nhiên. Trong bộ váy sa-tanh, mái tóc đen sang trọng buông ngang vai, nhỏ này nhìn giống như con búp bê to bằng người , “Đúng thế, Ian! Chúng là bọn kiết xác. Sao em cứ hay quên điều đó nhỉ. lạ là sao chúng ta lại có họ hàng với nhau thế biết, hả bọn mày?”


      Amy thấy mặt mình đỏ bừng lên. Con bé muốn điều gì đó cay nghiệt để đáp trả, nhưng thốt ra nổi.


      “Thế à?” Dan . “Có lẽ chúng ta chẳng có họ hàng gì cũng nên! Có lẽ bọn mày là lũ quái thai[1], vì trẻ con thực đâu có ăn mặc như những nhân viên ngân hàng và bay bằng máy bay riêng của bố mình.


      [1] Nguyên văn là “Mutant Alien” - Chỉ những sinh vật ngoài hành tinh với hình dạng tương tự con người, như trong bộ phim Mỹ “Mutant Aliens của Bill Plympton.


      Ian cười mỉm. “Mày hiểu tao rồi, người em ạ. Bọn tao rất mừng cho chúng mày. Bọn tao muốn chúng mày nhận lấy tiền, có cuộc sống tươi đẹp và bao giờ phải nghĩ đến bọn tao nữa.”


      “G-G-Grace.” Amy cố gắng thốt lên, bé ghét những lời tuân theo ý của mình. “G-Grace muốn...”


      Muốn mạo hiểm tính mạng của mình ?” Ian tiếp lời Amy. “Làm sao mà chúng mày biết được? Bà ta có với chúng mày về cuộc thi này từ trước ?”


      Cả Amy và Dan đều trả lời.


      “Tao hiểu,” Ian . “Điều đó hẳn là kinh khủng lắm - cứ nghĩ xem, chúng mày là những người mà Grace quý, thế nhưng lại hoàn toàn bị bỏ trong bóng tối như vầy. Có lẽ là chúng mày chẳng quan trọng với bà già ấy như chúng mày vẫn nghĩ đâu, nhỉ?”


      “Để em, Ian,” Natalie nhiếc móc.”Có lẽ Grace biết thừa là bọn chúng đủ tầm để tham gia cuộc thử thách. Nó có vẻ nguy hiểm đấy.” Natalie cười với Amy. “Bọn tao ghét cảnh phải thấy chúng mày chết cách đau đớn, đúng ? Ta-ta!”


      Bọn nhà Kabra lẩn vào trong đám đông.


      “Ta-ta,” Dan nhại lại. “Bọn kém cỏi.”


      Amy nửa muốn đuổi theo bọn Kabra và đập cho chúng cái ghế vào đầu, nhưng nửa khác con bé lại muốn bò nấp dưới tảng đá. Amy rất muốn bảo chúng cút , nhưng thậm chí nó còn đủ can đảm để mở miệng.


      “Chúng tham gia cuộc thi.” Con bé thào.


      “Ừ, thế đấy!” Dan . “Hai triệu đô la nữa có đáng là gì với chúng. Chúng có thể bỏ được.”


      “Chúng dọa dẫm chúng ta. Chúng muốn chúng ta tham gia.”


      “Có khi chính chúng cái chết đau đớn,” Dan đăm chiêu. “Dù sao em cũng tự hỏi biết kho tàng đó là gì nhỉ?”


      “Có quan trọng ?” Amy hỏi cách cay đắng. “Chúng ta có khả năng tìm ra nó. Chúng ta còn chẳng đủ tiền để mua vé xe buýt nữa kia.”Nhưng Amy vẫn còn phân vân. Grace đặt chân đến khắp nơi thế giới. Liệu kho báu có phải là ngôi mộ ở Ai Cập... hoặc kho tàng của bọn cướp biển ? Ông McIntyre giải thưởng biến người thắng cuộc thành những kẻ quyền lực nhất thế giới. Cái gì có thể làm được như vậy? Và tại sao lại có ba mươi chín đầu mối hơn kém?


      Amy thể lấy làm ngạc nhiên. Nó thích những điều bí . Lúc trước khi còn bé, nó từng giả bộ rằng mẹ vẫn còn sống và hai mẹ con cùng đến các buổi khai quật khảo cổ. Đôi lúc còn có Grace theo nữa, chỉ có ba người với nhau thôi, cùng vui vẻ khám phá thế gian, nhưng đó cũng chỉ là giả bộ ngớ ngẩn.


      “Tệ ,” Dan gầm gừ. “Em muốn tẩy sạch những nụ cười mặt bọn nhà Rắn Hổ Mang đó.”


      Ngay lúc đó, bà Beatrice nắm lấy tay hai đứa. Gương mặt bà méo xệch vì giận dữ và hơi thở của bà phả ra giống như mùi băng phiến. “Hai đứa đừng có làm gì ngu ngốc đấy. Ta nhất định lấy toàn bộ chỗ tiền triệu đô la của mình và hai đứa cũng làm như thế. việc gì phải sợ, ta gửi nó vào tài khoản ngân hàng cho tới khi hai đứa trưởng thành. Ta chỉ tiêu phần tiền lãi thôi. Để đổi lại, ta cho phép hai đứa được tiếp tục nằm dưới bảo trợ của ta.”


      Amy tức phát nghẹn. “Bà... bà cho phép hai đứa tụi con được tiếp tục nằm dưới bảo trợ của bà ấy à? Bà cho tụi con được phép dâng cho bà hai triệu đô la à?”


      Ngay khi thốt ra những lời đó, con bé t lại có thể bật được chúng thành lời. Bà Beatrice thường làm cho nó sợ chết khiếp. Thậm chí cả Dan cũng tỏ ra ngạc nhiên.


      “Coi chừng đấy, quý !” Bà Beatrice cảnh cáo. “Hãy hoàn thành trách nhiệm của mình , còn ...”


      “Còn sao ạ?” Dan hỏi lại với vẻ ngây thơ.


      Gương mặt bà Beatrice chuyển sang đỏ lựng. “Nếu , hai đứa tự phụ tụi bây ạ, ta từ bỏ quyền chăm sóc và giao hai đứa cho dịch vụ xã hội. Hai đứa trở thành những trẻ mồ côi xu dính túi và ta đảm bảo là ai mang họ Cahill giúp đỡ hai đứa thêm lần nào nữa! Cái trò thi thố này là ngớ ngẩn. Hai đứa hãy lấy chỗ tiền của mình và đừng có nhúng tay vào kế hoạch lố bịch của bà chị ta để săn tìm cái...”


      Bà Beatrice đột ngột dừng lại.


      “Cái gì ạ?” Dan hỏi.


      “Mày cần quan tâm.” Bà Beatrice . Amy sững sờ nhận ra bà Beatrice sợ hãi. “Hãy quyết định đúng đắn, hai đứa chẳng bao giờ nhận được giúp đỡ của ta nữa!”


      Bà Beatrice biến mất. Amy nhìn Dan, nhưng trước khi con bé kịp mở miệng ông McIntyre rung cái chuông . Những cuộc tranh cãi trong đại sảnh chầm chậm lắng xuống. Những người tham gia ngồi vào chỗ của mình.


      “Đến lúc rồi.” Ông McIntyre . “Tôi cần phải nhắc cho quý vị nhớ là khi quyết định được đưa ra, còn đường lui nữa. Các vị được phép đổi ý.”


      “Chờ chút , ông Williams,” Alistair Oh . “Như thế là công bằng. Chúng tôi hầu như chẳng biết gì về cuộc thử thách này làm sao chúng tôi biết được liệu nó có đáng ?”


      Ông McIntyre mím môi, “Tôi được phép tiết lộ nhiều, thưa ngài. Ngài cũng biết là dòng họ Cahill là gia đình lớn... và lâu đời. Nó có rất nhiều nhánh. vài người trong số quý vị, cho tới tận hôm nay, vẫn còn chưa nhận ra rằng mình mang họ Cahillư những gì mà bà Grace trong đoạn băng video vừa rồi, gia đình này là nền tảng cho hình thành của nền văn minh nhân loại. vài trong số những người quan trọng nhất lịch sử quả là những người nhà Cahill.”


      Những tiếng thầm xôn xao tràn ngập căn phòng.


      Đầu óc Amy lướt nhanh. Con bé vẫn luôn biết rằng những người nhà Cahill là những người quan trọng. Rất nhiều người trong số họ rất giàu có. Họ sống ở khắp nơi thế giới. Nhưng mà hình thành nên nền văn minh nhân loại ư? Con bé hiểu ông McIntyre muốn gì.


      “Những nhân vật lịch sử à?” Gã Holt la lớn. “Ai nào?”


      Ông McIntyre hắng giọng. “Thưa ngài, xin ngài hãy vui lòng đọc to tên tuổi lớn của lịch sử trong vòng vài thế kỷ trở lại đây mà phải là thành viên của dòng họ này được ?”


      “Abraham Lincoln[2].” Ingrid hô to. “Eleanor Roosevelt[3].”


      “Sai.” Ông McIntyre chỉ đơn giản đáp. “Và sai.”


      Căn phòng lặng vì kinh ngạc.


      “Harry Houdini[4]!” Madison Holt kêu to.


      “Lewis và Clark[5]!” Em nó, Reagan thêm vào.


      [2] Abraham Lincoln (1809-1865): vị Tổng thống thứ 16 trong lịch sử Hoa Kỳ, tại nhiệm từ năm 1861 đến 1865.


      [3] Anna Eleanor Roosevelt (1884-1962): là chính khách Mỹ đồng thời là phu nhân của Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt.


      [4] Harry Houdini (1874-1926): ảo thuật gia người Mỹ gốc Hungagy, chuyên gia đào tẩu, biểu diễn những pha mạo hiểm.


      [5] Là hai nhà thám hiểm Meriwether Lewis và William Clark, dẫn đầu cuộc hiểm bộ đầu tiên của người Mỹ đến duyên hải Thái Bình Dương và ngược lại (từ năm 1804-1806).


      “Sai, sai và sai.” Ông McIntyre .


      “Thôi !” Gã Holt hét lên.” thể như thế được!”


      “Tôi đồng ý!” Chú José . “Ông đùa với chúng tôi sao, ông McIntyre.”


      “Tôi hoàn toàn nghiêm túc.” Ông luật sư già khẳng định. “Và thậm chí tất cả những thành tựu của gia đình Cahill còn đáng kể gì nếu so với thử thách mà quý vị đối mặt. đến lúc để quý vị khám phá ra bí mật trọng đại nhất của những người nhà Cahill, để trở thành những thành viên hùng mạnh nhất trong lịch sử của gia đình - hoặc chết vì nó.”


      Amy cảm thấy có thứ gì đó lạnh lẽo và nặng nề trong dạ dày, giống như thể con bé vừa nuốt nguyên viên đạn đại bác vào bụng. Làm thế nào mà nó lại có quan hệ với tất cả những người nổi tiếng này? Làm sao mà Grace lại nghĩ rằng con bé có thể trở nên quyền lực hơn cả bọn họ? Chỉ nghĩ đến chuyện này nó thấy hoảng sợ. chẳng có cách nào khiến nó có đủ can đảm tham gia vào cuộc truy lùng nguy hiểm này.


      Nhưng nếu nó và Dan nhận lời tham gia thử thách này... Con bé nhớ lại cảnh bà Beatrice tóm chặt lấy tay hai đứa và bảo chúng hãy nhận tiền. Bà Beatrice tìm ra cách để chiếm đoạt hai triệu đô la của chúng. Amy có khả năng chống lại bà ta. Hai đứa phải quay lại căn hộ bé quý của mình và chẳng có gì thay đổi cả, trừ việc bà Grace còn nữa. còn những chuyến dã ngoại cuối tuần để mà mong đợi, chẳng còn gì để nhớ đến bà. Amy chưa từng nghĩ đến điều gì tệ hại hơn có thể xảy ra từ khi cha mẹ con bé ra , nhưng đây chính là điều ấy. Nó và Dan hoàn toàn côi cút. Lối thoát duy nhất là cái ý tưởng điên rồ về việc chúng là phần của gia đình lừng danh trong lịch sử... phần của cuộc thi đấu kỳ bí nào đó. Hai tay Amy bắt đầu đổ mồ hôi.


      “Tham gia vào cuộc truy lùng này,” Ông McIntyre tiếp tục , “ đưa quý vị tới kho báu. Nhưng chỉ có người trong quý vị đoạt được nó. cá nhân duy nhất” - ánh mắt ông luật sư thoáng lướt qua mặt Amy - “hoặc là nhóm tìm được kho tàng. Tôi thể với quý vị thêmì nữa. Ngay bản thân tôi cũng biết là cuộc truy tìm này dẫn đến đâu. Tôi chỉ có thể mở ra con đường cho quý vị, theo dõi tiến triển của quý vị và hướng dẫn hỗ trợ chút ít. Và bây giờ - ai đưa ra lựa chọn đầu tiên?”


      Bà Beatrice đứng dậy. “ lố bịch. Tất cả những ai tham gia vào trò này ngu ngốc. Tôi nhận tiền!”


      Ông McIntyre gật đầu. “ như bà mong muốn, thưa bà. Ngay khi bà rời khỏi căn phòng này, những con số trong tấm phiếu của bà được kích hoạt. Bà có thể rút tiền từ Ngân hàng Hoàng gia Scotland bất kì lúc nào bà thích. Ai là người tiếp theo?”


      vài người đứng lên và nhận tiền. Chú José. Chú Ingrid. đám người khác mà Amy nhận ra. Tất cả những người đó đều nhận những tờ phiếu màu xanh và lập tức trở thành triệu phú.


      Rồi Ian và Natalie Kabra đứng dậy.


      “Chúng tôi chấp nhận tham gia vào cuộc thử thách,” Ian tuyên bố. “Chúng tôi lập nhóm hai thành viên, hãy đưa cho chúng tôi đầu mối đó.”


      “Tốt lắm,” Ông McIntyre . “Xin vui lòng trả lại những tấm phiếu.”


      Ian và Natalie tiến tới chỗ cái bàn, ông McIntyre lấy ra chiếc bật lửa bằng bạc và đốt cháy hai tờ phiếu trị giá bạc triệu. Để đổi lại, ông đưa cho Ian và Natalie chiếc phong bì màu vàng được niêm phong bằng dấu xi đỏ. “Đây là manh mối đầu tiên của quý vị. Xin vui lòng đọc trước cho tới khi được hướng dẫn. Hai người, Ian và Natalie Kabra là nhóm Số .”


      “Này!” Gã Holt phản đối. “Cả gia đình chúng tôi cùng tham gia cuộc thử thách! Chúng tôi muốn mình mới là nhóm Số !”


      “Chúng ta là Số !” Lũ con nhà Holt đồng thanh hô to và con chó ngao Arnold của chúng cũng nhảy cẫng lên, sủa vang cùng lũ trẻ.


      Ông McIntyre giơ tay ra hiệu trật tự. “Tốt lắm, thưa ông Holt. Xin vui lòng đưa ra tất cả những tấm phiếu của gia đình. Các vị là nhóm... tất cả các v nhóm.”


      Bọn họ làm cuộc trao đổi - những tờ phiếu trị giá năm triệu đô la cho chiếc phong bì với đầu mối và những người nhà Holt thậm chí còn chớp lấy con mắt. Trong khi bọn họ diễu hành về chỗ của mình, Reagan huých vào vai Amy. “Dám làm dám chịu, đồ nhát gan!”


      Tiếp theo, Alistair Oh lảo đảo đứng dậy. “Thế đấy. Tôi thể cưỡng lại được câu đố thú vị như thế này. Tôi nghĩ là các vị có thể gọi tôi là nhóm Số Ba.”


      Tiếp theo, lũ sinh ba nhà Starling xông về tới trước. Chúng đặt những tờ phiếu lên bàn và thêm ba triệu đô la nữa bị thiêu ra tro.


      “Da[6],” Irina Spasky . “Tôi cũng chơi trò này. Tôi tham gia mình.”


      “Này, ê, từ từ !” Jonah Wizard khệnh khạng bước lên trước, giả bộ là thằng du côn, theo cái cách mà nó đóng trong phim Ai muốn là tên găng tơ? Điều này nghe ra lố bịch vì nó đáng giá tới triệu đô la và sống ở khu Beverly Hills[7]. “Tôi thích chuyện này.” Nó đập tờ phiếu xuống bàn. “Hãy đưa tôi đầu mối ông bạn.”


      [6] Được, tiếng Nga.


      [7] Beverly Hills là thành phố nằm ở phía Tây của quận Los Angeles, California, Hoa Kỳ, kế cận Tây Hollywood. Đây là nơi ở của nhiều nghệ sĩ nổi tiếng Hollywood và những người giàu có.


      “Chúng tôi muốn quay phim lại cuộc thi,” Bố nó tiếp lời.


      được,” Ông McIntyre .


      “Vì cuộc thi này show truyền hình rất hấp dẫn,” Ông bố , “Tôi chuyện với trường quay về tỉ lệ phần trăm...”


      .” Ông McIntyre đáp. “Đây phải là thứ để mua vui, thưa ông. Đây là chuyện sinh tử


      Ông McIntyre đưa mắt nhìn khắp phòng rồi tập trung vào Amy.


      “Còn ai nữa?” Ông luật sư hỏi. “Bây giờ chính là lúc để lựa chọn.”


      Amy nhận ra rằng nó và Dan nằm trong số những người chưa đưa ra quyết định. Hầu hết 40 khách tham gia đều nhận tiền. có sáu nhóm chấp nhận tham gia cuộc thử thách - tất cả trong số đó đều hoặc là già hơn hoặc là giàu có hơn hay trông có vẻ thành công hơn chúng. Bà Beatrice nhìn hai đứa chòng chọc, tỏ vẻ cảnh cáo về chuyện chúng sắp bị tống cổ. Thằng Ian mỉm cười tự mãn như muốn Có lẽ chúng mày quan trọng với bà già đó như chúng mày vẫn nghĩ, đúng ?Amy nhớ lại con em khó chịu của thằng kia : “Grace biết thừa là chúng nó đủ tầm để tham gia cuộc thử thách!”


      Mặt Amy nóng lên vì xấu hổ. Có lẽ bọn Karba đúng. Khi lũ nhà Holt xách ngược em mình lên, con bé dám chống trả. Khi bị bọn nhà Kabra sỉ nhục, nó cũng chỉ biết đứng đơ ra đó và lưỡi líu hết cả lại. Làm sao nó có thể đương đầu nổi với thử thách nguy hiểm chứ?


      Nhưng sau đó con bé nghe thấy giọng vang lên trong đầu: Amy, con làm ta tự hào.


      Và đột nhiên con bé nhận ra: Đây chính là điều mà Grace vẫn thường hay đến. Đây chính là cuộc phiêu lưu mà Amy tham dự. Nếu như chấp nhận nó con bé phải bò xuống núp dưới tảng đá và lẩn trốn cho đến hết đời.


      Con bé đưa mắt nhìn em mình, dù cho nó có khó chịu đến mức nào nữa chúng vẫn luôn có khả năng hiểu nhau dù chỉ bằng cái liếc mắt. Điều đó chẳng phải là thứ cao siêu gì như thần giao cách cảm, nhưng con bé biết được em mình nghĩ gì.


      Đó là số tiền lớn, Dan bảo với Amy. Rất nhiều tấm bưu ảnh bóng chày tuyệt vời đấy.


      Bố mẹ muốn chúng ta thử, Amy trả lời bằng mắt. Đây là điều mà Grace luôn muốn chúng ta làm.Ừ, nhưng mà tấm hình Babe Ruth hay Mickey Mantle...


      Ian và Natalie ghét điều này, Amy dụ dỗ. Và bà Beatrice tức điên lên.


      nụ cười loang ra mặt thằng nhóc. Em đoán là Babe Ruth có thể đợi được.


      Amy cầm lấy tấm phiếu của em trai. Hai đứa cùng nhau tiến lại phía cái bàn và con bé cầm lấy chiếc bật lửa của ông McIntyre.


      “Chúng tôi tham gia.” Con bé với ông ta và châm lửa thiêu hai triệu đô la thành tro.







      CHƯƠNG 4


      DAN ĐỘT NGỘT CẢM THẤY KHÓ THỞ GHÊ GỚM như hồi nó tọng những hai mươi gói kẹo viên trái cây hiệu Skittles vào bụng. Nó sao tin được là chúng vừa quẳng chừng đó tiền.


      Ngay từ khi còn bé, nó luôn nghĩ làm điều gì đó khiến cha mẹ hãnh diện. Nó biết họ đều còn nữa, hiển nhiên rồi. Và nó cũng còn nhớ gì về hai người. Tuy nhiên... thằng bé nghĩ có thể nó thực được điều gì đó phi thường - thậm chí còn hơn cả việc sưu tập bộ thẻ bóng chày hay trở thành thủ lĩnh ninja - biết đâu bố mẹ cũng hay biết sao. Và họ tự hào. Cuộc tranh đua trở thành thành viên Cahill vĩ đại nhất cơ hội hoàn hảo.


      Thêm nữa nó cũng thích kho báu. Và còn bà dì Beatrice mặt tím rịm lao ra khỏi căn phòng quên đóng sầm cánh cửa sau lưng, đó quả là điểm thưởng .


      Giờ đại sảnh trống trải chỉ còn bảy đội cùng với ông McIntyre.


      Sau hồi yên ắng căng thẳng, vị luật sư cao tuổi lên tiếng, “Mọi người có thể mở phong bì của mình.”


      XOẸT, XOẸT, XOẸT.


      Đầu mối được viết bằng nét chữ đen giấy lụa. Ghi rằng:






      “Là nó đó sao?” Mary-Todd Holt rít lên lanh lảnh. “Chúng ta chỉ nhận được bằng này thôi sao?”


      “Vỏn vẹn mười từ,” Eisenhower Holt làu bàu. “ là...” Gã bắt đầu đếm các đầu ngón tay.


      “Chừng 500.000 đô cho mỗi từ,” Alistair Oh đế vào, “Bởi gia đình các người từ chối năm triệu đô. Còn ta hời hơn, mỗi chữ chỉ tốn 100.000 đô.”


      ngu ngốc!” Madison Holt . “Chúng ta cần có thêm manh mối nữa!”


      “Richard S-,” Ian trầm ngâm. “Đây là ai nhỉ?” Nó nhìn sang nhỏ em và hai đứa mỉm cười như thể cùng nhau giữ trò đùa kín đáo nào đó. Dan chỉ muốn cho hai đứa cú đá.


      “Chờ xem nào.” Bố của Jonah Wizard cau mày lại. “Chẳng lẽ ai cũng có cùng manh mối hay sao? Con trai tôi muốn phải có hợp đồng chuẩn. Đó là tiêu chuẩn mà nó luôn đặt ra.”


      “39 manh mối,” McIntyre tiếp, “Chính là những nấc thang quan trọng dẫn đến mục tiêu cuối cùng. Tất cả đầu mối với các đội đều giống nhau. Cái đầu tiên, cái mà mọi người vừa mới nhận, là đầu mối đơn giản duy nhất trong số đó.”


      “Đơn giản sao?” Alistair Oh nhướng hai hàng lông mày. “Tôi chẳng muốn thấy những cái khó đâu.”


      “Tuy nhiên,” Ông McIntyre nói tiếp, “Có nhiều con đường khác nhau dẫn đến mỗi đầu mối. Các gợi ý và các bí mật đều được chôn giấu sẵn để chờ quý vị phát ra - đầu mối này bắt sang đầu mối khác, nếu quý vị sẵn lòng tiếp tục.”


      “Tôi thấy nhức đầu rồi đây,” Sinead Starling .


      “Làm thế nào hoàn toàn tùy thuộc vào quý vị,” McIntyre tiếp tục. “Nhưng hãy nhớ rằng: Tất cả mọi người đều có cùng mục đích và chỉ duy nhất đội giành được chiến thắng. Tốc độ là quan trọng.”


      Irina Spasky cuộn đầu mối của ả lại, nhét vào ví, rồi ra khỏi phòng.


      Alistair Oh nhăn mặt. “Xem chừng Irina có ý gì rồi phải.”


      Bộ tam nhà Starling chụm đầu lại với nhau. Sau đó như vừa được “khai tâm” tập thể, cả ba đứng bật dậy nhanh đến mức làm hất tung cả ghế ngồi và chạy thẳng ra ngoài.


      Cha của Jonah Wizard lôi nó vào trong góc. Cả hai tranh luận gay gắt trong lúc ông già vẫn ngừng hí hoáy với chiếc Blackberry.


      “Phải nhanh,” Jonah . “Trễ là thua ngay.” Và bọn họ cũng ra.


      Như vậy có ba đội ra khỏi phòng và Dan vẫn chẳng biết được đầu mối có nghĩa như thế nào.


      “Chà.” Ian Kabra vươn vai cách uể oải, như thể nó có hết toàn bộ thời gian thế gian này. “ em quý, sẵn sàng chưa?”


      “Để những tay bà con người Mỹ của chúng ta mất mặt ư?” Natalie mỉm cười. “Bất cứ lúc nào cũng được.”


      Dan thử ngáng chân khi bọn chúng ngang, nhưng hai đứa ranh mãnh bước qua và tiếp.


      “Chuẩn bị!” Gã Holt thông báo. “Cả đội, lập đội hình!”


      Nhà Holt đứng nghiêm tắp lự. Con chó con màu vàng Arnold sủa vang và nhảy cẫng lên xung quanh hai đứa Amy và Dan như muốn táp vào mũi hai đứa.


      “Chúng ta đâu đây, cha?” Hamilton hỏi


      “Ta chưa biết. Nhưng ai cũng hết rồi! Hãy theo bọn họ!”


      Cả đám xếp thành hàng hai ra khỏi đại sảnh, khi đó chỉ còn lại Amy, Dan, Alistair Oh và William McIntyre.


      “Ôi chao,” Alistair thở dài thất vọng. Với bộ vest sẫm màu và chiếc cà vạt lụa, lão khiến Dan hình dung ra hình ảnh người quản gia. tay quản gia nắm trong mình bí mật nào đó. Đôi mắt lão như cười, dẫu điều đó hề xảy ra. “Ta nghĩ mình nên rảo quanh khu này để nghĩ ngợi vậy.”


      Dan biết ơn vì lão khỏi. Alistair chừng như là người tử tế nhất trong cuộc thi tài này, nhưng vẫn là đối thủ cạnh tranh.


      Dan nhìn lại đầu mối tay, bức bách hơn bao giờ hết. “Resolution. Chữ in . Richard S-. Em hiểu gì ráo.”


      “Ta được phép gợi ý cho bất kỳ đầu mối nào.” Ông McIntyre cố nặn nụ cười nhạt tếch. “Nhưng bà Grace rất vui vì các cháu chấp nhận tham gia cuộc tranh tài này.”


      Amy gật đầu. “Tụi con chẳng có cửa, đúng ông? Nhà Kabra và Starling giàu có. Jonah nổi tiếng. Nhà Holt lại giống những con quái vật tiêm steroid[1]. Alistair và Irina quá là - biết sao nữa - thạo đời. Còn Dan và con lại...”


      [1] Chất kích thích tăng trưởng.


      “Có những tài năng khác,” Ông McIntyre kết thúc câu dang dở. “Và ta chắc rằng hai đứa tìm ra thôi.”


      Dan đọc lại đầu mối. Nó chỉ nghĩ đến những chiếc thẻ bóng chày, các lá thư và bút tích của người nổi tiếng.


      “Chúng ta buộc phải tìm cái gã Richard này,” Nó quả quyết. “Nhưng tại sao họ của gã chỉ có chữ S-?


      Mắt Amy chợt sáng lên. “Khoan nào. Chị nhớ vào hồi thế kỷ 18 người ta thường làm như vậy. Họ chỉ dùng chữ cái khi muốn giấu tên mình .”


      “Hử,” Dan . “Vậy cũng giống khi em A - mặt mâm như đít khỉ, chị thể biết là em tới ai, phải ?”


      Amy nhéo tai Dan cái.


      “Oái!”


      “Hai đứa,” Ông McIntyre ngăn chúng lại. “Hai đứa có thừa kẻ thù để còn phải gấu ó với nhau đâu. Hơn nữa,” Ông cúi nhìn chiếc đồng hồ vàng bỏ túi, “Chúng ta còn nhiều thời gian và có điều ta phải với hai con, điều mà bà muốn hai đứa biết.”


      “Mách nước riêng hả ông?” Dan háo hức.


      lời cảnh báo, tiểu chủ Dan à. Con thấy đó, tất cả những thành viên Cahill - nếu họ biết mình chính là người của dòng họ Cahill - đều thuộc vào trong bốn chi tộc chính.”


      Amy đứng thẳng ngay người lại. “À, con nhớ rồi! Grace từng kể cho con nghe lần.”


      Dan cau mày lại. “Khi nào?”


      “Vào buổi chiều, trong thư phòng. Hai bà cháu trò chuyện với nhau.”


      “Vậy mà bà lại với em!”


      “Có thể lúc đó em để ý nghe! Có bốn chi. Ekaterina, Janus... à, đúng rồi, Tomas và Lucian.”


      “Chúng ta thuộc về tông nào?” Dan thắc mắc.


      “Chị cũng biết nữa.” Amy nhìn McIntyre cầu cứu, nhưng Dan hiểu được từ giọng của ông có điều gì đó ông vẫn giữ lại chưa muốn ra. “Tuy nhiên, hai đứa à, có điều khác... à, nhóm khác mà hai con cũng nên biết. phải là bốn chi của họ Cahill, mà là nhóm người khiến chuyến phiêu lưu của tất cả trở nên khó khăn hơn.”


      “Ninja sao?” Dan lại hào hứng.


      an toàn đến thế đâu,” Ông McIntyre bảo. “Ta chỉ được với hai con rất ít về nhóm người này. Thành ta chỉ biết được cái tên và vài chuyện bất trắc. Nhưng các con phải dè chừng những kẻ này. Đó là lời cảnh báo sau cùng của bà, là điều mà Grace buộc ta hứa chỉ với hai con khi cả hai chấp nhận cuộc thử thách này: Hãy dè chừng Madrigal.


      luồng khí lạnh trườn qua sống lưng Dan. Nó chắc vì sao như vậy. Cái tên Madrigal nghe cũng thấy ác độc rồi. “Nhưng mà ông McIntyre ơi, ai...”


      “Con trai à,” Người đàn ông . “Ta thể gì thêm nữa. Ta nới luật chơi ra để có thể hết những gì ta phải . Chỉ cần hai đứa hứa với ta điều, chớ tin ai hết. Hãy làm như ta . Vì chính an toàn của cả hai.”


      “Nhưng thậm chí tụi con còn biết bắt đầu từ đâu nữa!” Amy cự lại. “Mấy người kia lao ra ngoài như thể họ biết phải làm gì. Tụi con muốn biết câu trả lời!”


      McIntyre đứng yên. Ông gập cặp đựng tài liệu bằng da lại. “Ta phải quay về văn phòng đây. Nhưng hai đứa thân mến, có lẽ hai đứa nên tìm cho mình con đường hoàn toàn khác với những đội còn lại. Thông thường để có câu trả lời hai đứa làm gì?”


      “Con đọc sách.” Amy há hốc miệng. “Thư viện! Phải rồi, thư viện của Grace!”


      Con bé chạy nhanh ra khỏi đại sảnh. Như thường lệ, Dan lao theo với vẻ hứng thú khi chị nó về việc đến thư viện. Nhưng lần này, nó làm như vậy.


      ***


      Thư viện nằm ngay cạnh phòng ngủ của Grace. Đó là thư phòng nằm chìm rất lớn đan dày những kệ sách. Dan nghĩ đáng sợ nếu để Amy trở lại nơi này mình, nhất là khi Grace vừa qua đời chiếc giường bốn cọc chỉ ở phòng bên cạnh. Nó những tưởng là các căn phòng ở đây tuyền màu đen, có những tấm trải phủ lên bàn ghế như thường thấy trong phim, thế nhưng hóa ra thư viện lại là nơi sáng sủa, lộng gió và vui tươi như nó vẫn thế từ trước tới giờ.


      Điều này có vẻ đúng lắm với Dan. Khi Grace còn, cả trang viên cũng phải tăm tối và đáng sợ - theo kiểu mà nó vẫn cảm nhận. Dan nhìn chăm chú vào chiếc ghế bọc da bên cạnh cửa sổ và nhớ rằng nó từng lần ngồi đó, đùa với con dao găm bằng đá rất ngon lành mà nó vừa vớ được từ cái kệ trưng bày khóa lại. Grace xuất khẽ khàng đến nỗi nó chưa kịp nhận ra đứng ngay bên cạnh. Thay vì tức giận, bà quỳ xuống cạnh nó. Con dao này từ vùng Tenochtitlán[2], bà kể.Những chiến binh Aztec dùng nó để tiến hành những cuộc hiến sinh. Họ cắt lìa từng bộ phận của kẻ thù mà họ cho đó là nơi lưu giữ tinh thần chiến binh. Sau khi chỉ cho nó thấy con dao ấy bén đến mức nào, bà để yên nó ở đó. hề khuyên nó phải cẩn thận. Cũng giận dữ vì đứa nhóc chạy vào phòng riêng của mình. Bà xử cứ như tò mò của nó là hoàn toàn bình thường - thậm chí là còn đáng khâm phục nữa.


      [2] Thành phố kinh đô của người Aztec (Mexico), thành phố ấn tượng với các kênh đào, dinh thự, kim tự tháp và nhà cửa, thậm chí có cả sở thú. Năm 1500, có thể có hơn 200.000 người sống ở Tenochtitlán và nơi đây trở thành thành phố lớn nhất thể giới thời bấy giờ.


      Chẳng có người lớn nào hiểu về Dan như thế. Nghĩ về điều đó trong lúc này, Dan cảm thấy như có ai đó cắt phăng tinh thần của nó vậy.


      Amy bắt đầu lục tìm sách trong thư viện. Dan cố giúp, nhưng nó biết phải giúp gì, nên đâm chán ngay. Nó xoay quả địa cầu cũ kỹ, đó có những vùng biển màu nâu, những châu lục được tô màu kỳ dị, tự nhủ xem vật này có trở thành quả bóng bowling ngon lành hay . Rồi nó chợt phát ra điều mà từ trước đến nay nó chưa bao giờ thấy bên dưới Thái Bình Dương - chữ ký.


      Grace Cahill, 1964.


      “Vì sao Grace để lại bút tích của bà thế giới nhỉ?” Nó thắc mắc.


      Amy liếc qua. “Bà chính là người vẽ bản đồ mà. người làm bản đồ, nhà thám hiểm. Chính bà tự làm quả địa cầu em cầm đó.”


      “Sao chị biết?”


      Amy trợn mắt. “Vì chị nghe chuyện bà kể.”


      “Hử?” Điều này Dan chưa hề biết đến. “Vậy bà khám phá những đâu?”


      giọng đàn ông cất lên, “Khắp mọi nơi.”


      Alistair Oh chống gậy ở lối , mỉm cười với cả hai. “Bà của hai đứa thám hiểm khắp các châu lục, Dan ạ. Khi tròn hai mươi lăm tuổi, bà thông thạo được sáu thứ tiếng, sử dụng giáo, boomerang hay súng trường giỏi như nhau, có thể tự tìm đường ở hầu hết các thành phố lớn thế giới. Bà còn biết rành về thành phố Seoul của ta hơn chính ta nữa. Rồi, vì nhiều lý do nào đó, bà quay lại Massachusetts sống cuộc sống yên bình. người phụ nữ bí - Grace là vậy đó.”


      Dan muốn nghe nhiều hơn nữa về thuật sử dụng boomerang của Grace. Nghe quá chừng! Nhưng Amy lại bước ra xa khỏi kệ sách. Mặt nó đỏ bừng. “A-Alistair. Ô... ông muốn gì?”


      “Ôi, đừng để ta xen ngang hai đứa. Ta có ý định làm gián đoạn đâu.”


      “Dạ, nhưng... mà ở đây chẳng có gì cả,” Amy lặp bặp. “Con chỉ hy vọng là... con nữa. thứ gì đó con chưa từng thấy ở nơi này trước kia, thế nhưng con đọc gần như tất cả chỗ sách ở đây. Và chẳng có tí gì về Richard S- hết.”


      “Hai đứa thân mến, ta có thể gợi ý chăng? Chúng ta cần có liên minh.”


      Dan nghi ngờ ngay lập tức. “Vì sao ông lại muốn làm đồng minh hai đứa trẻ chứ?”


      Alistair cười khúc khích. “Hai đứa có trí tuệ và sức trẻ, có cách nhìn nhận việc mới mẻ. Ta lại có của cải và tuổi già. Ta có thể thuộc số những thành viên nhà Cahill ưu tú nhất, nhưng ta thay đổi thế giới này theo cách rất nhoi của mình. Hai đứa có biết nghiệp ta có được là nhờ những phát minh của mình ? Hai đứa có biết ta chính là người phát minh ra món burrito chế biến bằng lò vi sóng?”


      “Wow,” Dan . “Chấn-động làm sao.”


      cần thiết phải khen ngợi ta. Vấn đề ở đây là ta có những của cải của riêng mình. Và hai đứa tài nào du lịch vòng quanh thế giới mình được, hai đứa biết mà. Cả hai cần có người lớn cùng.”


      Vòng quanh thế giới ư?


      Dan chưa hề nghĩ đến điều này. Thậm chí nó còn được phép tham gia buổi điền dã của học sinh lớp bốn đến thành phố New York mùa xuân năm rồi chỉ vì cho kẹo bạc hà mentos vào lon coca-cola của thầy giáo người Tây Ban Nha[3]. Ý nghĩ đầu mối này mang cả hai vòng quanh thế giới khiến nó thấy lâng lâng đôi chút.


      [3] Kẹo bạc hà Mentos khi cho vào nước coca-cola tạo phản ứng hóa học có thể sủi bọt cao phụt lên trung, thậm chí gây ra tiếng nổ.


      “Nhưng mà - nhưng mà chúng ta đâu có được giúp nhau,” Amy . “Mỗi đội đều riêng lẻ với nhau kia mà.”


      Alistair mở rộng hai bàn tay ra. “Chúng ta thể cùng thắng. Nhưng thử thách này có thể mất nhiều tuần, thậm chí là nhiều tháng. Cho đến khi kết thúc, chắc chắn chúng ta có thể hợp tác chứ? Đằng nào chúng ta cũng là người nhà, đúng nào?”


      “Vậy hãy giúp hai đứa con liền bác,” Dan quyết. “Ở đây chẳng có gì về Richard S- hết. Vậy chúng ta tìm ở đâu đây?






      Alistair nện cây gậy lộp cộp vào sàn nhà. “Grace là người kín tiếng. Nhưng bà ấy lại mê sách. Rất mê. Và con đúng đó, Amy. Ở đây mà chỉ có chừng này sách kể cũng lạ.”


      “Ông cho rằng bà vẫn còn sách sao?” Amy đưa tay bụm miệng lại. “... thư viện bí mật ư?”


      Alistair nhún vai. “Đây là biệt thự rất to. Chúng ta có thể chia nhau tìm.”


      Nhưng Dan chợt phát ra cái gì đó - trong những chi tiết rời rạc vốn thường thu hút chú ý của nó. tường, ngay nóc kệ sách có huy hiệu bằng thạch cao tựa như cái nằm cửa dẫn vào tòa nhà: chữ C trang nhã bao quanh bởi bốn biểu tượng - con rồng, con gấu, con sói và đôi rắn quấn quanh thanh gươm. Nó nhìn thấy thứ này dễ đến cả triệu lần rồi, thế nhưng chưa khi nào nó để ý rằng ở các huy hiệu hơn lại có những ký tự khắc vào ngay chính giữa - E, T, J, L.


      “Lấy giùm con cái thang,” Nó .


      “Cái gì?” Alistair hỏi lại.


      có gì đâu,” Dan quả quyết. Nó trèo lên kệ, làm đổ hết những quyển sách và những món trang trí đó.


      “Dan kia, xuống ngay!” Amy ngăn nó lại. “Em té và gãy tay nữa cho coi!”


      Dan chạm tay vào huy hiệu và nó biết mình phải làm gì. Những chữ cái kia hõm sâu hơn vào bên trong, như chúng được chạm vào rất nhiều lần.


      “Amy ơi,” Nó vọng xuống, “Tên của bốn chi tộc là gì, nhắc lại ?”


      “Ekaterina,” Amy trả lời. “Tomas, Janus, Lucian.”


      “Ekaterina,” Dan lặp lại và ấn vào chữ E. “Tomas, Lucian, Janus.”


      Khi nó ấn vào chữ cái cuối cùng, cả chiếc kệ bật hẳn ra ngoài. Dan phải nhảy tránh sang bên để mình bị kẹp dẹp lép thành chiếc sandwich sách.


      Chỗ của chiếc kệ bây giờ là cầu thang tối dẫn xuống bên dưới.


      “Là lối bí mật,” Lão Alistair lên tiếng. “Dan ạ, ta ấn tượng về con.”


      “Có thể nguy hiểm lắm!” Amy .


      “Phải,” Dan đồng ý. “Mời quý trước.”

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 5


      LẼ RA AMY CÓ THỂ SỐNG SÓT TRONG THƯ VIỆN BÍ MẬT. Thế nhưng trái lại, nó suýt chết trong đó.


      Nó dẫn đường leo xuống các bậc thang và há hốc miệng khi thấy toàn bộ số sách ở đây. Chúng cứ nối tiếp nhau dài vô tận. Nó từng cho rằng thư viện công cộng ở Quảng trường Copley là to nhất thế giới, nhưng cái này thậm chí còn lớn hơn. Trông nó ra dáng thư viện hơn. Những chiếc kệ làm bằng gỗ sẫm màu, những quyển sách cũ kỹ có bìa bọc da với tiêu đề được mạ vàng dọc theo gáy sách. Trông như những quyển sách này được dùng qua nhiều thế kỷ. Sàn nhà trải tấm thảm phương Đông. Những chiếc ghế đệm được đặt rải rác khắp phòng để có thể ung dung ngồi đọc sách bất cứ chỗ nào. Những tấm bản đồ, những trang sách ngoại cỡ được trải ra mấy cái bàn lớn. Ở bức tường là dãy tủ hồ sơ bằng gỗ sồi và chiếc máy tính khổng lồ với ba màn hình, giống như chiếc máy họ vẫn sử dụng ở trung tâm NASA. Những chân nến thủy tinh treo cao phía trần nhà hình vòm cho nhiều ánh sáng, ngay cả khi căn phòng nằm hoàn toàn dưới lòng đất. Cả bọn phải quãng xa mới xuống được nơi này và cửa sổ nào hết.


      “Nơi này tuyệt!” Amy chạy ùa vào c


      “Sách kìa,” Dan . “Ây da.” Nó chạy đến bên chiếc máy tính, song màn hình đứng ì ra đòi nhập mật khẩu. Nó táy máy thử vài ngăn kéo tủ hồ sơ, nhưng tất cả đều khóa kín.


      Alistair thận trọng lấy tập giấy kẹp trong bìa đỏ ra khỏi kệ. “Tiếng Latin. Chiến dịch của Caesar ở xứ Gaul[1] chép lại giấy da cừu. Nom như được nhà sao chép viết lại vào khoảng, xem nào, năm 1500.”


      [1] Xứ Gaul (tiếng Latin: Gallia): tên của xứ thời trung cổ Tây Âu, bao gồm những vùng ngày nay là Pháp, Bỉ, phía Tây Thụy Sĩ, phần Hà Lan và phần Đức phía Tây mạng sông Rhine. Trong lịch sử nơi này từng bị La Mã đô hộ sau 6 năm liền giao tranh dưới chỉ huy của Cesar. Đến năm 476, đế quốc La Mã phía Đông cuối cùng cũng sụp đổ dưới gót chân những người Gaul.


      “Nó đáng giá cả gia tài đó,” Amy .


      Dan bất chợt hứng thú hơn. “Chúng ta có thể bán chúng, đúng nào? Như là, eBay chẳng hạn?”


      “Thôi nín ông Dan. Những thứ này là vô giá đấy.” Con bé di các ngón tay lên hàng gáy sách - Machiavelli, Melville, Milton. “Chúng được xếp theo chữ cái tên tác giả. Chúng ta hãy tìm khu vực chữ S!”


      Bọn họ tìm ra, nhưng đó lại là thất vọng. Có những mười kệ sách chứa mọi thứ từ Tuyển tập kịch đầu tiên của Shakespeare đến Toàn bộ ca từ của ca sĩ Bruce Springsteen[2], thế nhưng có cuốn nào mang tên Richard.


      [2] Ca sĩ nhạc rock nổi tiếng người Mỹ, tác giả của bài hit nổi tiếng Born in the U.S.A.


      “Có gì đó...” Amy lẩm nhẩm. Cái tên Richard S- cùng chữ Resolution cứ đeo bám con bé. Hai thứ này cùng, nhưng nó biết vì sao lại như vậy. Điều đó khiến Amy phát điên đến độ chẳng còn nhớ gì nữa. Nó đọc nhiều sách tới mức nhiều lúc chúng cứ nháo nhào lên trong đầu.


      Đoạn nó nhìn xuống lối . Ở cuối kệ sách, nằm cuộn chiếc hộp đặt bên cái bàn người bạn cũ.


      “Saladin!” Amy la lên.


      Con mèo mở cặp mắt xanh lá của mình và trả lời “Grừ”, chút ngạc nhiên, cứ như hỏi: Ồ, là chị hả? Có mang cho tui món cá hồng vậy?


      Amy và Dan chạy đến bên nó. Saladin có bộ lông đẹp nhất mà Amy từng biết đến - những đốm màu bạc như con báo tuyết tí hon. Chà... cũng đến nỗi tí hon cho lắm, vì ra nó cũng khá lớn, với những móng vuốt bự chảng và chiếc đuôi sọc dài.


      “Saladin, mày làm gì ở đây vậy?” Amy vuốt sống lưng nó. Con mèo nheo mắt lại và thích thú khẽ gừ lên. Amy biết nó cũng chỉ là con mèo thôi, nhưng gặp được nó làm con bé hạnh phúc đến phát khóc. Như thể phần của Grace vẫn còn diện.


      “Nào, Saladin,” Dan . “Mày ngồi cái gì đó?”


      “Meo,” Saladin bực dọc lúc Dan nhấc nó lên. Bên dưới là chiếc hộp gỗ mahogany bóng loáng, nắp có khắc hai chữ cái GC được mạ vàng.


      Tim Amy thắt lại. “Đó là hộp nữ trang của Grace!”


      Amy mở nắp, bên trong là những món trang sức cá nhân của Grace, những món nó thích từ tấm bé. Grace vẫn thường cho nó chơi với mấy thứ này - vòng tay ngọc trai, chiếc nhẫn kim cương, cặp hoa tai ngọc lục bảo. Mãi sau này Amy mới biết đây là đồ - đáng giá hàng ngàn đô la.


      Amy ứa nước mắt. Giờ tìm ra con Saladin và chiếc hộp nữ trang, nó thấy như thể mình đứng ngay nơi bí mật nhất của Grace. Nó nhớ bà đến nỗi ý nghĩ đó khiến nó trở nên đau nhói. Rồi Amy nhặt mẩu trang sức vô cùng quen thuộc ra khỏi chiếc hộp


      “Ôi trời,” Alistair thốt lên. “Đó có phải là chuỗi dây chuyền Grace thích nhất ?”


      Lão đúng. Amy chưa bao giờ thấy bà mang sợi dây chuyền này - mười hai miếng ngọc bích được chạm khắc công phu với tấm mề đay hình rồng màu xanh lá ở ngay chính giữa. Grace gọi đó là tấm bùa may mắn của mình.


      Amy chạm vào hình rồng ở giữa. Nó tự hỏi biết tại sao Grace lại được chôn cất cùng với món đồ này. Điều đó phải.


      “Này!” Dan gọi. “Hãy nhìn này!”


      Amy thấy nó ở góc phòng, vừa ôm con Saladin vừa chăm chú nhìn vào tấm bản đồ áp tường khổng lồ đầy những chiếc ghim. Những chiếc ghim này có năm màu khác nhau: đỏ, xanh, vàng, xanh lá cây và trắng. Dường như mỗi thành phố lớn thế giới đều có ít nhất chiếc ghim màu như vậy. Có chỗ lại chỉ ghim những chiếc màu đỏ, chỗ khác màu xanh lá hoặc xanh, có nơi lại đính nhiều màu ghim khác nhau.


      “Bà cho dán bùa khắp cả thế giới này!” Dan .


      phải đâu, ngốc ạ,” Amy chỉnh lại thằng bé. “Đây hẳn là những dấu mốc. Chúng chỉ cho chúng ta biết thứ gì đó nằm ở đâu.”


      “Chẳng hạn như là?”


      Amy lắc đầu biết. Nó thấy tấm bản đồ này đáng sợ. “Có lẽ cái gì đó về những thành viên nhà Cahill chăng?” Nó ngoảnh sang nhìn Alistair.


      Lão chau mày. “Ta cũng chẳng biết nữa hai đứa ạ. Hết sức tò mò đây.”


      Nhưng ánh mắt của lão nhìn vào mắt nó và Amy có cảm giác lão giấu điều gì đó.


      “Hãy nhìn châu Âu kìa,” Dan . “Và cả bờ Đông nữa.”


      Đó là những nơi được đánh dấu dày đặc cả năm ghim màu các loại. Amy thể nào nhìn thấy được các thành phố nằm bên dưới. Nếu những chiếc ghim kia là tượng trưng cho những thành viên Cahill, tấm bản đồ trông như thể bọn họ bắt đầu đâu đó tại châu Âu và tỏa khắp thế giới, xâm chiếm rất nhiều thuộc địa ở vùng Bắc Mỹ.


      Nhưng rồi nó lại nghĩ: Châu Âu. Thuộc địa. Bắc Mỹ. Cái tên Richard S- lại bắt đầu bám vào óc nó, cố tìm đường để trồi ra ngoài. cái tên từ tận thế kỷ 18, của ai đó viết về thứ gọi là resolution...


      Bất thình lình, nó xoay người lại và chạy thẳng xuống những kệ sách.


      “Này!” Dan gào lên, trong lúc con Saladin nhoai người bật ra khỏi tay nó. “Amy, chị đâu vậy hả?”


      “Hàng Fs!” Amy trả lời.


      “Sao cơ? Ý chị là thất bại[3] sao?”


      [3] Dan tưởng rằng Amy nói “Fs” nghĩa là nói tắt của từ “fail” (thất bại).


      Amy chạy đến kệ chữ Fs và ngay lập tức nó tìm thấy: quyển sách rất , rách nát như muốn tan vụn ra. Bìa sách được trang trí bằng loại chữ in khắc gỗ màu đỏ-trắng mà những nông dân thời Thuộc địa[4] vẫn hay dùng. Tựa sách sờn, nhưng nó vẫn nhận ra được: NIÊN GIÁM CỦA RICHARD NGHÈO KHÓ, cho năm 1739, tác giả Richard Saunders[5].


      [4] Thời kỳ nước Mỹ bị thực dân đô hộ trước khi giành độc lập vào năm 1776.


      [5] Richard Saunders, hay Poor Richard, là bút danh của Benjamin Franklin khi viết cuốn Poor Richard Amanack. Poor Richard là nhân vật do Franklin tưởng tượng ra - triết nhân, đơn giản, chất phác, ngoan đạo, điềm đạm, nhưng khôn ngoan, mặc dù hề đến trường nhưng luôn có những lời khuyên dí dỏm mà thực dụng về cần cù và lối sống giản dị.


      “Chính là nó rồi!” Alistair thốt lên. “Rất giỏi, các cháu cưng. là rất giỏi!”


      Amy cảm thấy thẹn thùng bởi niềm tự hào, dù chính mình chứ phải ai khác tìm ra câu trả lời.


      “Chờ ,” Dan . “Nếu là do Richard Saunders viết, tại sao nó lại nằm ở dưới chữ F này?”


      “Richard Saunders chỉ là bí danh,” Alistair giải thích.


      Dan nhíu hai hàng lông mày lại. “ cái chân giả sao[6]?”


      [6] Dan nhầm giữa từ pseudonym (bút danh) và pseudopod (chân giả).


      Amy muốn xông tới siết cổ nó, nhưng Alistair từ tốn lên tiếng. “ đâu cháu cưng. Con nghĩ tới chữ chân giả. Nhưng bí danh là cái tên giả, bút danh của tác giả, cách để nhà văn giấu tung tích của mình. Quyển sách này được người rất nổi tiếng viết.”


      “Chính là Benjamin Franklin[7],” Amy trả lời. “Năm ngoái con có làm bài báo cáo về ông ấy.”


      [7] Benjamin Franklin (1706 - 1790): Nhà ngoại giao, nhà phát minh, học giả, tác giả, người đồng sáng tác độc lập của Hoa Kỳ.


      Nó giở quyển sách ra. Chữ viết được in bằng chữ in hoa có rất ít dấu câu, do vậy rất khó đọc, nhưng lại có rất nhiều đồ thị, minh họa, cột số. “Đây là tác phẩm nổi tiếng nhất mà Franklin từng xuất bản. Richard nghèo khó chỉ là nhân vật do ông nhào nặn ra. Ben có rất nhiều bí danh như thế. Khi viết, ông tưởng tượng mình là những con người khác nhau.”


      ***


      “Vậy chúng ta có dính dáng đến gã mắc chứng đa nhân cách rồi,” Dan . “Tuyệt vời. Chẳng phải các niên giám chỉ dùng cho các môn thể thao sao?”


      phải loại này,” Amy đáp. “Quyển niên giám này ghi lại những việc dành cho người nông dân. Cũng giống như quyển niên lịch với những mẹo vặt hay các bài viết hữu ích cho họ. Franklin cho hết tất cả những câu nổi tiếng nhất của mình vào đó, chẳng hạn như ‘Ngủ sớm, dậy sớm’.


      “Ừ hử.”


      “Và câu ‘ nghề cho chín còn hơn chín nghề.’


      “Sao nông dân lại phải quan tâm xem nghề chín hay chín?”


      Amy chỉ muốn dùng quyển sách phang cho thằng em nhát. Có thể như vậy làm văng mấy cục sạn trong đầu nó. Nhưng con bé vẫn giữ bình tĩnh. “Dan, vấn đề ở đây là ông ấy trở nên vô cùng nổi tiếng nhờ vào quyển sách này. Và kiếm được rất nhiều tiền.”


      “Ok...” Dan lôi ra mẩu giấy có đầu mối đầu tiên. Nó cau mày lại. “Vậy chúng ta tìm ra Richard S-. Cái này giúp chúng ta tìm ra kho báu như thế nào đây? Và RESOLUTION có nghĩa là gì nào?”


      “Franklin vẫn thường viết cho mình các kế hoạch[8],” Amy , “Những quy tắc ông muốn thực để hoàn thiện bản thân.”


      [8] Đây là nghĩa của từ resolution trong tiếng .


      “Như kế hoạch đầu năm mới phải ?”


      “Đ, nhưng ông ấy viết suốt cả năm. Chứ chỉ đầu năm thôi.”


      “Vậy đó có phải là phần trong quyển Niên giám của Richard nghèo khó nào?”


      Amy nhíu mày. “ đâu,” Nó trả lời vẻ chắc chắn lắm. “Kế hoạch của Ben nằm trong quyển sách khác. Chị nghĩ đó là quyển tự truyện của ông. Có lẽ từ RESOLUTION trong đầu mối chỉ giúp chúng ta nghĩ về Benjamin Franklin mà thôi. Chị cũng chắc...”


      Nó lật trang trong quyển Niên giám của Richard nghèo khó. Các ghi chú được viết vào lề giấy bằng nhiều kiểu chữ viết tay khác nhau. Amy nín thở. Nó nhận ra dòng chữ rất tinh tế, viết bằng mực màu tím ở cuối trang sách. Amy từng nhìn thấy bút tích tương tự trong các lá thư cũ - những kho báu mà Grace vẫn thường cho nó xem lúc trước. Dòng chữ chỉ viết đơn giản như sau Hãy theo Franklin, đầu mối thứ nhất. Mê cung xương.


      “Chính mẹ viết chỗ này!” Amy kêu lên. “Mẹ lúc nào cũng dùng bút màu tím!”


      “Sao kia?” Dan hỏi. “Cho em xem với!”


      “Ta nữa chứ?” Alistair hỏi theo.


      Amy muốn giữ quyển sách này mãi mãi. Nó muốn ngấu nghiến từng con chữ mẹ viết ra. Thế nhưng nó lại trao quyển sách cho Alistair, cách lưỡng lự. “Ông xem rồi đưa lại liền cho,” Nó nhấn mạnh.


      công bằng gì hết!” Dan bực tức.


      Alistair mang cặp kính vào và xem qua vài trang. “Thú vị đây. Rất nhiều thế hệ cầm quyển sách này. Những ghi chú trong đây đều nằm trong tay của Grace. Và đây nữa, bút tích của cha ta, Gordon Oh. Và cả đây - James Cahill, cha của Grace. Họ là em, hai đứa biết rồi đó, dù mẹ của Gordon, là bà nội ta, là người Hàn Quốc.”


      “Tuyệt nhỉ,” Dan bồn chồn. “Nhưng tại sao mẹ của mình lại viết về Ben Franklin chứ?”


      Alistair nhướng m. “Chuyện hiển nhiên thôi, Benjamin Franklin cũng là thành viên nhà Cahill. Điều này khiến ta ngạc nhiên đâu. Suy cho cùng, ông ấy cũng là nhà phát minh giống như ta. Ta vẫn hình dung hầu hết chỗ sách trong thư viện này đều do thành viên gia đình chúng ta viết nên, dù cho bọn họ có biết huyết thống của mình hay .”


      Amy bị choáng ngợp. Tất cả những tác giả này đều là... thành viên nhà Cahill ư? Có vậy , mỗi khi con bé ngồi ở thư viện, chìm nghỉm trong những quyển sách, hóa ra là đọc lời lẽ do chính những họ hàng của mình viết ra hay sao? Nó thể tin là nhà Cahill lại quyền lực đến thế. McIntyre bảo gia đình này góp phần làm nên nền văn minh nhân loại đấy thôi. Lần đầu tiên trong đời, nó bắt đầu hiểu điều đó có ý nghĩa ra sao. Con bé cảm giác như có khe vực khổng lồ mở ra ngay dưới chân mình.


      Làm thế nào mẹ của Amy lại biết về đầu mối đầu tiên thậm chí còn trước cả khi cuộc thi bắt đầu? Sao bà lại chọn viết vào quyển sách này chứ? Vậy mê cung xương theo như bà viết có nghĩa là gì? Có quá nhiều câu hỏi được đặt ra.


      Ngay lúc đó, Dan lại nhảy loi choi xung quanh với cái kiểu rất khó ưa thường ngày của nó. “Mình có bà con với Benjamin Franklin sao? Mọi người đùa hả?”


      “Sao Dan thả diều trong cơn bão để xem có bị điện giật hay [9]?” Amy châm chọc.


      [9] Câu giễu của Amy với Dan có liên quan tới thí nghiệm của Franklin với các đám mây tích điện. Trong cơn giông, ông thả cái diều may từ vải lụa gắn khung chữ thập bằng gỗ, với sợi dây sắt dài hơn 30cm thò ra phía diều. cái khóa buộc đầu dây kim loại nối với diều và đầu kia của khóa buộc với dải ruy băng bằng lụa mà Benjamin cầm trong khi thả diều. Tia sét đánh vào sợi dây diều và truyền xuống khóa gây ra tia lửa điện. Từ phát này ông phát minh ra cột thu lôi bảo vệ cho các tòa nhà.


      “Coi kìa, mấy đứa,” Alistair lên tiếng. “Chúng ta còn rất nhiều thứ để làm thay vì cãi vã vặt vãnh qua lại như vậy. Chúng ta phải đọc qua tất cả các ghi chú kia và rồi...”


      “Chờ .” Bỗng cả người Amy cảm thấy bồn chồn. Trong khí có đầy mùi hăng. “Có ai hút thuốc chăng?”


      Alistair và Dan nhìn quanh bối rối.


      Rồi Amy phát ra. Khói trắng đặc kịt tràn ngập trần nhà, phả xuống bên dưới thành luồng chết chóc.


      “Cháy!” Dan rú lên. “Đến cầu thang ngay!”


      Nhưng Amy cứng người lại. Nó sợ cháy vô cùng. Đám cháy mang nó trở lại với những ký ức thương tâm. Rất thương tâm.


      nào!” Dan chộp lấy tay nó. “Saladin - phải tìm cho ra nó!”


      Điều đó khiến Amy tỉnh lại. Nó thể để chuyện gì xảy đến với chú mèo.


      còn thời gian nữa đâu!” Alistair quả quyết. “Chúng ta phải ra khỏi đây ngay!”


      Mắt Amy cay xè. Nó hầu như thở nổi nữa. Amy tìm con Saladin, nhưng nó biến mất. Cuối cùng, Dan phải lôi chị nó lên cầu thang, dùng vai đẩy cánh cửa bí mật giá sách. Nó mảy may di chuyển.


      “Cái cần gạt.” Dan ho sặc sụa. “Phải có cái cần gạt.”


      Thường Dan rất thạo trong việc hình dung những thứ về cơ khí, nhưng cả hai thấy gì khi dò tìm cái công tắc hay cần gạt nào đó xung quanh. Khói mỗi lúc dày hơn. Amy ấn vào bức tường và thét: “Mặt tường càng lúc càng nóng hơn! Ngọn lửa lan đến từ phía bên kia. Chúng ta thể mở ra được!”


      “Phải mở được!” Dan giục, nhưng lần này đến lượt Amy lôi nó . Amy kéo nó trở lại cầu thang. Khói dày đến nỗi cả hai sao nhìn được nhau.


      “Cúi càng thấp càng tốt!” Amy bảo nó. Hai đứa trườn dọc thư viện, cốt để tìm ra lối thoát nào khác. Nó cũng biết Alistair giờ lặn đâu. Các kệ sách bén lửa - những trang giấy vừa khô vừa cũ, thứ mồi lửa hoàn hảo.


      Amy nhổm người lên bên chiếc bàn và vớ phải hộp nữ trang. Chớ có lấy những món có giá trị. Amy hiểu đây là quy tắc đầu tiên phải thực khi tìm đường thoát ra đám cháy. Nhưng nó chộp lấy cái hộp và tiếp.


      Nhiệt độ càng lúc càng tăng. khí đầy những tàn tro. Giống như là hít thở trong đám sương mù khí độc. Amy thậm chí còn thể trườn nhanh được vì nó mặc bộ đầm đám tang ngu ngốc người. Nó nghe Dan ho sù sụ và thở khò khè ngay phía sau. Căn bệnh suyễn của nó - nhiều tháng nay nó chưa bị trở lại - thế nhưng đám khói này có thể giết chết Dan nếu như sức nóng vẫn chưa làm được điều đó.


      Động não nào, Amy ra lệnh cho mình. Nếu là Grace, nó bao giờ lập ra căn phòng chỉ với duy nhất lối thoát.


      Amy cúi rạp mình xuống sàn nhà, vừa ho sặc sụa vừa ngạt thở. Những gì nó nhìn thấy chỉ là tấm thảm phương Đông - dãy những con rồng lụa thêu.


      Rồng... giống như con rồng dây chuyền của Grace. Và tất cả những hình rồng này đều bay về cùng hướng. Ý tưởng ấy điên rồ, nhưng nó chỉ nghĩ ra được đến chừng đó.


      “Theo chị!” Amy bảo.


      Dan thở khò khè nghẹt ứ cổ họng sao trả lời được. Amy trườn , cứ lúc lại quay lại nhìn theo Dan để bảo đảm rằng nó vẫn ở ngay đằng sau mình. Những hình rồng dẫn chúng đến giữa hai kệ sách cháy và kẹt ngay vào góc chết trước tấm thông gió chừng mét vuông. quá lớn, nhưng khá lớn với con bé. Amy dùng chân đạp vào tấm lưới. Đến lần thứ ba, tấm lưới bung ra, để lộ ống thông khí bằng đá, nghiêng nghiêng vươn lên .


      “Dan!” Amy kêu lên. “ nào!”


      Nó cố nhét Dan qua ống thông khí và ngay lập tức nhận ra cu cậu ẵm con Saladin. bằng cách nào mà Dan tìm thấy con mèo, và con mèo cũng lấy làm vui vẻ vì điều đó lắm. Saladin cứ gầm gừ và cào cấu, nhưng Dan vẫn giữ chặt lấy nó. Amy lần theo, mở miệng hớp hớp khí. Mắt của nó chừng như bị tạt cát vào trong. Hai đứa trèo lên ống thông khí tối tăm và sau hồi tưởng như lâu lắm, Dan dừng lại.


      “Làm cái gì đó?” Amy gắt. Lúc này còn nóng như lúc nãy, nhưng khói xung quanh chúng vẫn dày lên.


      “Kẹt rồi!” Dan khò khè lên tiếng.


      “Vậy đẩy !”


      Trong bóng đêm đen kịt, nó bò lên bên cạnh cậu em và cả hai hợp sức đẩy tảng đá trơn phẳng ngáng phía trước. Phải mở ra. Phải như thế.


      Và rồi nó cũng mở ra - bật hẳn lên như cái nắp. Ánh sáng mặt trời làm lóa mắt cả hai. Cuối cùng chúng ra được chỗ khí trong lành và rơi phịch xuống thảm cỏ. Saladin được trả tự do với tiếng “KKHỊỊTT!” cáu kỉnh, nó lẩn ngay vào đám cây. Hai đứa nằm ngay nghĩa trang, cách ngôi mộ vừa lấp xong của Grace quá năm thước. Phiến đá chúng vừa hẩy ra là bia mộ của ai đó.


      “Dan, em sao chứ?” Amy hỏi.


      Mặt Dan đầy những vệt nhọ đen. Hơi nước bốc lên từ quần áo và tóc của nó thậm chí còn đen đúa hơn trước. Nó thở gấp. Tay nó ứa máu từ cả trăm vết mèo cào.


      “Nghĩ ...” Nó khò khè. “Rốt lại ... cũng chẳng muốn... sưu tầm bia mộ.”


      Khói ùa ra từ đường hầm như từ chiếc ống khói, nhưng như thế cũng chẳng thấm tháp vào đâu so với những gì Amy nhìn thấy khi nó ngước lên phía đỉnh đồi. Cổ họng nó nghẹn cứng lại. “Ôi, .”


      Cả trang viên của gia đình như địa ngục bừng cháy. Lửa túa ra từ các cửa kính, táp vào các bức tường bên ngoài của tòa nhà. Trong lúc Amy quan sát, tòa tháp đá đổ sụp xuống. Những cửa sổ dát kính màu đẹp đẽ tan chảy. Gia huy ngay cánh cổng chính - tấm gia huy mà Amy vẫn hằng thích - đổ ập xuống và vỡ tung ra thềm.


      “Amy ơi...” Giọng của Dan nghe muốn vỡ ra thành từng mảnh. “Tòa nhà này... chúng ta thể để nó... ta phải...”


      Nhưng nó hết câu. Cả hai thể làm gì được nữa. phần nóc nhà sụp xuống, bắn quả cầu lửa vào bầu trời, như thể tòa nhà đổ ụp từ nóc xuống. Amy tìm đến Dan và ôm nó vào lòng. Nó cũng chẳng buồn chống cự. Mũi nó sụt sùi. Môi dưới run run. Amy muốn an ủi nó, với thằng em rằng mọi chuyện rồi ổn thôi, nhưng chính con bé cũng sao tin vào điều đó.


      Rồi Amy chú ý thấy có cái gì đó khiến nó giật mình thoát khỏi cơn mê mụ. Ở lối xe chạy có hình người nằm bất động, người đàn ông mặc áo đen. “Ông McIntyre!” Amy la lên.


      Nó vừa toan chạy đến bên cạnh ông giúp đỡ Dan hổn hển lên tiếng, “Nằm xuống!”


      khỏe bằng chị, nhưng lúc ấy hẳn Dan rất hoảng sợ, vì nó chộp lấy chị bằng lực mạnh đến độ suýt nữa cạp cỏ vào miệng. Dan trỏ lên con đường dẫn lên các ngọn đồi - lối thoát duy nhất ra khỏi trang viên này.


      Cách đó chừng 500 thước, lẩn khuất đằng sau đám cây là người đàn ông mặc áo đen đứng bất động. Làm thế nào Dan có thể phát ra từ khoảng cách xa đến chừng ấy, Amy biết nữa. Nó thể nhìn khuôn mặt người kia, nhưng ta cao và ốm, tóc hoa râm, tay cầm chiếc ống nhòm. Lạnh lưng, Amy nhận ra quan sát cả hai đứa nó.


      Amy , “Là ai...” Nhưng nó bị phân tâm bởi tiếng còi xe inh ỏi.


      Alistair Oh, đen như bồ hóng và ám khói, lao ra khỏi cổng chính tòa nhà và vọt nhanh đến bên chiếc BMW của mình, tay giữ khư khư vật ở trước ngực. Lão trông kinh khiếp. Quần bị rách tơi tả, mặt trắng bệt bụi tro. Amy biết làm thế nào lão thoát ra được. Suýt chút nữa Amy gọi lão, nhưng có gì đó ngăn nó lại. Alistair lảo đảo ngang qua William McIntyre, buồn ngó sang lần, nhảy hẳn vào chiếc xe và phóng vèo đường xuống lối xe chạy.


      Amy nhìn trở lại cánh rừng, nhưng người đàn ông mang ống nhòm biến mất t


      “Ở yên đó,” Nó bảo Dan.


      Amy chạy về phía ông McIntyre. Dĩ nhiên là Dan nghe lệnh chị nó. Nó theo, vừa vừa ho khùng khục. Khi chúng đến được bên McIntyre, cả tòa nhà sụp đổ hoàn toàn. Nhiệt tỏa ra nóng như mặt trời thứ hai. Amy biết còn gì có thể cứu vãn được nữa - còn gì cả ngoại trừ chiếc hộp nữ trang nó vẫn còn cầm tay.


      Nó đặt hộp nữ trang xuống và lay lay McIntyre. Ông rên rỉ, điều đó ít nhất cho biết ông vẫn còn sống. Amy ước sao mình có riêng chiếc di động, nhưng bà dì Beatrice đời nào cho điều đó xảy ra. Nó tìm quanh trong túi McIntyre, thấy chiếc điện thoại và ấn 911.


      “Lão lấy nó rồi,” giọng Dan khọt khẹt.


      “Cái gì chứ?” Amy lắng nghe. Nó khuỵu người xuống hai đầu gối và nhìn về nơi duy nhất mà nó quan tâm đến trong đời này chìm trong biển lửa. Nó nhớ lại lúc Grace kể cho nó nghe những câu chuyện trong thư viện. Nó nhớ lại lúc chạy xuống những gian phòng, đùa giỡn với Dan khi cả hai còn bé. Nó nghĩ về cái góc bí mật trong phòng ngủ nơi nó vẫn hay đọc sách cùng với con Saladin nằm nép đùi. Tất cả tiêu tan. Toàn thân nó run lên. Nước mắt ứa ra. Lần thứ hai trong đời mình, lửa cướp của nó tất cả.


      “Amy.” Giọng Dan cũng rưng rưng, nhưng nó đặt bàn tay lên vai chị mình. “Chị phải nghe. Lão ta lấy quyển sách. Alistair lấy mất rồi.”


      Amy muốn bảo Dan câm miệng lại và để nó khóc mình, nhưng rồi nó nhận ra điều thằng em vừa . Nó lảo đảo đứng dậy, dõi mắt ra đằng xa, nơi ánh đèn hậu của chiếc BMW khuất dần sau ngọn đồi.


      Alistair Oh lừa hai đứa. Lão ăn cắp quyển Niên giám của Richard nghèo khó trong đó có các ghi chú của mẹ - manh mối duy nhất của chúng trong cuộc truy lùng này.







      CHƯƠNG


      DAN VẪN LUÔN AO ƯỚC ĐƯỢC XE CẢNH SÁT, nhưng phải theo cách này.


      Ngực nó vẫn còn thấy nhói đau vì hít khói. Nó ngồi ở ghế sau cùng con Saladin đùi, cố khò khè, nhưng mỗi hơi nó hít vào cũng giống như hít cát vào trong phổi.



      “Lẽ ra em nên mang theo ống hít...” Amy trách nó. Nhưng nó ghét ống hít. Vật đó khiến nó giống như Darth Cahill[1] hay thứ gì đó. Hơn nữa, đâu phải lúc nào nó cũng bị như vậy, và càng biết hai đứa bị cuốn vào đám cháy ngu ngốc.


      [1] Darth Vader, nhân vật trong loạt truyện và phim giả tưởng Star Wars của George Lucas. Do bị trọng thương trong cuộc chiến với thầy mình, Darth Vader được cứu sống trong hình dạng cỗ máy và thể bằng giọng thông thường nữa mà qua chiếc máy riêng.


      Dan vẫn tin cả gia trang tan thành tro bụi. Sáng nay khi thức giấc nó còn chắc mẩm mình và Amy thừa kế nơi này. Giờ chẳng còn gì nữa hết - ngoài đám đổ nát khói bốc lên nghi ngút.


      Các điều tra viên vẫn chưa có câu trả lời nào với chúng. Có vẻ như đây là vụ phóng hỏa, họ vậy. Ngọn lửa lan quá nhanh nên giống với vụ tai nạn. Họ McIntyre ổn. Ngạc nhiên thay, chẳng ai bị thương. Dan với cảnh sát về việc Alistair Oh hối hả rời khỏi gia trang. Nó hình dung là mình gây rắc rối cho lão già khi làm vậy. Nhưng Dan lại chẳng hé lời nào về 39 manh mối lẫn cái thư viện bí mật hay gã lạ mặt với chiếc ống nhòm.


      “Gã mặc áo đen đó là ai nhỉ?” Amy thì thào, có vẻ nó cũng suy nghĩ về điều đó. Con bé đặt hộp nữ trang của Grace đùi, tay xoắn xoắn tóc. Nó vẫn thường làm thế mỗi khi căng thẳng.


      biết,” Dan . “Hay là Alistair?”


      “Làm sao mà lão xuất được cùng lúc ở hai nơi


      “Vậy gã Holt?”


      “Holt già đến thế và gã ta phốp pháp hơn nhiều.”


      “Hay bà dì Beatrice mặc quần áo đàn ông nhỉ?” Riêng Dan thích ý nghĩ này, bởi bà dì luôn kèm theo cái gì đó “độc ác”. Rốt cuộc bà ấy rời khỏi gia trang bỏ lại hai đứa ở đó mà thèm nghĩ ngợi gì. Nhưng Amy lại trợn mắt.


      ta phải là người chúng ta quen biết, Dan ạ. Chí ít chị vẫn chắc như vậy. Nhưng quan sát chúng ta, như thể muốn biết xem chúng ta có thoát ra được hay . Chị nghĩ chính châm lửa để bẫy chúng ta.”


      “Grừ” Saladin trả lời.


      “Em đồng ý với con mèo,” Dan . “Sau cái gã áo đen và ông chú Alistair quý hóa, em cho biết là chúng ta có thêm RESOLUTION mới: Tránh xa những lão già.”


      “Chúng ta phải thận trọng hơn với mọi người.” Amy hạ giọng thấp hơn nữa. “Dan à, mẹ có liên quan trong ba mươi chín đầu mối này. Chỗ bút tích đó...”


      “Phải, nhưng thể thế được. Cuộc đua chỉ vừa bắt đầu thôi mà!”


      “Đó là bút tích của mẹ. Chị chắc chắn. đó viết, Hãy theo Franklin, đầu mối thứ nhất. Mê cung xương. Chúng ta phải tìm xem điều đó có nghĩa gì. Đúng hệt cái kiểu bí mà mẹ thích.”


      Dan biết lẽ ra nó nên thấy bực tức, nhưng nó ghét việc Amy cứ nhớ về ba mẹ nhiều hơn mình. Nó chẳng thể nào nhận ra được bút tích của mẹ. Nó cũng biết gì về con người bà.


      “Chúng ta mất quyển sách,” Nó làu bàu. “Coi như thua rồi còn gì?”


      Amy lần ngón tay lên con chữ khắc phía mặt hộp nữ trang. “Chưa hẳn. Chị có ý này, nhưng chúng tangười lớn. Alistair đúng về điều này. Chúng ta đâu được nếu người lớn theo cùng.”


      du lịch ư?” Dan hỏi. “Chúng ta đâu nào?”


      Amy liếc sang viên cảnh sát. Nó rướn người gần hơn tới chỗ Dan rồi khẽ, “Trước hết, chúng ta cần phải tìm người kèm. Và tìm nhanh. Bà dì Beatrice sớm gọi điện cho bên dịch vụ xã hội thôi. Chúng ta phải về nhà, thu dọn hành lý và rút . Nếu cảnh sát phát ra ai trông nom chúng ta, bọn họ quẳng chúng ta đến nhà nuôi dưỡng nào đó hay đại loại như vậy. Chúng ta bao giờ có thể tìm ba mươi chín đầu mối nữa.”


      Dan chưa từng nghĩ đến điều đó. Nó biết gì về những nhà nuôi dưỡng, nhưng nó hình dung trong đầu bao giờ muốn đến sống ở đó. Liệu nơi đó có cho nó giữ bộ sưu tập hay ? Hẳn là rồi.


      “Vậy làm sao chúng ta tìm người lớn đây?” Nó lại hỏi. “Thuê lấy người ư?”


      Amy xoắn tóc nó lại thành lọn. “Hai đứa mình cần có ai đó sẵn sàng để cho mình làm gì tùy thích mà thắc mắc quá nhiều. ai đó đủ chín chắn để người ta thấy chúng ta được coi sóc, nhưng cũng quá nghiêm khắc đến mức ngăn cản chúng ta. người nào đó mềm mỏng.”


      “‘Mềm mỏng’ có nghĩa là chúng ta có thể dối với người ta?”


      “Meo,” con Saladin đáp, như thể điều đó là ổn với nó, miễn làm sao nó có cá tươi để nhâm nhi.


      Xe cảnh sát rẽ vào đường Melrose và dừng trước cổng căn hộ tập thể bằng đá cát kết nâu dãi dầu năm tháng mà hai đứa sống.


      “Địa chỉ chỗ này có đúng ?” viên cảnh sát hỏi. Giọng chị ta nghe chán chường và cáu kỉnh.


      “Phải,” Amy trả lời. “À, vâng thưa bà.”


      ai đứa chắc chắn là có ai trong nhà chứ? Người giám hộ hay ai đó đại loại như vậy?”


      “Nellie Gomez,” Dan . “Chị ấy là ngươ...”


      Mắt nó mở to đầy kinh ngạc. Nó nhìn Amy và nó có thể rằng chính Amy cũng có cùng ý nghĩ đó. Nó rành rành ra đó đến độ người nhà Holt cũng có thể nhận ra.


      “Nellie!” cả hai đồng thanh. Dan và Amy bước ra khỏi xe cảnh sát cùng con mèo và chiếc hộp nữ trang, ba chân bốn cẳng vọt thẳng lên lầu.


      ***


      Nellie ở ngay nơi Dan hình dung - nằm xoài chiếc sofa với hai đầu tai nghe ụp chặt vào tai, lắc lư đầu theo bất cứ thứ nhạc quái gở nào nghe trong lúc hai tay bấm miệt mài những dòng tin nhắn chiếc điện thoại. chồng sách nấu nướng đặt cạnh nàng. Quyển cùng là Món ăn Bắc Kinh đặc sắc. Dan thả cho con Saladin làm quen với căn phòng. Rồi nó nhác thấy hộp kem Ben & Jerry’s Cherry Garcia rỗng - Cherry Garcia của nó - bàn cà phê.


      “Coi kìa!” Dan phản đối. “Cái đó của em mà!” Dĩ nhiên là Nellie đâu có nghe nó . nàng cứ nhấn nhá tới lui chiếc điện thoại cho đến khi Amy và Dan xuất ngay trước mặt.


      Nellie sầm mặt xuống như thể bực bội vì người ta vừa buộc phải làm việc. kéo bên tai nghe ra. “Về rồi đó hả? Úi chà - có chuyện gì thế? Dòm hai đứa mới tả tơi làm sao.”


      “Chúng ta cần phải chuyện với nhau,” Amy đề nghị.


      Nellie nháy mắt cái, kì thực rất ưa nhìn bởi đôi mắt màu xanh lấp lánh. đeo chiếc khuyên mũi mới hình con rắn bạc. Dan tự hỏi cớ gì bà chị này lại muốn con rắn trườn vào lỗ mũi.


      “Chúng ta gì với nhau nào, nhóc tì?” Nellie hỏi.



      “Tụiii em - tụi em có việc cho chị. hợp đồng trông trẻ mới. Trả tiền lương hậu hĩnh.”


      Nellie tháo tai nghe còn lại ra. Hai đứa khiến nàng chú ý lắng nghe. Có ba thứ luôn khiến nàng quan tâm: trai đẹp, thức ăn ngon và tiền bạc.


      Nellie đứng dậy. nàng mặc chiếc áo thun hình cờ xé te tua, quần jean bạc màu và đôi giày nhựa màu hồng. Tóc trông như đống rơm còn ướt - nửa đen, nửa vàng.


      Nellie khoanh tay lại nhìn xuống Amy. “Okay. Hợp đồng kiểu gì nào?”


      Dan e là Amy sợ đến đơ người ra, nhưng dường như lúc này chị nó vẫn khá giữ được bình tĩnh. Nellie cũng bặm trợn như những au pair khác trước đây chúng từng gặp.


      “Ừ ... có chuyến ,” Amy . “Chị là người bảo vệ tụi em.”


      Nellie nhăn mặt. “Sao bà dì hai đứa với chị vụ này?”


      “Ôi, bà bị gẫy cổ rồi,” Dan buột miệng.


      Amy ném cho nó cái nhìn như muốn bảo Câm miệng lại!


      “Gẫy cổ hả?” Nellie hỏi tiếp.


      “Cũng nghiêm trọng đâu,” Dan . “Chỉ hơi hơi thôi. Mà dẫu sao bà cũng phải nằm viện vài bữa. Do đó bà nghĩ tụi em nên chơi đâu đó. Tụi em cũng với lão Alistair. Lão cũng cho rằng tụi em cần có người lớn theo.”


      Chí ít đoạn cuối cũng là . Dan biết nó nhì nhằng đến đâu, nhưng là nó tiến tốt. Nó hình dung rằng nếu tiếp tục làm cho Nellie rối tinh lên nàng thể gọi nó là đứa dối.


      “Gia đình tụi em vẫn là mà,” Nó tiếp. “Kiểu như cuộc săn tìm. Chúng ta đây đó nhiều nơi và cùng vui vẻ với nhau.”


      “Nơi nào?” Nellie hỏi lại.


      “Trời, đủ hết.” Dan nghĩ đến tấm bản đồ trong thư phòng bí mật của Grace - tất cả những chiếc ghim đó. “Đó mới là phần của trò vui. Ngay từ đầu ai trong chúng ta biết hết mọi điểm đến của chuyến . Chúng ta có thể khắp thế giới ấy chứ.”


      Lông mày Nellie dựng đứng dậy. “Ý em là, miễn phí, phải thế ?”


      Amy gật đầu, như thể nó khởi động theo những trò của Dan. “Phải đó, có thể mất nhiều tháng trời! đến những nơi xa lạ, ở đó có rất nhiều... ừm, à, thức ăn ngon và trai đẹp. Nhưng chị nhất thiết phải ở sát tụi em mọi lúc mọi nơi - chỉ là làm mấy chuyện của người lớn như mua vé máy bay, đăng ký nhận phòng khách sạn, đại loại thế. Chị có khối thời gian cho riêng mình.”


      Đúng vậy, mà, Dan nghĩ thầm. Nellie thì ổn thôi, thế nhưng nó bao giờ mong bà chị này cứ kè kè theo sát cả hai.


      “Hai đứa định trả công chị thế nào đây?” Nellie nghi ngờ.


      Amy mở chiếc hộp nữ trang và quẳng xuống bàn. Dây chuyền ngọc bích, nhẫn kim cương và đôi hoa tay bằng ngọc lục bảo ánh lên lấp lánh.


      Miệng Nellie há hốc ra. “Ôi - trời - đất - ơi. Hai đứa em ăn cắp sao?”


      !” Amy . “Đó là của bà tụi em để lại! Bà muốn hai đứa em thực cuộc hành trình này. Trong di chúc như vậy.”


      Dan phục lắm. vậy cũng hẳn là dối.


      Nellie nhìn chằm chằm vào số nữ trang. Rồi nàng nhặt điện thoại lên và bấm số.


      Dan thấy căng thẳng. Trong đầu nó hình dung ra dịch vụ xã hội - hay thứ gì đó tương tự thế - xồng xộc xông vào, những gã mặc áo khoác màu trắng và tay cầm những chiếc lưới, có lẽ thế, lao vào bắt chúng đến nhà nuôi dưỡng.>


      “A lô?” Nellie vào điện thoại. “Phải, là con đây bố, dạ đây, con có việc mới với nhà Cahill.”


      Ngưng.


      “Phải, tiền rất khá. Vậy con chuẩn bị bữa tối hôm nay như hứa nha.” Nellie nhặt chiếc nhẫn kim cương lên, nhưng Amy giật phắt lại. “Bao lâu à? Ừm... tụi con du lịch. Chắc vài tuần. Có thể... vài tháng?”


      nàng kê điện thoại cách xa lỗ tai. Ở đầu dây bên kia, ông bố bắn tràng tiếng Tây Ban Nha inh ỏi.


      “Bố ơi!” Nellie . “No, claro[2]. Nhưng học kỳ mùa thu tháng rồi vẫn chưa bắt đầu, và nó cũng hệt như trước, những khóa học chán ngắt ấy mà. Con chỉ phải đến lớp vài giờ vào mùa xuân và...”


      [2] Phải, con nghe , tiếng Tây Ban Nha.


      Thêm tràng Tây Ban Nha khác ùn ùn đầy giận dữ.


      “Thôi được, nếu bố vẫn cho phép con học nấu ăn thay vì lết xác tới học ở ngôi trường ngu si nào đó ...”


      Tiếng la của ông bố lúc này còn to hơn tiếng nổ của bom nguyên tử đôi chút.


      “Qué. Papa[3]?” Nellie hét lên. “Lo siento[4], máy bố mất sóng rồi. Con gọi bố sau khi có tín hiệu tốt hơn vậy. bố!”


      [3] Hả, sao Bố?, tiếng Tây Ban Nha.


      [4] Xin lỗi, tiếng Tây Ban Nha.


      Nellie cúp máy.


      “Ông ấy đồng ý,” nàng tuyên bố. “Chị theo hai nhóc.”


      ***


      Theo mệnh lệnh của Amy, Dan chỉ được phép mang theo đúng ba lô. Nghĩa là chỉ có quần áo, nhưng mà Dan lại khoái gì quần áo. Nó ngó quanh căn phòng, cố nghĩ xem mang theo món gì trong những bộ sưu tập của mình.


      Phòng ngủ của Dan là quá so với những món đồ nó sở hữu. vách tường treo những bản hoa văn ghi khắc bia mộ. Nó phải cuộn hay gấp chúng lại mới có thể nhét vào ba lô, mà thế làm hư hết cả. Tủ quần áo đầy ắp những thùng nhựa đựng bộ sưu tập thẻ và tiền xu - quá nhiều để chọn. Dưới giường ngủ là những hộp giấy đựng đủ thứ vũ khí cũ kỹ từ thời nội chiến Nam Bắc, khuôn đúc những bản in, ảnh người nổi tiếng có chữ ký, và hàng tá hàng tá những món khác.


      Nó cầm chiếc laptop lên, nó mua lại vật này từ giáo viên công nghệ thông tin trong trường với giá 300 đô la. Nó phải có thứ này, để dùng vào việc tìm kiếm các món đồ và kiếm tiền. Nó biết giá trị chính xác của từng thẻ bài internet. Nó học cách bán những tấm thẻ bị trùng nhau ngay trong trường học và tại các cửa hàng bán thẻ với giá cao hơn chút ít so với giá ban đầu nó mua về. nhiều, nhưng nó có thể kiếm chừng 100 đô la hằng tháng nếu may mắn. Và nó may mắn. Nhưng rủi thay, nó lại dành trọn số tiền để tiêu vào những món hàng hiếm cũng nhanh như lúc kiếm được.


      Nó thả máy tính vào chiếc túi du lịch màu đen. Rồi cho vào vài ba chiếc áo, quần, đồ lót, bàn chải đánh răng, ống hít, và - cuối cùng - là hộ chiếu của nó.


      Cha mẹ làm hộ chiếu cho cả hai đứa ngay trước khi chết, lúc Dan chỉ mới bốn tuổi. Dan nhớ nổi tại sao như vậy. Hai đứa chưa từng dùng đến chúng. Grace cứ khăng khăng gia hạn hộ chiếu vào năm ngoái, khi ấy Dan thậm chí còn cho rằng đó là việc ngớ ngẩn. Nhưng bây giờ nó băn khoăn tự hỏi...


      Nó cho hộ chiếu vào đáy túi. Hầu như chẳng còn chỗ trống nào nữa.


      Nó chả có cách nào để nhét vào ba lô lấy phần mười chỗ đồ đạc của mình.


      Dan lật tấm nệm lấy quyển album ảnh ra. Đó là cuốn sổ kẹp tài liệu lớn màu trắng lưu giữ bộ sưu tập quan trọng nhất của nó: hình của ba và mẹ.


      Chỉ có duy nhất bức hình. Mép của nó cháy xém: đó là tấm ảnh duy nhất còn sót lại sau vụ cháy. Cha và mẹ đứng đỉnh ngọn núi, choàng tay qua nhau, mỉm cười nhìn vào ống kính. Cả hai đều mặc áo trùm paca[5] hiệu Gortex, quần leo núi giữ ấm, đai leo núi thắt ngang eo. Thay vì đội mũ leo núi, bố mẹ nó lại đội lưỡi trai bóng chày, do đó mắt của cả hai đều bị bóng che khuất. Bố của Dan, ông Arthur, người dong dỏng cao, làn da rám nắng với mái tóc hoa râm và nụ cười hiền hậu. Dan tự hỏi biết lúc về già nó có giống như bố hay . Mẹ nó, bà Hope, có tóc nâu đỏ như tóc của Amy. Bà trẻ hơn chồng đôi chút, và Dan cho rằng bà trông rất duyên dáng. Bà đội mũ Orioles. Còn ông đội chiếc mũ Red Sox. Dan biết như vậy là ngẫu nhiên, hay đó là hai đội bóng họ thích, liệu hai người có bao giờ cãi nhau xem đội nào chơi hay hơn nhỉ. Nó chẳng . Thậm chí nó còn chẳng biết cả hai có mắt màu xanh như mắt nó hay , chỉ vì hai chiếc lưỡi trai kia che khuất mặt họ.


      [5] Parka - loại áo da có mũ trùm đầu của người Eskimo để chống lạnh.


      Nó muốn sưu tập những tấm ảnh khác của hai người. Nó muốn biết họ tới những đâu và ăn mặc ra sao. Nó muốn được xem tấm ảnh có chính mình trong đó. Nhưng chẳng còn gì để sưu tập hết. Tất cả những gì thuộc về căn nhà trước đây của họ đều cháy sạch và Grace luôn khăng khăng rằng mình giữ tấm ảnh nào của bố mẹ nó, dù Dan vẫn chưa hiểu tại sao lại như thế.


      Nó nhìn chăm chăm vào tấm ảnh, có cảm giác nôn nao trong lòng. Nó nghĩ về đám cháy ở gia trang của Grace, người đàn ông mặc áo đen, ông McIntyre nằm bên đường, Alistair phóng xe như kẻ rồ và bút tích của mẹ trong quyển sách của chính Benjamin Franklin.


      Quyển sách có thể quan trọng đến mức nào nhỉ? Dan hiểu giá trị của những món đồ sưu tập, nhưng nó chưa từng nghe thấy thứ gì đáng giá đến độ phải thiêu trụi cả căn nhà.


      Hẳn Grace phải biết mình làm điều gì, kiến tạo cuộc thi tài này như thế nào. Hẳn là bà hiến cho hai chị em nó thất vọng. Dan cứ lặp lặp lại ý nghĩ này, để cố thuyết phục mình tin vào điều đó.


      Có tiếng gõ cửa. Nó lấy phần giấy bìa có tấm ảnh ra khỏi album và cho vào túi. Nó vừa kéo dây kéo xong cánh cửa phòng mở ra.


      “Ê ngốc,” Amy , nhưng giọng con bé có ác ý. “Xong hết chưa?”


      “Rồi. Rồi, em xong.”


      Amy vừa tắm và thay quần áo xong - trở lại với quần jeans và chiếc áo thun xanh lá quen thuộc. Nó cau mày trước cái túi du lịch chật ních của cậu em, rồi đảo mắt dòm những chiếc thùng trong tủ quần áo. Dan nghĩ có thể chị mình nhắc nhở đừng động đến chúng nữa.


      “Em có thể, à, ừ, sử dụng thêm chiếc ba lô,” Con bé gợi ý. “Nếu cần.”


      Đó là điều khá dễ thương khi nó được phát ra từ chính miệng Amy. Dan nhìn chằm chằm tủ quần áo của mình. hiểu sao nó cảm thấy rằng mình bao giờ trở lại nơi đây nữa. “Amy, chị nghĩ chỗ nữ trang đó bán được bao nhiêu tiền?”


      Bàn tay Amy rờ quanh cổ và Dan thấy chị mình mang chiếc dây chuyền ngọc của Grace. “Chị... chị cũng biết nữa.”


      Dan hiểu lý do vì sao trông Amy lại áy náy như thế. Chính nó cũng phải chuyên gia định giá trang sức, nhưng nó biết đó là trong những món đắt tiền nhất trong hộp. Nếu giữ lại, số tiền hai đứa có chẳng nhiều nhặn gì.


      “Người ta ép giá cho coi,” Nó cảnh báo. “Chúng ta có thời gian để đôi co nữa. Và đằng nào chúng ta cũng chỉ là hai đứa nhóc. Phải đưa chỗ nữ trang này cho ai đó có thể trả ngay cho chúng ta bằng tiền mặt mà nhiễu hỏi tới hỏi lui. Chúng ta có thể có chừng vài ngàn - chỉ phần giá trị thực của chỗ này.”


      cần phương tiện lại cho cả ba người,” Amy chắc chắn lắm. “Và tiền khách sạn. Tiền ăn.”


      Dan hít hơi sâu đem bán hết chỗ thẻ bài và tiền xu. Dưới quảng trường có cửa hàng...”


      “Dan à! Em bỏ ra hàng năm trời để sưu tập chúng kia mà!”


      “Như vậy gấp đôi số tiền ta có. Cửa hàng cắt cổ em, nhưng em có thể dễ dàng múc ba ngàn đô cho tất cả mấy thứ này.”


      Amy nhìn Dan trân trân như thể nó từ trời rơi xuống. “Dan à, chị nghĩ là khói làm đầu óc em lùng bùng rồi. Em có chắc vậy?”


      lý do kỳ quặc nào đó, nó hoàn toàn chắc chắn. Nó muốn lên đường cho cuộc tìm kiếm các đầu mối này hơn là muốn giữ lại bộ sưu tập cho mình. Nó muốn tìm bằng được bất kỳ kẻ nào thiêu rụi căn nhà của Grace. Nó muốn tìm ra bí mật của ba mươi chín đầu mối. hết, nó muốn rằng cuối cùng nó cũng được sử dụng tới cái hộ chiếu ngu ngốc và làm cho cha mẹ thấy nở mày nở mặt. Có thể trong chuyến hành trình này nó tìm thấy thêm nhiều tấm ảnh khác cho album của mình cũng nên.


      “Em chắc chắn,” Nó trả lời.


      Amy làm điều cực kỳ đáng ghét. Chạy đến ôm nó.


      “Gứm quá!” Dan cự lại.


      Nó đẩy Amy ra xa. Amy mỉm cười, nhưng khóe mắt lại rưng rưng lệ.


      “Có thể em phải là thằng ngốc đến vậy,” Amy với Dan.


      “Phải, ừ , chị nín cái và hãy ra khỏi - à chờ chút, chúng ta đâu đây?”


      “Tối nay là đến khách sạn trong thị trấn,” Amy đáp. “Rồi ngày mai... chị có ý này liên quan tới Benjamin Franklin.”


      “Nhưng chị đâu có quyển sách nữa đâu“Chị cần đến quyển sách cho chuyện này. Ghi chú của mẹ chỉ viết “Hãy theo Franklin.” Ben Franklin khởi thợ in ngay tại Boston này, khi ông còn là cậu thiếu niên làm công cho ông mình.”


      “Vậy chúng ta chỉ tìm kiếm quanh quẩn đâu đây trong thị trấn thôi ư?”


      Amy gật đầu. “Đó là điều mà hẳn là tất cả những kẻ kia cũng làm. Nhưng chúng ta tới nơi ông đặt chân đến tiếp theo, cũng giống như hành trình theo suốt quãng đời của ông. Khi mười bảy tuổi, ông trốn khỏi xưởng in của người và bắt đầu nghiệp in ấn của riêng mình tại thành phố khác.”


      “Vậy chúng ta cũng chạy trốn! Chúng ta theo Franklin!”


      “Chính xác,” Amy . “Chị chỉ hy vọng là vẫn chưa có ai có ý nghĩ này. Chúng ta phải đặt ba vé tàu đến Philadelphia.”


      “Philadelphia,” Dan lặp lại. Những thứ duy nhất mà nó biết về Philadelphia đó là Chuông Tự Do và đội bóng chày Phillies. “Khi đến đó, chúng ta tìm gì?”


      Amy chạm vào chiếc dây chuyền như thể nó bảo vệ mình. “Chị nghĩ có bí mật ở đó có thể khiến chúng ta bị mất mạng chừng.”

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 7


      DẶM GẦN QUẢNG TRƯỜNG COPLEY Irina Spasky, bí danh Nhóm Ngũ - băn khoăn về loại thuốc độc của mình. Ả nạp thứ hỗn hợp vẫn thường dùng các thiết bị phóng độc như móng tay, nhưng e ngại nó đủ mạnh cho cuộc gặp gỡ lần này.


      Từ hồi Chiến tranh lạnh, ả và đám đồng KGB[1] sử dụng những chiếc dù phóng độc hay xịt chất độc vào bàn cầu. Chao ôi những tháng năm tươi đẹp! Giờ Irina chỉ còn đơn thương độc mã, nên phải giữ mọi thứ cho đơn giản. Những đầu kim tiêm bật ra mỗi khi ả gập đốt ngón tay đầu tiên lại. Tất cả hầu như vô hình và chỉ để lại cảm giác c chích tê tê. Thế nhưng chất độc khiến nạn nhân vô cùng khốn đốn, có thể tê liệt đến chừng vài ngày - đủ để Irina có khởi đầu thuận lợi trong cuộc truy lùng này. Lợi hại hơn hết là hoàn toàn thể truy ra chất độc và cũng có thuốc giải.


      [1] Cơ quan tình báo thời Liên Xô Cũ.


      Xui rủi thay, thứ chất độc ấy lại ngấm khá lâu. Nạn nhân của ả có thể biểu triệu chứng gì trong chừng tám giờ đồng hồ hoặc lâu hơn. Nếu ả muốn vô hiệu hóa đối phương nhanh chóng buộc phải viện tới biện pháp khác.


      thể khinh suất Ian và Natalie Kabra. Hồi hai đứa đó mới bảy và mười tuổi, Irina còn có thể khống chế chúng. Giờ chúng sang tuổi mười và mười bốn... quả thực đây lại là chuyện hoàn toàn khác.


      loăng quăng tại quảng trường Copley, chờ đến khi trông thấy chúng. Hai bên thỏa thuận tuân theo các chiến thuật thông thường để ngụy trang, cùng tìm địa điểm và thời gian gặp gỡ. Những đám mây giông kéo . buổi chiều hè đẹp trời, thứ thời tiết mà Irina căm ghét. Ba cái thứ ánh nắng và hoa hoét lẫn trẻ con trẻ kiếc này - xời. Ả thích mùa đông ánh thép ở St. Petersburg, thứ thời tiết tuyệt hơn nhiều cho trò gián điệp.


      Vừa mua ly cà phê từ ki-ốt ở vệ đường, ả nhác thấy Ian và Natalie phía bên kia quảng trường, trước nhà thờ Chúa ba ngôi. Hai bên bắt gặp ánh mắt nhau trong một thoáng và tiếp tục bước .


      Irina dịch chuyển. Ả theo chúng cách quãng, dò thử xem hai đứa có bị “mọc đuôi” - có kẻ nào giám sát , có kẻ nào gí theo , có góc nào đám phó nháy núp để chộp ảnh hay . Sau mười lăm phút, ả thấy gì. Ả chờ đến lượt hai đứa quay lại nhìn mình.


      Ngay khi chúng ngoảnh lại, Irina xoay người và bước . Trò chơi đảo lại. Ả dẫn chúng băng qua quảng trường, hướng về thư viện, biết thừa rằng chúng thăm dò đuôi của mình. Nếu chúng phát ra điều gì chắc chắn lẩn . Cuộc hẹn bị hủy.


      Sau mười lăm phút, Irina thay đổi lộ trình và thấy bọn Kabra bên kia phố Boylston, vẫn thầm bám theo mình. Điều đó có nghĩa là ả có ai theo đuôi. Bọn trẻ ngoặt về phía khách sạn Copley Plaza và Irina theo.


      Cả ba gặp nhau ở sảnh khách sạn đông đúc, nơi bên nào có thể phục kích được bên nào.


      Natalie và Ian trông sảng khoái, ngồi khệnh người những chiếc sofa căng phồng quá mức. Hai đứa cởi bỏ bộ y phục tang lễ - Ian mặc áo polo xanh da trời, quần màu be và đôi dép xẹp, còn Natalie mặc chiếc đầm vải lanh màu trắng làm nổi bật lên làn da màu cà phê của nó. Đôi mắt chúng long lanh như hổ phách. Hai đứa trẻ đáng đến nỗi mọi cái đầu đều dồn về chúng, hay ho lắm với cuộc gặp bí mật.


      “Hai đứa gây quá nhiều chú ý,” Irina quở trách. “Cần phải xấu xí hơn kia.”


      Natalie cười phá lên. “Chẳng phải như vậy khiến chị tươi trẻ hơn sao, người họ hàng thương mến?”


      Irina muốn cấu cái khuôn mặt của con choắt con mất dạy này bằng những móng tay tẩm độc của mình, nhưng ả vẫn giữ vẻ bình tĩnh. “Cứ việc sỉ vả tùy thích. Chả nhằm nhò gì đâu.”


      “Phải,” Ian . “Chúng ta cùng có chuyện cần giải quyết. Nào, mời ngồi.”


      Irina cân nhắc. Ả phải ngồi cạnh Ian hoặc cạnh Natalie, và nơi nào an toàn cả. Thế là ả chọn trẻ. Có lẽ dễ khống chế hơn nếu xảy ra chuyện. Natalie mỉm cười và dịch sang bên để Irina ngồi xuống.


      “Chị xem xét đề nghị của tụi này chưa?” Ian hỏi.


      Irina nghĩ về điều gì khác kể từ lúc nhận được tin nhắn cách đây hai giờ, được mã hóa dưới một thuật toán angorit dùng riêng cho nhà Lucian.


      Ả gật đầu. “Hai đứa có cùng kết luận như ta. Đầu mối thứ hai có ở Bost


      “Chính xác,” Ian tiếp. “Chúng cháu ông bà bô thuê cho chiếc máy bay riêng. Chúng ta bay trong vòng tiếng nữa.”


      Thuê máy bay riêng kia à, Irina nghĩ thầm đầy phẫn uất. Ả biết cha mẹ hai đứa Kabra từ lâu. Cả hai là những nhà sưu tập nghệ thuật lừng danh thế giới. có lúc họ là những con người cực kỳ nguy hiểm và giàu có đầy thế lực trong chi tộc Lucian. Giờ cả hai về hưu ở London và chả làm gì khác ngoài việc chăm chút thái quá cho cậu ấm chiêu của mình. Họ cho Ian và Natalie thỏa sức du lịch rồi ký vào những tấm séc để trống chưa ghi số tiền mỗi khi chúng cần.


      Hai đứa nhóc hỗn xược này quan tâm tới ba mươi chín đầu mối làm gì kia chứ? Với chúng, đó cũng chỉ là chuyến phiêu lưu khác thôi mà. Irina lại có những nguyên nhân của riêng mình cho cuộc truy tìm kho báu này - lý do cá nhân hơn rất nhiều. Nhà Kabra quá giàu có, quá thông minh, quá kiêu hãnh. ngày nào đó, ả thay đổi điều này.


      “Vậy ,” Irina tiếp, “Hai đứa đến đâu?”


      Ian chồm tới, khép hai tay vào nhau. Trông nó giống đứa trẻ mười bốn tuổi. Khi cười, nhìn nó ma mãnh như tay trưởng thành. “ biết là đầu mối này có liên quan đến Benjamin Franklin mà.”


      “Phải.”


      “Rồi biết hai đứa tụi cháu đâu và săn tìm cái gì chứ.”


      cũng biết là,” Natalie thào giọng hưng phấn, “Chúng ta thể để cho bí mật rơi vào tay ai khác. Cùng là người nhà Lucian, chúng ta phải hợp tác với nhau. cần đặt cái bẫy.”


      Mắt Irina giật cái, chuyện đó vẫn hay xảy ra mỗi khi ả căng thẳng. Ả ghét điều này, nhưng sao ngăn nó lại được. “Hai đứa có thể tự mình giăng bẫy mà.” Ả .


      Natalie lắc đầu. “Người ta nghi ngờ chúng cháu. Nhưng còn , có thể dẫn chúng đến cái chết.


      Irina lưỡng lự, cố tìm sơ sót nào đó trong kế hoạch của chúng. “Vậy mày đây được gì nào?”


      “Chúng là nỗi đe dọa lớn nhất của chúng ta,” Ian phân tích. “Có thể chúng vẫn chưa nhận thấy điều này, nhưng rồi chúng cũng nhận ra thôi. Chúng ta phải khử chúng sớm. Như thế tất cả đều có lợi. Hơn nữa, chị có toàn quyền sử dụng căn cứ của nhà Lucian. Sau đó có lúc chúng ta đấu với nhau. Còn ngay lúc này, hai ta cần tiêu diệt cạnh tranh.”


      “Và bọn Madrigal?” Irina thắc mắc.


      Ả nghĩ mình vừa nhác thấy thoáng căng thẳng vụt lướt qua khuôn mặt của Ian, nhưng nó cũng chóng mất . “Lần lượt từng kẻ thù , người họ hàng ạ.”


      Irina thích phải thừa nhận điều này, nhưng quả là thằng nhóc có lý. Ả kiểm tra lại các móng tay, làm ra vẻ tình cờ, để chắc chắn rằng từng mũi tiêm độc đều sẵn sàng.


      “Hai đứa có thấy lạ ,” Ả từ tốn hỏi, “Khi dữ liệu của nhà Lucian có quá ít thông tin về Franklin?” Ả biết quá bọn chúng đăng nhập vào hệ thống máy tính chủ của chi tộc, hệt như điều ả vừa làm.


      Mắt Ian lóe lên bực dọc. “Phải, lẽ ra phải có nhiều hơn thế. ràng là Franklin che giấu điều gì đó... kể cả đối với chính người trong họ của mình.”


      Natalie cười lạnh lùng với thằng . “ người Lucian tin tưởng ngay chính họ hàng của mình - hãy thử hình dung xem.”


      Ian gạt nhận xét đó sang bên. “Than phiền về điều này cũng thay đổi được gì. Chúng ta phải đối phó với đám Dan và Amy. Irina, chúng ta có cam kết chứ?”


      Cửa khách sạn mở ra. người đàn ông phục phịch mặc áo vest nâu bước ngang qua, hướng về phía bàn tiếp tân. Gã nom rất tự nhiên, có thể là tay bảo vệ hay cảnh sát chìm nào đó. Có thể chẳng có liên quan gì đến ba người bọn họ, nhưng Irina chắc chắn điều đó. Chúng ngồ ở đây quá lâu. Lâu hơn nữa biết đâu nguy hiểm.


      “Tốt lắm,” Irina . “Vậy ta là người giăng bẫy.”


      Natalie và Ian đứng phắt dậy.


      Irina thở phào nhõm và hẳn là còn thấy hãnh diện nữa. Nhà Kabra cần đến ả. Rốt cục , đằng nào ả cũng là kẻ già dặn và thông thái hơn nhiều. “Rất vui là chúng ta có với nhau thỏa thuận,” Ả với cả hai, vẻ rộng lượng. “Ta muốn hại hai đứa tí nào.”


      “Ồ, tụi cháu cũng vậy mà,” Ian hứa. “Natalie, tin giờ an toàn rồi.”


      Irina cau mày, chẳng hiểu mô tê gì. Rồi ả nhìn Natalie - con oắt xinh xẻo dường như vô hại trong chiếc đầm trắng - và nhận ra con quỷ kia mang khẩu súng phóng tiêu bằng bạc giấu trong lòng bàn tay khum khum, chỉ cách ngực Irina có năm centimet. Tim Irina ngừng đập. Chính ả từng dùng món này. Những mũi tiêu có thể mang độc chất tệ hại hơn nhiều so với thứ ả giấu trong những móng tay.


      Natalie mỉm cười đáng , vẫn giữ nguyên khẩu súng lên nòng. “Rất vui được gặp , Irina ạ.”


      vậy,” Ian cười mãn nguyện “Cháu muốn bắt tay , người họ hàng ạ, nhưng cháu thích làm hỏng mấy móng tay đặc biệt của đâu. Hãy cho tụi này biết khi nào bọn Amy và Dan bị khử, nhé?”







      CHƯƠNG 8


      KHI THẤY NELLIE RA KHỎI CHỖ THUÊ XE, Amy biết ngay có gì đó ổn. nàng cứ nhăn nhó mặt, tay cầm phong bao dày cộp màu nâu.


      “Đó là gì vậy?” Amy thắc mắc.


      “Cho hai đứa đó.” Nellie chìa món đồ ra. “Có ai đó quẳng ở quầy bàn lúc sá


      thể thế được! Đâu có ai biết tụi mình ở đây.”


      Ngay khi xong câu đó, Amy cảm thấy lạnh sống lưng. Cả bọn vừa mới đặt vé tàu và thuê xe mạng tối qua ở khách sạn, dùng tên Nellie. Liệu có ai đó lần ra dấu vết của chúng nhanh đến vậy sao?


      phong bì ghi gì vậy?” Dan hỏi.


      “Gửi A. & D. Cahill,” Nellie đọc lên. “Từ W. McIntyre.”


      “Ông McIntyre!” Dan chộp ngay lấy gói bưu phẩm.


      “Khoan !” Amy hét lên. “Đó có thể là cái bẫy.”


      Dan tròn xoe mắt. “Thôi . Nó từ...”


      “Có thể đến từ bất kỳ ai,” Amy khăng khăng. “Có thể nó phát nổ hay gì đó sao.”


      “Ui cha,” Nellie thốt lên. “Sao lại có ai gửi cho hai đứa nhóc quả bom chứ? Còn cái gã McIntyre này là ai nữa?”


      Dan nhe răng cười. “Em chúng ta hãy để chị Nellie dấu mở ra.”


      !” Nellie từ chối.


      “Chị là au pair của tụi em mà! Chẳng phải chị là người phải mở kíp nổ cho tụi em và các thứ khác hay sao?”


      “Chị phải lái xe nữa, nhóc à. Vậy là đủ rồi!”


      Amy thở dài và giật lấy gói bưu phẩm. Nó bước vào bãi đậu xe, xoay nắp phong bì ngược hướng với chỗ Dan và Nellie đứng, đoạn cẩn thận mở nó ra.


      có gì xảy ra. Bên trong là ống hình trụ bằng kim loại trông như chiếc đèn pin, ngoại trừ ánh sáng phát ra lại là dải thủy tinh màu tím chạy dài xuống bên thân. mẩu giấy kèm theo chiếc ống với chữ viết tay nguệch ngoạc, như thể người viết khi ấy bận rộn lắm.


      ***


      “Tìm thông tin gì chứ?” Dan thắc mắc khi đọc qua vai của Amy.


      “Chị nghĩ đó là đầu mối tiếp theo.”


      “Đầu mối gì nào?” Nellie vặn hỏi.


      có gì hết,” Dan và Amy đồng thanh đáp.


      Nellie thổi chùm tóc đen và vàng khỏi mắt. “Sao cũng được. Cứ ở yên đó. Chị mang xe quanh đây.”


      nàng cho cả hai đứng đực ra bên chỗ hành lý và con mèo Saladin trong chiếc lồng mới. Saladin chưa bao giờ quá hài lòng với món đồ này - cũng tương tự như Nellie thể hài lòng với chỗ cá hồng tươi mà chúng mua về chỉ để cho nó vui vẻ - nhưng Amy nỡ bỏ nó lại.


      “Meo?” Saladin ngơ ngác.


      Amy cúi xuống gãi vào đầu nó bên dưới các thanh chắn. “Dan, có lẽ chúng ta nên thực cuộc gặp gỡ này. McIntyre cảnh báo chúng ta chớ có tin ai.”


      “Nhưng tờ giấy của chính ông ấy.”


      “Có thể đó là cái bẫy.”


      “Càng tốt! Chúng ta càng nên đến đó!”


      Amy xoắn tóc lại. Nó rất ghét mỗi khi Dan cà rỡn. Và việc này cũng có thể nguy hiểm nữa chứ. “Nếu chúng ta đến đó, tờ giấy bảo chúng ta phải tìm trước thông tin.”


      “Nhưng chị biết tìm đúng nào? Chị thông minh các kiểu mà.”


      Thông minh các kiểu. Cứ như đó là tất cả những gì hai đứa nhóc cần có để tìm kiếm đầu mối ngay giữa thành phố khổng lồ. Trước khi rời Boston, Amy đổ ít tiền vào nhiều cuốn sách viết về Franklin và Philadelphia từ bạn nó ở cửa hàng sách cũ. Nó dành cả chuyến tàu vào việc đọc, thế nhưng...


      “Chị có vài ý tưởng,” Amy thừa nhận. “Nhưng chị lại biết rồi sau chúng ta đến những đâu. Ý chị muốn là - em bao giờ thử hình dung kho báu cuối cùng như thế nào chưa?”


      “Cái gì đó rất oách.”


      “Ôi, gợi ý mới hay ho làm sao. Ý của chị là, cái gì có thể biến ai đó trở thành người Cahill quyền lực nhất từ trước đến nay cơ? Và vì sao lại là ba mươi chín đầu mối?”


      Dan nhún vai. “Ba mươi chín là con số hay ho. Đó là 3 x 13. Cũng là tổng của 5 số nguyên tố liên tiếp - 3, 5, 7, 11, 13. Và nếu chị cộng tổng ba lũy thừa đầu tiên của 3, là 31 + 32 + 33 chị cũng có 39.”


      Amy nhìn thằng em chăm chăm. “Làm thế nào mà em biết?”


      “Ý chị là sao? Đó là điều hiển nhiên mà.”


      Amy lắc đầu khó hiểu. Dan hầu như luôn hành xử như thằng ngố. Rồi thình lình nó lại lôi ở đâu ra cái gì đó - cộng các số nguyên tố hay các lũy thừa của số 3 là những thứ đời nào Amy nghĩ ra. Cha của cả hai từng là giáo viên dạy toán và ràng là Dan thừa hưởng từ ông tất cả khả năng về con số. Với Amy, chỉ nhớ số điện thoại thôi cũng khiến nó gặp đủ rắc rối rồi.


      Amy giơ chiếc ống hình trụ quái gở mà McIntyre gửi lên. Nó mở công tắc và ánh sáng tím bừng lên.


      “Cái này là gì đây?” Dan hỏi.


      “Chị biết.. “Nhưng chị có cảm giác chúng ta nên tìm ra đó là gì trước 8 giờ tối nay.”






      Amy ghét xe cũng y như nó ghét đám đông. Nó tự hứa với lòng mình rằng khi về già sống ở nơi nào đó mà bao giờ phải xe. phần nguyên nhân cũng vì nó ngồi trong chiếc xe do Nellie lái.


      Nellie thuê chiếc Toyota Hybrid. nàng chiếc xe bảo vệ môi trường hơn, điều này ổn thôi với Amy, nhưng lại tốn đến 258 đô la ngày, thêm cái cách mà Nellie bẻ cua và rồ ga chẳng “xanh” tí nào.


      Cả ba xa lộ liên bang 95 hướng về khu trung tâm, bất thình lình Amy ngoảnh nhìn lại phía sau. Nó chắc vì sao như vậy - cái cảm giác nhột nhạt như kiến bò cổ giống như có ai đó theo dõi. Và quả chúng bị theo dõi.


      “Chúng ta bị bám theo,” Nó la lên.


      “Sao cơ?” Dan .


      “Năm chiếc ở phía sau,” Amy . “Mercedes xám. Đó là bọn Starling.”


      “Cà phê Starbuck à?” Nellie hào hứng. “Đâu?”


      “Starling thưa chị,” Amy sửa lại. “Họ hàng của tụi em. Ned, Ted và Sinead.”


      Nellie khịt mũi. “Đó đâu phải là tên người hả.”


      “Em giỡn đâu mà,” Amy lại. “Đó là, ừ , phần của cuộc truy tìm. Nellie, chúng ta thể để bọn chúng bám theo. Phải cắt đuôi bọn kia thôi.”


      cần phải nhắc Nellie tiếng thứ hai. nàng bẻ vô lăng sang phải và chiếc Toyota băng ngang qua ba làn đường. Saladin ngao lên tiếng. Ngay khi cả bọn suýt đụng vào con lươn, Nellie trượt chiếc xe gọn lỏn vào đường thoát


      Hình ảnh cuối cùng Amy nhìn được về nhà Starling là khuôn mặt đầy tàn nhang của Sinead dán vào kính chiếc Mercedes, quai hàm há hốc ra khi thấy nó và Dan lao mất.


      “Vậy đủ chưa nào?” Nellie hỏi.


      “Meo!” Saladin phản đối.


      “Chị suýt nữa giết hết cả đám đấy!” Dan nhoẻn nụ cười khoe mười cái răng. “Hãy làm lại lần nữa xem sao!”


      !” Amy lên tiếng. “Đường Locust. Và nhanh lên chị!”


      ***


      Điểm dừng chân đầu tiên chính là Thư viện Philadelphia, tòa nhà lớn bằng gạch đỏ ở ngay giữa khu trung tâm. Amy và Dan bảo Nellie chờ chúng trong xe cùng con Saladin. Rồi cả hai bước đến chỗ bậc tam cấp.


      “Ôi trời ơi, lại thư viện nữa sao,” Dan lên tiếng. “Chúng ta quá đủ may mắn với những cái thư viện rồi đấy.”


      “Franklin lập ra nơi này,” Amy bảo nó. “Nơi đây có rất nhiều sách từ bộ sưu tập cá nhân của ông. Nếu như chúng ta có thể thuyết phục những thủ thư...”


      “Mà Franklin sao nào? Ý em là, đây là cái tay phát minh ra điện hay đại khái như vậy đúng nào. Đó là chuyện cách đây cả trăm năm trước rồi còn gì?”


      “Ông ấy phát minh ra điện,” Amy chỉnh lại, cố giữ giọng quá bực dọc. “Ông ấy phát ra rằng sét cũng chính là điện. Ông phát minh ra cột thu lôi để bảo vệ cho các tòa nhà, làm thí nghiệm với các loại pin và...”


      “Em cũng làm như vậy. Chị bao giờ đặt cục pin lên lưỡi chưa?”


      “Em đúng là thằng đần. Vấn đề là Franklin nổi tiếng vì rất nhiều lý do khác nhau. Ông trở nên giàu có bằng nghiệp in ấn. Rồi ông trở thành nhà khoa học và phát minh ra hàng tá các thứ. Sau đó ông cũng tham gia viết Tuyên ngôn Độc lập cùng Hiến pháp nước ta. Thậm chí ông còn là đại sứ của Mỹ được phái đến và Pháp. Ông ấy là người xuất chúng. Nổi tiếng thế giới. Ai cũng mến ông và ông sống đến hơn tám mươi tuổi.”


      “Siêu nhân,” Dan nhận xét.


      “Cũng gần như vậy đó.”


      “Vậy chị nghĩ ông ấy có biết nó là gì - cái kho báu mà chúng ta truy tìm ấy?”


      Amy chưa nghĩ đến điều này. Franklin từng là trong những nhân vật có sức ảnh hưởng sâu rộng nhất trong lịch sử. Nếu ông ấy là người nhà Cahill, và biết về kho báu bí mật của gia đình ...


      “Chị nghĩ là,” Nó , “Tốt nhất chúng ta hãy tìm ra điều này.”


      Amy mở cửa và dắt Dan vào bên trong thư viện.


      ***


      May mắn thay, những thủ thư ngày nhàn nhã và Amy chút ngại ngùng khi tiếp xúc với họ. Nó mến thủ thư. Khi nó trình bày nó thực nghiên cứu trong mùa hè về Benjamin Franklin và cần sử dụng vài tư liệu lịch sử, tất cả đều hết lòng giúp đỡ.


      Thủ thư bắt hai đứa Amy và Dan đeo găng tay cao su vào và ngồi trong phòng đọc sách có kiểm soát nhiệt độ trong lúc chờ họ mang ra những quyển sách cổ.


      Người thủ thư đặt quyển đầu tiên xuống và Amy há hốc miệng. “Đây là bộ sách biếm họa đầu tiên của Franklin!”


      Dan liếc mắt nhìn cuốn sách. Bức hình vẽ con rắn bị cắt làm mười ba khúc, mỗi khúc có đề tên khu vực nước Mỹ.


      “Biếm họa như vậy chả vui tí nào,


      phải để vui,” Amy bảo thằng em. “Vào thời đó, biếm họa thể quan điểm nào đấy. Bức tranh này đại loại ông ấy muốn rằng nếu như các thuộc địa hợp sức lại với nhau, nước chia cắt tất cả.”


      “Ừ há.” Dan chuyển tập trung vào chiếc máy vi tính của mình. Cả hai ở trong thư viện được chừng năm phút và nó ngồi ì ra đó, thấy chán nản, thà chúi đầu vào chiếc laptop còn hơn là phụ giúp chị mình.


      Amy dò kỹ những món cổ vật khác: tờ báo được chính xưởng in của Benjamin Franklin thực , quyển Hành hương[1] do chính Franklin sở hữu. Quá nhiều những thứ tuyệt vời... nhưng nó tìm cái gì đây? Amy cảm thấy bị áp lực và dưới áp lực nó khó lòng làm được điều gì tới nơi tới chốn.


      [1] Pilgrim’s Progress, tác phẩm của John Bunyan xuất bản năm 1678.


      tìm ra thứ mà cháu cần hay chưa?” Người thủ thư hỏi nó. Bà có mái tóc hơi rối và cặp kính hai tròng, nom như bà phù thủy thân thiện.


      “Dạ, chắc là phải tìm thêm ít nữa. Bất kỳ món gì... quan trọng với Franklin ấy ạ.”


      Bà thủ thư nghĩ ngợi lát. “Những lá thư rất quan trọng với Franklin. Ông viết nhiều, rất nhiều thư cho bạn bè và gia đình bởi ông sống rất lâu ở châu Âu. Để ta mang cho cháu vài bức thư.” Bà chỉnh lại cặp kính và rời phòng.


      “Franklin cũng phát minh ra món này,” Amy bâng quơ.


      Dan nhăn mặt. “Phát minh ra thủ thư?”


      , mắt kính hai tròng! Ông ấy dùng hai bộ tròng kính, cắt ra mỗi mẫu nửa và dán lên kính để có thể nhìn được cả xa lẫn gần chỉ với cặp kính mà


      “Ồ.” Trông Dan chẳng có tí gì ấn tượng. Nó quay trở lại với chiếc laptop. Nó có trong tay chiếc đèn pin bí của McIntyre và cứ bật nó lên xuống miết.


      Bà thủ thư quay trở lại mang theo chồng những món khác, bao gồm những lá thư tay được lưu trữ trong các miếng bìa nhựa. Amy đọc lướt qua, nhưng nó cảm thấy vô vọng hơn bao giờ hết. Chẳng có gì bật ra khỏi đầu nó. Chẳng có gì hét lên chữ “đầu mối”.


      Bất chợt, Dan ngồi bật dậy. “Em tìm ra rồi!”


      “Tìm ra gì?” Amy đinh ninh Dan chơi game, nhưng khi chú nhóc xoay chiếc laptop về phía con bé, có tấm hình chiếc đèn pin hệt như thứ mà ông McIntyre gửi đến cho chúng.


      “Đó là chiếc đèn đọc sách bằng tia cực tím,” Dan tuyên bố.


      “Ồ!” Bà thủ thư lên tiếng. “Rất giỏi. Chúng ta cũng có thứ đó trong bộ sưu tập ở đây.”


      Amy ngước lên hỏi, “Sao cơ ạ? Chúng dùng để làm gì?”


      “Nó làm lộ ra những văn tự mật,” Bà thủ thư trả lời. “Trong thời Chiến tranh cách mạng, các điệp viên vẫn sử dụng loại mực vô hình để truyền thông điệp muốn ngay các văn bản tưởng chừng như vô hại, như thư tình hay đơn đặt hàng gửi đến các thương buôn. Người nhận sử dụng nhiệt hay chất hóa học đặc biệt nào đó để làm lộ ra những chữ bí mật giấu bên trong. Tất nhiên chúng ta thể làm hỏng các tài liệu ở đây bằng cách xịt hóa chất lên đó, do vậy phải sử dụng đến đèn đọc sách bằng tia cực tím để tìm kiếm các thông điệp bí mật.”


      Amy cầm lấy chiếc đèn. “Cháu có thể...”


      “Để ta giúp cháu tiết kiệm thời gian, bé cưng ạ,” Bà thủ thư trả lời. “Chúng ta kiểm tra hết tất cả các văn bản từ thời thuộc địa, tất nhiên rồi. Rủi thay lại chẳng có thông điệp bí mật nào hết.”


      Amy rng rời. Cả hai phí thời gian ở nơi này, và tới giờ nó vẫn chưa biết mình tìm kiếm thứ gì. Trong đầu Amy danh sách những nơi cần phải đến, nhưng nó quá dài. Và cách nào cả hai có thể đến hết trước tám giờ tối hôm nay.


      Thông điệp bí mật. Franklin viết rất nhiều thư cho bạn bè và gia đình khi ông sống tại châu Âu. Hãy theo Franklin. ý tưởng điên rồ hình thành trong đầu con bé.


      Amy nhìn người thủ thư. “Bác những lá thư rất quan trọng với ông ấy. Vậy còn nơi nào khác trưng bày những lá thư ạ?”


      Bà thủ thư mỉm cười. “Con hỏi mới vui làm sao. số các văn bản viết tay của Franklin được trưng bày trong tháng này tại Viện Franklin ở dưới...”


      “Bảo tàng khoa học?” Amy nhanh nhẩu. “Phố 20 đúng bác?”


      “Phải.” Vị thủ thư quá đỗi ngạc nhiên. “Làm thế nào mà con...”


      “Cám ơn bác!” Amy phóng ào ra khỏi phòng còn Dan lẽo đẽo theo sau.


      ***


      Đến Viện Franklin xa. Nellie cũng quá hào hứng khi phải ở chung xe với con mèo thêm lần nữa, nhưng Dan và Amy thuyết phục nàng hai đứa chóng quay trở lại.


      Hai đứa chạy vào bên trong và trông thấy bức tượng Benjamin Franklin bằng cẩm thạch màu trắng cao gần bảy thước đặt chiếc ghế khổng lồ ở gian chính cúi nhìn xuống chúng.


      “Ôi trời đất quỷ thần ơi,” Dan thốt lên. “Đó là Ben bự.”


      Amy gật đầu. “Vào cuối đời, ông nặng nề đến mức người ta phải cho bốn người hầu khênh ông chiếc ghế kiệu.”


      “Tuyệt,” Dan . “Em cũng muốn có chiếc ghế như vậy


      “Em nặng chưa tới năm mươi ký lô.”


      “KẾ HOẠCH[2]: Bắt đầu ăn nhiều kem hơn nữa.”


      [2] nghĩa của từ resolution trong tiếng .


      “Ôi thôi nào!”


      Bảo tàng khổng lồ. Hai đứa bước qua đài tưởng niệm và vào khu bán vé, sau đó theo bản đồ vào phòng trưng bày Franklin. Lúc đó vào cuối chiều và nơi đây khá vắng vẻ.


      “Coi cái này thử xem!” Dan nhặt lấy cánh tay cơ khí và khều khều khuỷu tay của Amy.


      “Ngừng lại ngay!” Amy quát. “Franklin chế tạo ra thứ đó để lấy những vật dụng phía giá cao xuống chứ phải là để khều tay của chị.”


      “Em dám cá là ông này có người chị...”


      “Có! Dan à, chúng ta phải tìm những lá thư của ông ấy. Đừng có cà rỡn nữa.”


      Cả hai tiếp tục . Chúng tìm thấy chỗ trưng bày, những cột thu lôi, hàng tá kính hai tròng, và trong những cục pin dùng để tạo ra điện - cái thùng bằng gỗ chứa đầy chai lọ thủy tinh được cột lại với nhau. “Món đó mới bự làm sao,” Dan . “Kia là cái gì mà trông giống cặp pin Z thế nhỉ? Và úi chà, kia là cái gì vậy?”


      Nó lại chạy đến bên gian trưng bày khác. Bên trong có chiếc hộp bằng gỗ mahagony đựng hàng đĩa thủy tinh xếp khít lại giống như chồng tô bằng sứ được chất lên nhau.


      “Đó là chiếc armonica,” Amy giải thích, mắt nhìn vào bản mô tả. “Nó tạo ra nhạc bằng cách cọ xát nước với viền của những tấm kính.”


      “Bá chấy, Franklin cũng chế tạo ra thứ này sao?”


      “Phải, ở đây còn ghi là vào thời đó từng có lúc nó rất phổ biến. Nhiều nhà soạn nhạc nổi tiếng viết nhạc dành riêng cho...”


      Amy lạnh cả người. người đàn ông cao lớn tóc hoa râm vừa băng vào sảnh ở khu trưng bày bên cạnh, tiến về bàn hướng dẫn. Và gã ta mặc bộ vest đen.


      “Cái gì?” Dan thắc mắc.


      “Gã áo đen,” Amy lắp bắp. “Chạy mau!”


      Nó chộp tay thằng em và cả hai phóng nhanh vào sâu bên trong khu triển lãm. Cho đến khi cách những hai phòng chúng mới dừng lại, núp đằng sau quả cầu thủy tinh lớn thể thái dương hệ.


      “Gã đó làm cái gì ở đây nhỉ?” Amy hoảng hốt.


      “À, chắc là,” Dan . “Đám cháy ăn thua, nên đến đây để tóm chúng ta! Bây giờ thể ra bằng cửa chính được. đợi và chộp lấy chúng ta ngay tức khắc.”


      Amy dáo dác nhìn quanh tìm lối thoát khác. Rồi nó nhận thấy cái gì đó bức tường phía bên phải. Những văn bản. Những kệ đầy ắp văn bản - tất cả đều bằng giấy da ngả vàng được viết bằng bút tích ngoằn ngoèo.


      “Chính là những lá thư của Franklin!” Amy thốt lên. “Mau, đưa chị đèn đọc tia cực tím!”


      Dan lục ba lô và lôi ra chiếc đèn. Hai đứa giơ nó lên chỗ lá thư đầu tiên và rọi xuyên qua tấm thủy tinh. Văn bản này trông như cầu tiếp tế. Nó viết bắt đầu như sau:


      Thưa ngài -mới đây tôi có viết cho ngài ở New York, hy vọng thư mau đến. Lúc này tôi chỉ mong ngài gửi giúp những món sau đây


      1 tá - Từ điển tiếng của Cole


      3 tá - Cuốn Mathers Young Mans Compann


      1 lượng -Iron Solute


      2 cuốn - Quarter Waggoners for America


      Ánh sáng tím lướt qua tờ giấy nhưng có gì xảy ra.


      “Tiếp theo!” Amy giục. Nó biết chắc người áo đen xông vào tóm lấy chúng bất kỳ lúc nào.


      “Oa!” Dan thốt lên.


      Amy nắm chặt cánh tay nó. “Em tìm thấy sao?”


      phải, nhưng mà chị nhìn xem! Cả bài luận này - “Gửi Học viện hoàng gia.” Ông ấy viết cả bài luận về tiếng rắm!” Dan cười toe toét đầy vẻ khoái chí. “Ông già đề xuất nghiên cứu khoa học về đủ thứ mùi của rắm. Chị đúng, Amy. Cha này quả là thiên tài!”


      “Dan, em đúng là thằng đại ngốc! Cứ tiếp tục tìm !”


      Cả hai tiếp tục tìm thêm bốn văn bản nữa của Franklin. Cũng chẳng xuất thêm gì. Rồi sang đến cái thứ năm, Dan la lên. “Đây rồi!”


      Cũng may đó phải là bài luận khác về đánh rắm. Lá thư này có vẻ như Franklin viết tại Paris vào năm 1785 cho ai đó có tên là Jay. Amy hiểu nội dung viết về cái gì. Nó có thời gian để đọc. Thế nhưng những dòng chữ màu vàng lóe lên giữa các dòng chữ đen khi ánh sáng chiếu vào - thông điệp bí mật viết bằng nét chữ của Benjamin Franklin.


      Ta phải sớm rời


      Khỏi nơi kì diệu


      Nhưng để lại


      Thứ khiến dân tan


      Bên dưới, vẽ bằng tay, là huy hiệu có hai chú rắn cuộn quanh thanh gươm.


      Amy há hốc miệng. “Đó chính là trong những huy hiệu thư viện của Grace - huy hiệu mang chữ L. Franklin hẳn phải là người chi họ Lucian!”


      “Vậy đó là đầu mối thứ hai sao?” Dan thắc mắc. “Hay đầu mối dẫn tới đầu mối?”


      chiếc camera bấm đánh tách. “Thế nào cũng được,” giọng con vang lên. “Khá lắm.”


      Amy quay đầu lại và thấy mình bị nhà Starling vây quanh. Chúng mặc trang phục giống hệt nhau - quần kaki, ve cổ đính cúc và giày bệt. Mái tóc nâu vàng của Sinead được buộc túm đuôi ngựa. Hai đứa em, Ted và Ned, đứng cạnh chị nó, cười nham hiểm. Tay Sinead cầm chiếc điện thoại di động, là món đồ mà con nhóc dùng để chụp ảnh đầu mối của chúng.


      “Hai đứa bây cắt đuôi bọn này rất hay ở xa lộ,” Sinead thừa nhận. “Thế nhưng may mắn là lại có quá nhiều địa điểm liên quan đến Franklin mà bọn mày phải đến. Nhờ vào đầu mối.”


      Nó giật chiếc đèn đọc sách bằng tia cực tím khỏi tay Dan. “Giờ hãy nghe đây. Hai đứa tụi bây phải ở lại bảo tàng này trong vòng nửa giờ đồng hồ. Hãy để bọn tao dẫn đầu, tao buộc phải trói cả hai lại. Nếu sớm ra khỏi đây, tao hứa rằng Ted và Ned phát ra. Và hai đứa nó vui vẻ đâu.”


      Hai đứa em nhe răng cười ma quái.


      Sinead xoay người bước , nhưng Amy kịp bật ra, “Ch-ch-ờ !”


      Sinead nhếch bên lông mày.


      “C-có người...” Amy cố nhiều hơn, nhưng cả bọn Starling cứ nhìn nó lom lom. Amy thấy như mình bị chìm nghỉm trong nước đá.


      “Gã nào?” Sinead gặng hỏi.


      ta theo dõi tụi này!” Dan chen vào. “ theo tụi này! Ra ngoài sảnh an toàn đâu.”


      Sinead mỉm cười. “Mày quan tâm đến an toàn của tụi này ư? Đáng làm sao, Dan ạ, nhưng vấn đề là”, Sinead tiến đến và chọc vào bụng nó sau từng chữ - “TAO CÓC TIN MÀY.”


      Sinead và hai đứa em phá lên cười sằng sặc, rồi quay người tiến thẳng về cửa chính.


      Trước khi Amy có thể nghĩ ra mình làm gì, tiếng ro ro kinh khủng làm rung chuyển cả sàn nhà. Và rồi: BÙM!


      Cửa kính bục trưng bày vỡ tan tành. Cả tòa nhà rung lên. Amy bị ném về phía Dan và cả hai ngã lăn quay xuống sàn.


      Khi ngồi dậy, Amy chỉ nhìn thấy lờ mờ. Nó mình ở lại đó trong bao lâu, đầu óc mê mụ. Chân nó loạng choạng và giẫm lên cánh tay của Dan.


      “Tỉnh dậy nào!” Amy , nhưng nó cũng thể nghe được tiếng của mình.


      “Cái gì thế?” Dan thều thào trong miệng.


      Nó giật mạnh chân thằng bé. Chúng cùng nhau chạy về phía lối ra. Khói bụi phủ tràn ngập khí. Đèn báo động khẩn cấp sáng lên trong tiếng còi báo cháy inh ỏi. đống gạch đá chắn lối ra khỏi nhà triển lãm Franklin, như thể mảng tường sụp xuống. sàn ngay gần chân của Amy là chiếc đèn đọc sách bằng tia cực tím cùng điện thoại di động của Sinead.


      có chút dấu vết nào của bọn Starling cả.



      <

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :