1Q84 - Haruki Murakami (Q2 - 24C) (Trinh thám)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      1Q84

      [​IMG]

      1Q84 (Tập 2)

      Tác giả: Haruki Murakami

      Dịch giả: Lục Hương

      Số trang: 416 - 24C

      Kích thước: 15 x 24cm

      Ngày xuất bản: 11-12-2012

      Giá bìa: 105.000 ₫

      Công ty phát hành: Nhã Nam

      Nhà xuất bản: NXB Hội Nhà Văn

      Giới thiệu


      Đừng chỉ đọc các trích đoạn nho nhỏđăng những trang báo, tin tức, giới thiệu sách. Hãy mang quyển về nhà và tự chiêm nghiệm, để thấy được tài năng của Murakami, cũng như để bỏ lỡ câu chuyện được kể cách rất xuất sắc.


      Bất chấp thể loại bạn thích làlãng mạn, kỳ bí hay điều tra vụ án, 1Q84 đều đáp ứng được. cách khác, quyển sách có đầy đủ các yếu tố hấp dẫn mọi thể loại độc giả.


      Bên trong quyển sách, có câuchuyện tình. Đó là chuyện tình từ khi còn rất giữa Aomame và Tengo. khoảnh khắc nắm tay để rồi mãi hàng chục năm sau, cả hai vẫn mang trong lòng nỗi mong mỏi được gặp lại, được bộc bạch nỗi lòng với người kia.


      câu chuyện huyền bí về giáophái Sakikage, về Người Tí Hon dệt nên Nhộng Khí, về thế giới có hai mặt trăng cùng tồn tại, nơi khiến người ta nghi ngờ về logic trong chính đầu óc của mình - đến mức Aomame còn tin rằng mình sống ở năm 1984, rằng tồn tại ở gian gọi là năm 1Q84 (Q nghĩa là Question).


      Rồi lại có những tội lỗi đan xen. Bà chủ muốn đưa những gã đàn ông đốn mạt sang thế giới khác trong yên lặng, và Aomame là cánh tay đắc lực của bà với ngón nghề điêu luyện. Lãnh tụ tà giáo cưỡng bức trẻ em mà ai hay biết. quyển tiểu thuyết được chỉnh sửa để thắng giải Tác giả mới và trở thành Best-sellers đình đám. Vẫn chưa hết...


      Còn có cả câu chuyện nhân văn vềcuộc đời. Tengo, Aomame, và cả những nhân vật ngỡ-là-phụ khác đều cảm nhận cuộc sống theo cách riêng của họ, với những trải nghiệm và suy tư rất "người," đầy trăn trở, đầy day dứt về lẽ sống, cách sống của bản thân. Họ khao khát đối tượng để thương, dù đó là người khác giới – như Aomame, Tengo; con vật – như Tamaru quý con chó giữ nhà; hay đứa con – như Bà chủ. Cuộc sống của họ ngỡ vô cùng phức tạp, phóng túng, nhưng xét đến cùng, đều được xây dựng những triết lý đơn giản về cuộc sống.


      Với rất nhiều nguyên liệu chọn lọc,Murakami kể câu chuyện hấp dẫn, pha trộn giữa huyền bí, siêu thực với cuộc sống nội tâm của con người và những biến cố kì lạ trong cuộc sống.


      Nếu bạn chưa từng đọc tác phẩm nàocủa Murakami, đây là thiên truyện khiến bạn phải ngưỡng mộ và lùng sục để được đọc thêm nhiều tác phẩm khác. Còn nếu bạn biết đến ông, càng dứt khoát nên sở hữu đủ bộ 1Q84, vì phải , cho đến nay, đây thực là tiểu thuyết thể tài năng kể chuyện của Murakami tới mức cao nhất, tinh tuý nhất.


      Sách được Nhã Nam thực với côngtác biên dịch – biên tập rất tốt. Đọc từ đầu đến cuối, bạn tìm thấy lỗi sai nào về từ vựng (thậm chí có cả lỗi type hay chính tả), chất lượng văn phong cũng rất cao, truyền tải được tốt ý đồ của câu chuyện. Nhìn toàn cục, đây xứng đáng là quyển tiểu thuyết cần-phải-có dành cho bạn.


      ©


      Cuốn 1Q84 kể về quá trình tổchức cánh tả biến đổi thành giáo phái của những kẻ điên rồ và những tên sát nhân, ám chỉ giáo phái Aum – giáo phái gây nên vụ đầu độc kinh hoàng trong hệ thống xe điện ngầm ở Tokyo năm 1995 khiến 12 người thiệt mạng và hàng trăm người chịu những di chứng nặng nề về thể chất và tinh thần.


      Khi giải thích ý đồ cuốn tiểuthuyết, Haruki Murakami cho biết ông muốn cảnh báo mọi người về nguy cơ của chủ nghĩa chính thống và khuynh hướng xuất các giáo phái trong bối cảnh khủng hoảng toàn cầu của thế giới đại.


      Cho tới nay, chỉ trong vòng nửa năm,số lượng bản in 1Q84 lên tới con số kỷ lục là 3,23 triệu bản. Ngay sau khi ra mắt bạn đọc hồi cuối tháng 5 năm nay, cuốn 1Q84 ngay lập tức được người dân Nhật tranh nhau tìm mua và mau chóng biến mất khỏi các quầy sách, bởi vậy phải liên tục tái bản nhiều lần.


      Kỷ lục của 1Q84 còn có ý nghĩa hơnnữa bởi vì đây là tác phẩm văn học đầu tiên kể từ năm 1990 giành được danh hiệu “cuốn sách bán chạy nhất trong năm” ở Nhật.


      Trước đó, danh hiệu này thường chỉthuộc về các loại sách tra cứu mang tính giải trí, các cuốn hồi ký chính trị hoặc tư liệu. Ngay cả năm nay cũng vậy, tuy được thừa nhận là bestseller nhưng 1Q84 vẫn thua kém chút ít cuốn sách tra cứu những từ tượng hình khó đọc.


      Theo lời nhà văn Haruki Murakami,cuốn 1Q84 có thể coi là câu trả lời độc đáo đối với cuốn 1984, cuốn tiểu thuyết được coi là kinh điển của văn hào George Orwell. (Cũng nên biết thêm trong tiếng Nhật, chữ Q phát gần giống cách phát số 9 trong tiếng ).


      Haruki Murakami năm nay 60 tuổi.Ông là nhà văn Nhật được biết đến nhiều nhất ở nước ngoài. Tất cả các cuốn tiểu thuyết của ông đều bán rất chạy, chẳng hạn như các cuốn Biên niên ký chim vặn dây cót, Rừng Na Uy, Kafka bên bờ biển.


      Ông cũng được coi là trong nhữngứng cử viên nặng ký cho giải Nobel văn học trong tương lai mặc dù ông có lần tuyên bố coi trọng các giải thưởng văn học. Theo lời ông, phần thưởng lớn nhất đối với nhà văn là được độc giả mến.




      Nội dung


      Aomame sống ở năm 1984. BảnSinfonietta của Leoš Janáček phát ra từ đài FM trong chiếc taxi đường cao tốc thủ đô khiến nàng bắt đầu nhận thấy có gì đó bất thường trong thế giới thực tại. Nàng phát ra tồn tại của thế giới phải thế giới này bên cạnh thế giới này. Với rất nhiều câu hỏi chưa lời giải cho những bất thường diễn ra xung quanh, nàng đặt tên cho năm mình sống là 1Q84, “Q” là chữ cái đầu của từ “Question”.


      Tengo cũng sống ở năm 1984. dạytoán tại trường dự bị. Ôm mộng văn chương, có thừa tài năng nhưng mặc cảm quá khứ về người mẹ như tảng đá khổng lồ chặn đứng dòng năng lượng trong khiến vẫn mãi chỉ là kẻ bồi bút vô danh. Tuy nhiên kế hoạch đầy mạo hiểm của Komatsu, biên tập viên lão luyện của tạp chí văn nghệ, đẩy vào rắc rối ghê gớm. Chính rắc rối ấy đưa Tengo gặp lại người bạn thời tiểu học vẫn luôn ám ảnh .


      Với đầy đủ thực lẫn huyền ảo,Murakami đưa ta lạc vào thế giới chuyện kể quá đỗi hấp dẫn trong 1Q84. Cuốn tiểu thuyết gồm các chương xen kẽ về Aomame và Tengo. Khi đọc xong về Aomame, bạn chắc chắn muốn tiếp tục với Tengo và ngược lại. tác phẩm xứng đáng với ba năm chờ đợi của những độc giả mến Murakami.


      “Murakami giống như nhà ảo thuậtđang diễn giải những gì mình thực trong lúc biểu diễn song vẫn khiến người ta tin rằng ông sở hữu sức mạnh siêu nhiên… Trong khi bất cứ ai cũng có thể kể câu chuyện giống như giấc mơ, ông là trong số ít nghệ sĩ có thể khiến chúng ta thấy mình thực mơ, giống như với tiểu thuyết này.” - The New York Times Book Review


      “1Q84 là trong những cuốn sáchnhanh chóng biến mất khỏi tay bạn, lôi bạn vào huyền bí của nó với tốc độ và kỹ năng khiến bạn chẳng thể nhận ra rằng nhiều giờ trôi qua và hàng núi trang sách bị ngốn sạch...” - Rob Brunner, Entertainment Weekly



      Về tác giả


      Haruki Murakami, nhà văn Nhật Bảnlừng danh, là tác giả nhiều tiểu thuyết thuộc hàng bán chạy nhất thế giới đồng thời nhận được đánh giá cao của giới phê bình nghiêm túc, “hàn lâm”. Nhiều tác phẩm của ông dịch ra tiếng Việt và được người đọc Việt Nam ưa thích, như Rừng Na Uy, Biên niên ký Chim vặn dây cót, Phía Nam biên giới phía Tây mặt trời, Kafka bên bờ biển, Người tình Sputnik, Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và chốn tận cùng thế giới, Cuộc săn cừu hoang, Nhảy nhảy nhảy…



      Annabelle thích bài này.

    2. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 01: Đó là nơi buồn tẻ nhất thế giới - P1

      Aomame


      Đó là nơi buồn tẻ nhất thế giới


      Mùa mưa dầm chưa chính thức kết thúc song bầu trời Tokyo xanh ngắt màu, mặt trời giữa hè chói chang thỏa sức rọi xuống mặt đất. Liễu lần nữa lại xanh um lá, đung đưa phủ bóng sum sê xuống mặt đường.


      Tamaru đón Aomame ở tiền sảnh. ta mặc bộ vest mùa hè tối màu, sơ mi trắng, thắt cà vạt trơn. Và đổ giọt mồ hôi nào. người đàn ông cao lớn như ta mà thời tiết nóng bức đến đâu cũng chẳng đổ mồ hôi, đấy là điều bấy nay vẫn khiến Aomame thấy khó tin.


      Gặp Aomame, Tamaru khẽ gật đầu, chỉ chào tiếng cụt lủn rất khó nghe ra rồi gì nữa, mà cũng chuyện trò vài câu với nàng như mọi khi. ta cắm cúi trước, băng qua hành lang dài, ngoái đầu lại, đưa Aomame đến chỗ bà chủ đợi.


      Chắc ta còn tâm trạng nào để chuyện phiếm với ai, Aomame đoán. Có lẽ cái chết của con chó là cú sốc quá lớn đối với ta. “Phải tìm con chó giữ nhà khác,” qua điện thoại ta với Aomame như thế, hệt như chuyện thời tiết. Nhưng cả Aomame cũng hiểu, thể qua đó mà biết được tâm trạng của Tamaru. Con chó cái giống béc giê Đức ấy có vị trí hết sức quan trọng trong lòng ta, từ nhiều năm nay hai bên rất hiểu nhau. Hẳn ta xem cái chết đột ngột khó hiểu của con chó như nhục mạ hay khiêu chiến đối với bản thân mình. Nhìn tấm lưng to bè mà lặng thinh như tấm bảng đen lớp học của Tamaru, Aomame có thể hình dung cơn phẫn nộ thầm trong lòng ta.


      Tamaru mở cửa phòng khách mời Aomame vào, còn mình đứng cạnh cửa đợi chỉ thị của bà chủ.


      “Hôm nay chúng ta cần đồ uống,” bà chủ với ta.


      Tamaru gì, khẽ gật đầu, lẳng lặng đóng cửa. Trong phòng chỉ còn lại bà chủ và Aomame. bàn trà, cạnh chiếc ghế tay vịn bà chủ ngồi, có đặt bể cá thủy tinh hình tròn với hai con cá vàng bên trong. Đó là giống cá vàng tầm thường đâu đâu cũng thấy, thứ bể cá bình thường có thể gặp ở bất cứ đâu; trong làn nước dập dềnh mấy cọng tảo xanh chẳng bể cá nào là có. Aomame bước vào phòng khách rộng rãi sang trọng này nhiều lần, nhưng đây là lần đầu tiên nàng thấy bể cá vàng. Điều hòa nhiệt độ bật ở mức yếu, thi thoảng nàng nghe làn gió mát thoảng da. cái bàn sau lưng nàng bày bình hoa cắm ba cành bách hợp trắng. Các đóa hoa rất lớn, đầy đặn, gục đầu giống như loài thú của vùng đất xa lạ nào đấy chìm trong trầm tư mặc tưởng.


      Bà chủ vẫy tay ra hiệu mời Aomame ngồi xuống sofa bên cạnh mình. Cửa sổ hướng ra vườn buông rèm ren màu trắng, nhưng ánh nắng chiều hè vẫn rất gay gắt. Dưới ánh sáng đó, trông bà chủ toát ra vẻ mệt mỏi khác thường. Lọt thỏm trong chiếc ghế bành rộng, bà tì cằm lên cánh tay nhắn yếu ớt, hốc mắt trũng sâu, nếp nhăn cổ nhiều hơn trước, bà phải già đến năm sáu tuổi là ít. Chẳng những vậy, hôm nay bà chủ hề bận tâm che giấu vẻ mệt mỏi rành rành kia. Đây là chuyện bình thường. Ít nhất là, theo quan sát của Aomame, bà luôn huy động sức mạnh bên trong hầu giữ vẻ bề ngoài tề chỉnh, dáng người thẳng tắp, nét mặt tập trung, để lộ dấu vết của già nua. Thường nỗ lực ấy luôn thành công.


      Aomame nhận thấy hôm nay có nhiều thứ trong tòa biệt thự này trông khang khác. Thậm chí cả ánh sáng cũng nhuốm màu khác. Cả bể cá vàng, cái vật tầm thường kia, cũng có vẻ hợp lắm với căn phòng trần cao kê đầy đồ nội thất cổ này.


      Bà chủ ngồi yên hồi lâu, tay tựa cằm, chăm chú nhìn điểm nào đó trong khoảng bên cạnh Aomame. Nhưng Aomame hiểu, ở đó chẳng có gì đặc biệt để nhìn. Chẳng qua bà chỉ cần chỗ để tạm thời hướng ánh mắt vào mà thôi.


      khát ?” bà chủ hỏi với giọng bình tĩnh.


      , tôi khát ạ,” Aomame đáp.


      “Chỗ kia có hồng trà với đá. Nếu ngại, tự ra đó rót vào cốc thủy tinh mà uống.”


      Bà chủ chỉ ngón tay về phía cái bàn để đồ ăn cạnh cửa. Ở đây có chiếc bình miệng rộng, bên trong chứa đầy trà với đá và chanh xắt lát, bên cạnh có ba cốc thủy tinh hoa khác màu nhau.


      “Cám ơn bà,” Aomame . Nhưng nàng thay đổi tư thế, đợi những lời tiếp theo của bà chủ.


      Nhưng hồi lâu sau, bà chủ vẫn trầm mặt như thế. Bà có chuyện thể với Aomame, nhưng khi ra lời, những thực giấu trong đó có thể trở nên xác thực hơn đến độ sửa chữa được, cho nên bà chỉ mong trì hoãn được cái lúc ra ấy, dù chỉ chút. Đó là lý do cho trầm mặt này. Bà liếc nhìn bể cá vàng bên cạnh. Sau đó, dường như từ bỏ nỗ lực kéo dài thời gian, cuối cùng bà cũng ngước lên nhìn thẳng vào Aomame. Đôi môi bà mím chặt thành đường thẳng, hai bên mép hơi cố ý nhếch lên chút.


      “Con chó canh cửa ở trung tâm bảo trợ chết rồi, Tamaru với chưa? Chết rất kỳ lạ, thể giải thích nổi,” bà chủ .


      “Tôi có nghe .”


      “Sau đó Tsubasa cũng biến mất luôn.”


      Aomame hơi nghiêng mặt. “Biến mất ư?”


      “Đột nhiên mất tích. Có thể là mới đêm qua. Sáng sớm nay thấy đâu nữa.”


      Aomame mấp máy môi, muốn tìm lời để , nhưng lời lẽ đến ngay được. “Có điều... lần trước tôi nghe phu nhân , luôn có người ngủ chung với Tsubasa, trong cùng phòng, để phòng xa...”


      “Đúng vậy. Có điều ấy ngủ rất say, chưa bao giờ ấy ngủ say như thế cả, nên hoàn toàn phát ra Tsubasa mất. Khi trời sáng giường thấy Tsubasa đâu nữa.”


      “Con chó béc giê Đức chết, sáng hôm sau Tsubasa biến mất,” Aomame nhắc lại như để xác nhận.


      Bà chủ gật đầu. “ tại vẫn chưa biết hai chuyện này có liên quan gì với nhau . Nhưng tôi sợ là có đấy.”


      vì lý do cụ thể nào, Aomame nhìn về phía bể cá vàng đặt bàn. Bà chủ dõi theo ánh mắt nàng, cũng hướng điểm nhìn về chỗ đó. Hai con cá vàng hững hờ bơi qua bơi lại trong hồ nước làm bằng thủy tinh, uể oải đung đưa mấy cái vây. Ánh nắng hè chiết xạ cách kỳ lạ trong bể cá, khiến người ta có ảo giác mình nhìn vào vùng biển sâu đầy những huyền bí.


      “Mấy con cá vàng này tôi mua cho Tsubasa,” bà chủ ngước nhìn Aomame như để giải thích. “Có khu phố buôn bán ở Azabu tổ chức lễ hội, tôi liền dẫn Tsubasa ra đấy tản bộ. Tôi thầm nhủ con bé cứ ở mãi trong phòng cũng tốt cho sức khỏe của nó. Tamaru cùng, dĩ nhiên. Cả bể cá lẫn cá tôi đều mua ở chợ đêm đó đem về. Con bé hình như bị cá vàng thu hút, nó đặt bể trong phòng, nhìn chăm chăm từ sáng đến tối biết mệt. Giờ con bé biến mất, tôi mới mang nó tới đây. Dạo này tôi cũng thường ngắm cá vàng. làm gì cả, chỉ nhìn chúng chăm chăm thôi. Kỳ lạ lắm, hình như đúng là nhìn mãi thấy chán. Trước đây tôi có bao giờ nhiệt tình ngắm cá vàng như thế đâu.”


      “Tsubasa có thể đến chỗ nào, phu nhân có manh mối gì ?”


      có manh mối gì hết,” bà chủ đáp, “Con bé tứ cố vô thân. Theo những gì tôi được biết, nó là đứa chẳng có nơi nào để thế gian này.”


      “Có khả năng bé bị ai đó bắt cóc ?”


      Bà chủ khẽ lắc đầu thảng thốt, như thể xua con ruồi mắt thường nhìn thấy, “, con bé cứ thế thôi. Chẳng ai đến bắt nó đâu cả. Nếu là thế người xung quanh thức dậy rồi. Những người phụ nữ ở đó vốn rất tỉnh ngủ. Tôi tin rằng tự Tsubasa quyết định rời khỏi chỗ ấy. Nhón chân xuống cầu thang, lẳng lặng mở khóa, đẩy cửa ra ngoài. Tôi có thể tưởng tượng ra cảnh ấy. Cho dù con bé bước ra, con chó cũng sủa, nó chết từ tối hôm trước rồi. Lúc , con bé còn chẳng thay quần áo. Mặc dù ngay bên cạnh có bộ quần áo mới gấp gọn dàng để đấy, nhưng nó mặc nguyên đồ ngủ ra. Chắc người nó cũng có lấy đồng.”


      Mặt Aomame càng nhăn sâu hơn nữa. “Chỉ mình, mặc đồ ngủ?”


      Bà chủ gật đầu. “Đúng vậy. bé mười tuổi mặc đồ ngủ, thân mình, xu dính túi có thể đâu lúc nửa đêm? Nhìn từ góc độ bình thường khó mà lý giải nổi. Nhưng hiểu sao tôi lại cảm thấy chuyện này có gì kỳ quái. Hoàn toàn . Lần này thậm chí tôi còn có cảm giác ra đây là chuyện cần phải xảy ra. Vậy nên tôi cho người tìm con bé. Tôi làm gì cả, chỉ nhìn chằm chằm vào bể cá thế này thôi.”


      Bà chủ liếc sang phía bể cá trong khi , rồi lại quay sang nhìn vào mặt Aomame.


      “Bởi vì tôi biết giờ có dốc hết sức tìm cũng chẳng được gì. Con bé đến nơi mà chúng ta thể tìm lại nó được.”


      xong, bà chủ tì cằm lên bàn tay nữa. Hai tay xếp ngay ngắn đầu gối, bà chầm chậm thở ra luồng khí ghìm giữ trong cơ thể lâu.


      “Nhưng tại sao bé phải làm như vậy chứ?” Aomame hỏi. “Tại sao bé phải rời khỏi trung tâm? Ở đấy bé được người ta bảo vệ, hơn nữa nó chẳng còn nơi nào khác để .”


      “Tôi biết lý do. Nhưng tôi cảm nhận được, cái chết của con chó hình như chính là ngòi nổ. Tsubasa rất thương con chó ấy, mà con chó cũng đặc biệt thân thiết với con bé. Hai đứa như là bạn chí thân. Vì thế nên cái chết của con chó, hơn nữa lại là cái chết thảm khốc đẫm máu và quái dị, khiến Tsubasa bị sốc rất nặng. lẽ dĩ nhiên thôi. Ai sống ở đó cũng đều bị sốc. Nhưng giờ đây nghĩ lại tôi thấy, việc con chó bị giết có lẽ chính là thông diệp gửi đến cho Tsubasa.”


      “Thông điệp?”


      “Nó nhắn với Tsubasa: được ở lại đây. Bọn ta biết ngươi trốn ở đây. Ngươi phải ra . Bằng , mọi người xung quanh ngươi gặp phải những chuyện còn bi thảm hơn.”


      Bà chủ gõ ngón tay lên đầu gối như theo nhịp tưởng tượng. Aomame im lặng đợi bà tiếp.


      “Có lẽ con bé hiểu được lời nhắn ấy nên mới chủ động rời khỏi đây. Chắc chắn nó tự nguyện ra . Nó là vì phải , dù biết có nơi nào để cả. Hễ nghĩ đến chuyện đó là tim tôi lại đau như bị dao đâm. đứa trẻ mới mười tuổi mà lại bị buộc phải hạ quyết tâm như thế.”


      Aomame muốn vươn tay ra nắm lấy bàn của bà chủ, nhưng rồi lại thôi. Câu chuyện còn chưa hết.


      Bà chủ tiếp tục: “Với tôi, cần phải , đây là cú sốc lớn. Tôi cảm thấy như có bộ phận nào đó cơ thể bị rứt lìa ra vậy. Tôi nghĩ cách để chính thức nhận Tsubasa làm con nuôi. Tôi biết mọi việc xuôi chèo mát mái. Biết khó khăn vô cùng, song tôi vẫn muốn làm. Dù việc tiến triển được thuận lợi tôi cũng chẳng có lý do gì để than khổ với ai. Nhưng, thực lòng, ở tuổi tôi, những chuyện này tàn khốc quá.”


      Aomame : “Nhưng mà, biết đâu thời gian nữa Tsubasa lại đột nhiên quay về sao. mang theo tiền, cũng chẳng có nơi nào để ...”


      “Tôi ước gì được như thế, nhưng có đâu,” bà chủ bằng giọng đều đều. “Con bé mới mười tuổi nhưng suy nghĩ rất độc lập. Nó quyết tâm rời khỏi đây rồi. Sợ rằng nó quay lại đâu.”


      Aomame “Xin lỗi”, đoạn đứng dậy bước đến bàn để đồ ăn cạnh cửa, rót ít trà vào cái cốc thủy tinh hoa màu xanh lam. Thực ra nàng khát mấy, chỉ là nàng muốn rời khỏi chỗ ngồi, bằng cách đó tạo khoảng lặng ngắn. Nàng trở lại ngồi xuống sofa, nhấp ngụm trà, rồi đặt cốc xuống mặt bàn trà bằng kính.


      Bà chủ đợi Aomame ngồi trở lại ghế rồi , “Chuyện Tsubasa tạm gác lại ở đây,” đồng thời, như để đánh dấu ngắt đoạn cho cảm xúc của mình, bà vươn thẳng cổ, chắp hai tay lại, các ngón tay đan vào nhau. “Giờ ta chuyện về Sakigake và gã Lãnh Tụ. Tôi muốn kể với những gì chúng tôi biết được về . Đây là lý do chính khiến tôi mời đến hôm nay. Dĩ nhiên, chuyện này xét cho cùng vẫn liên quan đến Tsubasa.”


      Aomame gật đầu. Nàng dự liệu trước điều này.


      “Lần trước tôi với , bất kể giá nào chúng ta cũng phải xử lý cho bằng được nhân vật gọi là Lãnh Tụ này. Phải mời sang thế giới bên kia. biết rồi đó, người này quen thói cưỡng hiếp những bé tầm chín mười tuổi, hãy còn chưa có kinh lần đầu. Để biện chính cho những hành vi này, bịa ra ‘giáo lý’ và lợi dụng hệ thống giáo đoàn. Tôi cố gắng hết sức để điều tra kỹ lưỡng chuyện này, phải tốn khoản tiền . dễ dàng chút nào, hao tổn hơn dự tính rất nhiều. Nhưng dù thế nào, chúng tôi cũng xác nhận được bốn thiếu nữ bị tên đó cưỡng hiếp. Người thứ tư chính là Tsubasa.”


      Aomame cầm cốc trà đá lên, nhấp ngụm. Chẳng có mùi vị gì, như thể trong miệng nàng bị nhét cục bông gòn, nó hút hết các mùi vị rồi.


      “Chi tiết cụ thể vẫn chưa , có điều trong bốn bé đó có ít nhất hai người đến giờ vẫn sống trong giáo đoàn,” bà chủ . “Nghe bọn họ thành thân tín ở bên Lãnh Tụ, đảm nhận vai trò kiểu như nữ tư tế vậy. Xưa nay họ bao giờ lộ mặt trước các tín đồ bình thường. Những bé này tự nguyện ở lại giáo đoàn hay vì thể trốn thoát mà đành phải ở lại, chúng tôi thể biết được. Cả chuyện họ có còn giữ quan hệ giới tính với Lãnh Tụ hay cũng chẳng cách nào biết được. Nhưng tóm lại, có vẻ họ sống chung với Lãnh Tụ như người nhà. Khu vực Lãnh Tụ cư trú tuyệt đối cấm người ra kẻ vào, tín đồ bình thường được phép lại gần. Rất nhiều thứ vẫn bị che phủ trong bí .”


      Cốc thủy tinh hoa bàn trà bắt đầu “đổ mồ hôi”. Bà chủ ngừng lại giây lát, điều chỉnh hơi thở rồi tiếp tục :


      “Có chuyện có thể chắc chắn mười mươi. Trong bốn người đó, nạn nhân đầu tiên là con ruột của Lãnh Tụ.”


      Aomame nhíu mày. Cơ thịt mặt nàng tự động co rúm lại, vặn vẹo biến hình. Nàng muốn gì đó, nhưng từ ngữ thể biến thành thanh.


      “Đúng vậy. Có thể xác nhận rằng người đầu tiên bị kẻ đó cưỡng hiếp chính là con . Bảy năm về trước, khi bé mười tuổi,” bà chủ .


      Bà chủ cầm điện thoại lên, nhờ Tamaru mang chai rượu Sherry và hai chiếc ly vào. Trong khi đợi, hai người cùng im lặng sắp xếp lại các dòng suy nghĩ trong đầu. Tamaru bước vào, bê chiếc khay đó đặt chai rượu Sherry chưa mở và hai chiếc ly thủy tinh pha lê mỏng, thanh nhã. ta xếp những thứ ấy lên bàn, rồi sau đó, bằng động tác dứt khoát, chuẩn xác, hệt như vặn cổ con chim, ta mở nắp chai rượu rồi rót vào ly. Rượu chảy nghe ùng ục. Bà chủ gật đầu, Tamaru liền khom mình cúi chào, rồi ra khỏi phòng, vẫn lời. Thậm chí cả bước chân ta cũng phát ra tiếng động.


      phải chỉ con chó, Aomame nghĩ. Cả chuyện bé biến mất cũng làm ta tổn thương rất sâu sắc. bé là người mà bà chủ thương nhất, thế mà biến mất ngay trước mắt ta! Chính ra thuộc phần trách nhiệm của Tamaru. ta trực đêm ở đây; thường đến tối Tamaru trở về nhà cách đây mười phút bộ để ngủ, trừ phi có nhiệm vụ gì đặc biệt khiến ta phải ở bên bà chủ. Cái chết của con chó và vụ mất tích của bé đều xảy ra trong đêm, khi ta vắng mặt. Cả hai việc đó ta đều thể ngăn được. Công việc của ta là bảo vệ bà chủ và biệt thự Cây Liễu. Bổn phận của ta phải là chăm lo cho an toàn của trung tâm bảo trợ phụ nữ nằm bên ngoài tòa biệt thự. Nhưng dù vậy nữa, các kiện ấy đối với Tamaru là thất bại của cá nhân ta, sai sót thể tha thứ.


      chuẩn bị xong xuôi để bắt tay xử lý kẻ này chưa?” bà chủ hỏi Aomame.


      “Xong xuôi rồi,” Aomame rành rọt trả lời.


      “Việc này dễ đâu,” bà chủ . “Đương nhiên, những việc tôi nhờ chẳng bao giờ dễ cả. Song lần này đặc biệt khó khăn. Chúng tôi cố gắng hết sức, làm tất cả những gì mình có thể làm, nhưng rốt cuộc chúng tôi có thể bảo đảm an toàn cho đến mức độ nào tôi dám chắc. Chỉ e lần này nguy hiểm hơn bất cứ lần nào trước đây.”


      “Tôi hiểu.”


      “Lần trước tôi cũng với , tôi muốn đưa đến nơi nguy hiểm. Nhưng thực lòng, lần này, chúng ta có rất ít lựa chọn.”


      sao cả,” Aomame , “Dù sao cũng thể để kẻ đó sống đời này được.”


      Bà chủ nâng ly rượu lên, khẽ nhấm ngụm Sherry, chầm chậm thưởng thức. Sau đó bà lại nhìn bể cá vàng lúc.


      “Trước nay tôi luôn thích uống chút Sherry ở nhiệt độ thường vào những chiều hè. Trong mùa nóng bức tôi thích uống đồ lạnh cho lắm. Uống chút Sherry, lát sau nằm xuống chợp mắt lúc, rồi ngủ thiếp lúc nào chẳng hay. Đến khi mình tỉnh giấc, cảm giác nóng bức giảm rồi. Tôi rất mong ngày nào đó có thể chết như thế. Uống chút rượu Sherry vào chiều hè, nằm dài sofa ngủ thiếp lúc nào chẳng hay, rồi cứ thế tỉnh lại nữa.”


      Aomame cũng cầm ly rượu lên, nhấp ngụm . Nàng thích mùi vị loại rượu này lắm, nhưng nàng rất cần uống thứ gì đó. giống như trà đá, lần này nàng ít nhiều cảm thấy mùi vị. Chất cồn kích thích mạnh mẽ lên lưỡi nàng.


      “Mong có thể thẳng thắn trả lời tôi,” bà chủ . “ sợ chết ?”


      Aomame cần thời gian để đưa ra câu trả lời. Nàng lắc đầu , “ sợ lắm. Sống như tôi sống đây còn đáng sợ hơn.”


      Bà chủ khẽ nhếch nụ cười yếu ớt, nó khiến bà phần nào lấy lại sức sống. Đôi môi bà giờ có chút sắc hồng. Có lẽ cuộc chuyện với Aomame giúp bà, hay có lẽ chút rượu Sherry phát huy tác dụng.


      “Chắc là cũng có người trong mộng chứ.”


      “Vâng. Nhưng khả năng tôi và ấy có thể kết hợp gần như là bằng . Vì vậy, dù tôi có chết ở đây, những gì mất mát cũng gần như là bằng thôi.”


      Bà chủ nheo mắt. “Có lý do cụ thể nào khiến cho rằng mình và ta thể kết hợp?”


      “Chẳng có lý do gì đặc biệt,” Aomame đáp, “Ngoại trừ việc tôi là chính bản thân tôi.”


      hề có ý định tự mình tiến tới với ta, phải ?”


      Aomame lắc đầu. “Đối với tôi, quan trọng nhất là cái thực rằng tôi cần ấy từ tận đáy lòng.”


      Bà chủ chăm chú nhìn thẳng vào mặt Aomame trong giây lát, với vẻ là cảm phục. “ đúng là người suy nghĩ vừa dứt khoát lại vừa thẳng thắn.”


      “Bởi vì cần thiết phải thế,” Aomame , đoạn nâng ly rượu lên, nhưng chỉ khẽ chạm môi, “Chứ phải tôi cố ý như thế.”


      Hồi lâu, im lặng lấp đầy cả căn phòng. Hoa bách hợp vẫn cúi đầu, cá vàng tiếp tục thong thả bơi lội trong ánh sáng chiết xạ của mùa hè.


      “Chúng tôi có thể tạo cơ hội cho mình ở với tên Lãnh Tụ,” bà chủ . “Chuyện này dễ, và cũng phải mất thời gian, nhưng tôi có thể thực được. Sau đó chỉ cần làm như mọi khi. Chỉ là, lần này, sau khi xong việc cần phải mai danh tích. phải phẫu thuật sửa dung mạo, từ bỏ công việc tại, trốn xa. Đổi họ tên. Tất cả những gì sở hữu đều phải từ bỏ hết. Biến thành người khác. Dĩ nhiên, nhận được khoản tiền thù lao lớn. Những việc khác tôi lo liệc tất. thấy như vậy có được ?”


      Aomame đáp: “Như tôi vừa mới , tôi chẳng có gì để mất. Công việc của tôi, tên tuổi tôi, cuộc sống nay của tôi ở Tokyo, tất cả đối với tôi chẳng có ý nghĩa gì. Tôi phản đối chút nào.”


      “Kể cả việc thay đổi hoàn toàn dung mạo?”


      “Có đẹp hơn bây giờ ?”


      “Nếu muốn, đương nhiên là có thể.” Bà chủ đáp với vẻ nghiêm túc. “Có thể làm gương mặt theo cầu của được, tất nhiên cũng chỉ có mức độ thôi.”


      “Tiện thể làm phẫu thuật nâng ngực luôn hẳn càng tốt hơn.”


      Bà chủ gật đầu. “Đây có lẽ là ý hay. Tất nhiên là để qua mắt người khác.”


      “Tôi đùa đấy,” Aomame , nét mặt giãn ra, “Tuy chẳng có gì đáng để khoe khoang, nhưng tôi cảm thấy ngực như bây giờ cũng sao. nhàng tiện lợi. Hơn nữa đến tuổi này rồi, đổi mua đồ lót cỡ khác quả thực là quá phiền phức.”


      “Những thứ đó muốn bao nhiêu tôi mua cho bấy nhiêu.”


      “Đấy cũng là đùa thôi mà,” Aomame .
      Annabelle thích bài này.

    3. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 01: Đó là nơi buồn tẻ nhất thế giới - P2

      Bà chủ cũng khẽ mỉm cười: “Xin lỗi. Tôi quen với chuyện đùa.”


      “Tôi phản đối gì chuyện phẫu thuật đổi dung mạo,” Aomame . “Xưa nay tôi chưa bao giờ nghĩ có lúc mình làm phẫu thuật thẩm mỹ, nhưng cũng chẳng có lý do gì để từ chối. Tôi vốn chẳng vừa ý với gương mặt mình cho lắm, vả lại cũng chẳng có ai đặc biệt thích nó cả.”


      còn phải mất hết bạn bè nữa đấy.”


      “Tôi chẳng có ai để có thể gọi là bạn cả,” Aomame , rồi sực nhớ đến Ayumi. Nếu mình lẳng lặng biến mất lời, hẳn Ayumi thấy trống vắng. Thậm chí ấy có thể có cảm giác bị phản bội. Nhưng nếu nàng muốn coi Ayumi là bạn ngay từ đầu khó khăn rồi. Làm bạn với cảnh sát tức là nàng con đường quá ư nguy hiểm.


      “Tôi có hai đứa con,” bà chủ , “ đứa con trai, và đứa con hơn nó ba tuổi. Con tôi chết. Trước đây tôi có kể với rồi, nó tự sát. Nó có con. Còn thằng con trai, vì nhiều nguyên nhân khác nhau, rất lâu nay quan hệ giữa tôi và nó được tốt lắm. Giờ chúng tôi gần như chuyện. Tôi có ba đứa cháu, nhưng lâu lắm rồi cũng thấy mặt chúng nó. Nhưng giả sử tôi chết , hầu hết tài sản tôi sở hữu được chuyển sang cho đứa con trai duy nhất và lũ con nó, gần như là tự động. Hồi này di chúc hay những thứ tương tự chẳng có hiệu lực gì cả, phải như trước nữa. Mặc dù vậy, trước mắt tôi vẫn còn khá nhiều tiền có thể làm gì tùy ý. Tôi định, nếu hoàn thành suôn sẻ việc lần này, tôi chuyển phần lớn trong số đó tặng . Xin chớ hiểu lầm, tôi tuyệt có ý lấy tiền mua chuộc đâu. Đều tôi muốn là tôi coi như con ruột vậy. Giá là con tôi tốt.”


      Aomame bình tĩnh quan sát gương mặt bà chủ. Bà vừa đặt ly rượu Sherry cầm tay xuống mặt bàn trà, như thể vừa sực nhớ ra mình cầm nó. Đoạn bà ngoảnh đầu về phía sau, chăm chú nhìn những cánh hoa bách hợp mượt mà. Bà hít ngửi hương thơm ngào ngạt của hoa, rồi lại ngoảnh sang nhìn Aomame.


      “Như vừa nãy , tôi vốn định nhận Tsubasa làm con nuôi, nhưng giờ tôi mất nốt con bé. Tôi chẳng làm được gì giúp nó, chỉ biết đứng bên lề nhìn nó mình biến mất trong đêm đen. Giờ tôi lại phải đưa vào cảnh ngộ hiểm nguy nhất từ trước đến giờ. Thực lòng tôi rất muốn làm thế. Chỉ tiếc rằng nay tôi tìm được cách nào khác để đạt được mục đích. Điều duy nhất tôi làm được là bù đắp cho phần nào bằng vật chất mà thôi.”


      Aomame im lặng, chỉ chăm chú lắng nghe. Khi bà chủ cũng ngừng , ngoài cửa sổ kính vẳng vào tiếng chim hót mồn . Con chim hót hồi, rồi bay đâu mất.


      “Dù xảy ra chuyện gì chăng nữa cũng phải loại trừ tên đó,” Aomame . “Đây là chuyện quan trọng nhất bây giờ. Phu nhân coi trọng tôi, thương tôi như vậy, tôi hết lòng cảm kích. Tôi nghĩ bà cũng biết, tôi từ bỏ cha mẹ và bị cha mẹ từ bỏ lúc tôi còn ; cả tôi lẫn cha mẹ tôi làm vậy là đều có duyên cớ riêng. Tôi còn cách nào khác ngoài con đường gia đình, cốt nhục. Để có thể mình tồn tại, tôi buộc phải khiến mình thích ứng với trạng thái tâm thức ấy. Đây phải là chuyện dễ. Có những lúc tôi cảm thấy mình là cặn bã, thứ cặn bã bẩn thỉu có chút ý nghĩa gì. Vì vậy, khi nghe bà những lời ấy với tôi, tôi vô cùng cảm kích. Có điều, như tôi đây, muốn thay đổi cách nghĩ, thay đổi cách sống bây giờ e muộn quá rồi. Nhưng Tsubasa ; tôi tin chắc bé vẫn còn cứu vãn được. Mong bà đừng dễ dàng bỏ cuộc. Đừng mất hy vọng, phải giành bé trở về.”


      Bà chủ gật đầu. “Chắc tôi chưa được ý. Tất nhiên tôi đành lòng để mất hẳn Tsubasa đâu. Dù có thế nào tôi cũng phải dốc toàn bộ sức lực giành con bé về. Nhưng cũng thấy đó, giờ tôi mệt mỏi quá rồi. Vì thể giúp gì được con bé cho nên tôi nghe cảm giác bất lực tận sâu trong gan ruột. Phải mất ít lâu nữa mới mong hồi phục được sức sống. Mặt khác, e rằng tôi nhiều tuổi quá rồi. Có thể là dù có đợi bao lâu sức sống ấy cũng trở lại với tôi nữa.”


      Aomame đứng lên khỏi sofa, bước đến cạnh bà chủ, ngồi xuống tay vịn chiếc ghế bành, đưa tay ra nắm lấy bàn tay thanh tú nhắn của bà.


      “Phu nhân là phụ nữ vô cùng kiên nghị,” Aomame , “Bà có thể sống kiên cường hơn bất cứ người nào. Lúc này chẳng qua bà kiệt sức mà thôi. Bà nên nằm xuống nghỉ ngơi chút. Khi nào tỉnh giấc, chắc chắn bà hồi phục như xưa.”


      “Cám ơn ,” bà chủ , cũng nắm chặt bàn tay Aomame, “Đúng vậy, có lẽ tôi nên ngủ lát.”


      “Thôi, tôi xin phép về,” Aomame . “Tôi đợi bà liên lạc lại. Tôi còn phải thu xếp mọi việc. Thực ra tôi cũng có nhiều thứ để thu xếp đâu.”


      “Hãy chuẩn bị nhàng, sao cho đâu cũng tiện. Chúng tôi có thể hỗ trợ nếu thiếu thứ gì.”


      Aomame buông tay bà chủ, đứng thắng người dậy. “Chúc bà ngủ ngon. Mọi thuận lợi thôi.”


      Bà chủ gật đầu, sau đó ngồi yên ghế bành, nhắm mắt lại. Aomame hướng về phía bể cá vàng bàn trà, hít hơi cuối mùi hương hoa bách hợp, đoạn rời khỏi căn phòng khách có trần rất cao ấy.


      Ngoài sảnh, Tamaru đợi nàng. năm giờ chiều nhưng mặt trời vẫn ở cao, nắng chưa dịu chút nào. Ánh nắng phản chiếu từ đôi giày da đen Cordoba được đánh đến sáng bóng lên như thường lệ của Tamaru. trời có những đám mây trắng của mùa hạ, nhưng tất cả đều co rúm lại ở bốn góc trời, che chắn được mặt trời. Vẫn còn ít lâu nữa mới hết mùa mưa dầm, nhưng liên tục mấy ngày nay trời nắng chói chang như tiết giữa hè, lại thêm tiếng ve ra rả từ đám cây cối trong vườn. Tiếng ve chưa vang vọng lắm, nghe chừng vẫn hơi e dè, song đấy lại là điềm báo xác thực rằng mùa hè sắp tới. Thế giới vẫn vận hành như xưa nay. Ve sầu kêu, mây trắng lững lờ trôi, đôi giày da vết bẩn của Tamaru. Thế giới hề biến đổi. Nhưng, hiểu vì sao, Aomame lại cảm thấy mọi thứ đều rất mới mẻ.


      Tamaru,” Aomame , “Tôi có thể vài câu với được ? có thời gian ?”


      “Được,” Tamaru đáp. ta biểu lộ gì. “Thời gian tôi có nhiều lắm. Giết thời gian là phần công việc của tôi mà.” ngồi xuống chiếc ghế kê trong vườn bên ngoài sảnh chờ. Aomame ngồi xuống bên cạnh. Mái hiên vươn ra phía ngoài che khuất ánh nắng. Hai người ngồi trong bóng râm mát mẻ. khí thoang thoảng mùi cỏ non.


      vào hè rồi đấy,” Tamaru .


      “Ve cũng bắt đầu kêu rồi,” Aomame .


      “Năm nay ve kêu sớm hơn so với năm ngoái chút. Cả khu này sau rồi lại ầm ĩ cả lên, đến điếc cả tai. Hồi tôi ở trong thị trấn gần thác Niagara cũng cứ ầm ầm như vậy đấy, từ sáng đến tối đêm, chẳng lúc nào dừng lại. Cứ như có cả triệu con ve sầu cùng kêu lúc ấy.”


      ra từng đến Niagara rồi à?”


      Tamaru gật đầu. “Đó cũng là nơi buồn tẻ nhất thế giới. mình tôi ở đó ba ngày, trừ nghe tiếng thác ra thể làm được gì hết. Ầm ầm vang trời, đọc sách cũng xong.”


      mình ở Niagara ba ngày làm gì thế?”


      Tamaru trả lời câu hỏi của nàng, chỉ khẽ lắc đầu.


      Trong giây lát, Tamaru và Aomame lời nào, chỉ lắng tai nghe tiếng ve kêu yếu ớt.


      “Tôi có chuyện muốn nhờ giúp,” Aomame .


      Tamaru xem ra có vẻ để ý hơn chút. Aomame phải loại người dễ dàng mở miệng nhờ người khác việc gì.


      Nàng : “Việc này hơi bất bình thường. Tôi hy vọng cảm thấy thoải mái.”


      “Tôi biết có thể giúp được , nhưng cứ nghe thử xem sao . Dù có thế nào, đàn bà con nhờ vả mà mình thấy thoải mái chẳng phải là bất lịch sao.”


      “Tôi cần khẩu súng lục,” Aomame bằng giọng khô khan, “Loại có thể nhét vừa vào xắc tay ấy. Ít giật, nhưng cũng phải có khả năng sát thương nhất định, đáng tin cậy. phải loại súng đồ chơi cải tiến, cũng thể là loại hàng nhái của Philipines sản xuất. Tôi có dùng đến nó cũng chỉ lần thôi. viên đạn chắc là đủ.”


      Im lặng bao trùm. Suốt lúc đó, ánh mắt Tamaru rời khỏi Aomame.


      Tamaru hỏi như để cho chắc: “Ở quốc gia này, luật pháp cấm công dân bình thường mang theo súng. biết chứ?”


      “Tất nhiên.”


      “Để cho cẩn thận, tôi phải với rằng, cho đến nay, tôi chưa bao giờ bị truy cứu trách nhiệm hình .” Tamaru . “ cách khác, tôi có tiền án tiền . Có lẽ là do cơ quan hành pháp có hơi sai sót, về chuyện này tôi phủ nhận. Có điều, xem xong hồ sơ thấy tôi là công dân hoàn hảo. Trung thực, chân chính, hề có vết nhơ. Tôi là kẻ đồng tính đấy, nhưng điều này vi phạm pháp luật. Thuế người ta bảo nộp bao nhiêu, tôi nộp bấy nhiêu, kỳ tuyển cử nào cũng bỏ phiếu, chỉ có điều các ứng viên được tôi bỏ phiếu xưa nay chưa bao giờ đắc cử. Tiền phạt dừng xe sai quy định cũng luôn nộp trước hạn. Mười năm nay tôi chưa lần bị bắt vì lái xe quá tốc độ. Cả bảo hiểm y tế quốc dân tôi cũng tham gia rồi. Tiền thuê bao tháng của đài NHK tôi trả thông qua ngân hàng. Tôi có thẻ American Express và thẻ MasterCard. Tuy rằng trước mắt tôi chưa có kế hoạch gì, nhưng nếu muốn tôi thừa tư cách xin vay mua nhà kỳ hạn ba mươi năm. Được ở vị trí như thế, tôi luôn luôn lấy làm hoan hỉ. ngồi đối diện với người có thể gọi là trụ cột của xã hội, cầu ta kiếm cho khẩu súng lục. Điểm này, có hiểu ?”


      “Vì vậy chẳng phải tôi rồi đó sao, hy vọng cảm thấy thoải mái.”


      “Phải rồi, câu này tôi có nghe thấy.”


      “Tôi hết sức áy náy, nhưng ngoài , tôi nghĩ ra ai khác có thể giúp chuyện này nữa.”


      Từ sâu trong cổ họng Tamaru phát ra tiếng , nghèn nghẹt, nghe như tiếng thở dài bị đè nén. “Giả dụ tôi ở vào địa vị người có thể cho cái mà cầu, xét theo lẽ thường, e rằng tôi hỏi thế này: tính dùng nó để bắn ai?”


      Aomame lấy ngón tay chỉ vào huyệt Thái dương của mình. “Đại khái bắn vào chỗ này.”


      Tamaru nhìn chỗ ngón tay ấy hồi, gương mặt hề để lộ xúc cảm. “Sợ rằng tôi phải hỏi tiếp: Lý do?”


      “Bởi vì tôi muốn bị bắt sống,” Aomame . “Tôi sợ chết. Vào tù chẳng thích thú gì, nhưng chắc tôi có thể chịu được. Song tôi muốn bị đám người kỳ dị quái đản bắt sống, bị chúng nó lục vấn tra khảo. Bởi vì tôi muốn phun ra bất cứ cái tên nào cả. hiểu ý tôi ?”


      “Tôi nghĩ là có.”


      “Tôi có ý định dùng nó bắn ai, cũng định cướp ngân hàng. Vì vậy cần thứ khoa trương kiểu như dúng bán tự động bắn liên tiếp mười hai phát. nhắn, ít giật là tốt rồi.”


      “Cũng có thể chọn dùng thuốc. So với việc kiếm khẩu súng thực tế hơn.”


      “Thuốc phải móc ra, nuốt vào, tốn thời gian. Nếu mình chưa kịp nhai nát bao con nhộng mà bị đối phương thò tay móc vào trong miệng chẳng làm gì được nữa. Nhưng nếu dùng súng có thể vừa kiềm chế đối phương vừa ra tay được.”


      Tamaru nghĩ ngợi giây lát, hàng lông mày bên phải hơi nhướng lên.


      “Nếu có thể được, lòng tôi muốn mất ,” ta . “Tôi khá là thích . phương diện cá nhân.”


      Aomame mỉm cười. “Thích tôi như người đàn bà ư?”


      “Đàn ông, đàn bà, người, chó, những thứ có thể khiến tôi thích được nhiều lắm,” Tamaru hờ hững đáp.


      “Tất nhiên,” Aomame .


      “Nhưng đồng thời, bảo vệ an toàn và sức khỏe của bà chủ là nhiệm vụ quan trọng nhất của tôi giờ. , tôi là chuyên gia.”


      “Chuyện đó còn phải .”


      “Thành thử để xem tôi có thể làm được gì . Tôi dám hứa chắc, nhưng biết đâu tìm được người quen có thể đáp ứng cầu của . Chỉ là chuyện này cực kỳ tế nhị, phải như kiểu mua thảm điện hay gì đó qua đường bưu điện. Có thể phải mất tuần mới có câu trả lời cho được.”


      sao,” Aomame .


      Tamaru nheo mắt, ngước nhìn tán cây ran tiếng ve kêu. “Tôi chúc vạn như ý. Cái gì trong khả năng, tôi gắng hết sức giúp .”


      “Cám ơn . Việc lần tới có lẽ là lần cuối cùng của tôi rồi. Chắc là sau này tôi gặp được nữa.”


      Tamaru xòe hai tay ra, lòng bàn tay hướng lên , tựa như người đứng giữa sa mạc chờ mưa xuống, nhưng lời nào. ta có đôi bàn tay vừa lớn vừa dày, đầy vết sẹo. Hai bàn tay giống như bộ phận cơ thể, mà giống như linh kiện của cỗ máy khổng lồ.


      “Tôi thích tạm biệt cho lắm,” Tamaru . “Thậm chí cả cơ hội tạm biệt với cha mẹ tôi cũng chẳng có.”


      “Họ qua đời rồi à?”


      “Họ còn sống hay chết tôi cũng biết. Tôi sinh ra ở Sakhalin trước khi chiến tranh kết thúc năm. Khu vực phía Nam Sakhalin hồi đó là lãnh thổ của Nhật Bản, gọi là Karafuto, đến mùa hè năm 1945 bị Liên Xô chiếm đóng, cha mẹ tôi trở thành tù bình. Cha tôi hình như làm việc ở cảng. Hầu hết dân thường Nhật Bản bị bắt bao lâu sau đều được trao trả về nước, nhưng cha mẹ tôi là người Triều Tiên bị bắt đến Sakhalin làm lao công, nên được đưa trở về Nhật Bản. Chính phủ Nhật Bản từ chối thu nhận họ. Lý do là, khi chiến tranh kết thúc, những người xuất thân từ bán đảo Triều Tiên còn là thần dân của Đế quốc Đại Nhật Bản nữa. quá sức tàn nhẫn. Như vậy chẳng phải là chút lòng nhân ái nào hay sao? Nếu có cầu họ có thể đến Bắc Triều Tiên, nhưng Nam Triều Tiên , bởi vì lúc bấy giờ Liên Xô thừa nhận Hàn Quốc. Cha mẹ tôi ra đời ở làng chài gần Busan, họ muốn lên phía Bắc. Ở phía Bắc họ có người thân hay bạn bè gì cả. Khi đó tôi còn là đứa bé ẵm ngửa, được gửi cho người Nhật Bản hồi hương về nước, họ đưa tôi vượt eo biển sang Hokkaido. Thời ấy vấn đề lương thực ở Sakhalin rất gay go, quân Liên Xô đối xử với tù bình rất hà khắc. Ngoài tôi ra, cha mẹ còn mấy người con nữa, ở đó khó mà nuôi nổi tôi. Chắc họ nghĩ cứ để tôi mình trở về Hokkaido trước, sau này có thể gặp lại. Hoặc chẳng qua là họ muốn vứt bỏ gánh nặng. Cụ thể thế nào tôi . Tóm lại là chúng tôi bao giờ gặp lại nhau nữa. Có thể cha mẹ tôi giờ vẫn còn ở Sakhalin. Nếu họ vẫn còn chưa chết.”


      còn nhớ cha mẹ à?”


      nhớ gì cả. Lúc chia tay tôi mới hơn tuổi. Tôi được cặp vợ chồng đó nuôi dưỡng thời gian, rồi bị chuyển vào nhi viện trong vùng núi gần Hakodate, mãi chỏm cực Nam Hokkaido, đại để là xa hết mức khỏi Sakhalin mà vẫn còn đất Hokkaido. Đôi vợ chồng ấy chắc cùng dư dả gì để nuôi tôi mãi. Chỗ nhi viện ấy do đoàn thể Thiên Chúa giáo điều hành, đúng là nơi gian khổ. Hồi đó chiến tranh vừa kết thúc, trẻ mồ côi nhiều vô số kể, lương thực đủ, củi sưởi cũng có. Tôi phải làm đủ thứ việc mới sống được.” Tamaru đưa mắt liếc xuống mu bàn tay phải. “Thế là người ta thu xếp cho tôi làm thủ tục để được nhận làm con nuôi hình thức, lấy quốc tịch Nhật, đặc cái tên Nhật. Tamaru Ken’ichi. Tôi chỉ biết trước đây mình họ Pak. Mà người Triều Tiên họ Pak nhiều như sao trời vậy.”


      Aomame và Tamaru sánh vai ngồi, chăm chú lắng nghe tiếng ve kêu.


      “Tốt nhất là nên nuôi con chó khác,” Aomame .


      “Phu nhân cũng với tôi thế. Bảo là nhà bên đó cần con chó canh cửa mới. Nhưng tôi chưa có bụng dạ nào làm vậy.”


      “Tôi hiểu tâm trạng của . Nhưng tốt nhất vẫn nên tìm lấy con. Tuy rằng tôi chẳng có tư cách gì khuyên bảo người khác, nhưng tôi nghĩ như thế.”


      “Tôi làm,” Tamaru . “ , chúng tôi vẫn cần con chó canh cửa được huấn luyện. Tôi nhanh chóng liên hệ với công ty huấn luyện chó.”


      Aomame nhìn đồng hồ đeo tay, đứng lên. Còn lúc nữa mặt trời mới lặn, nhưng bầu trời nhuốm chút hoàng hôn; trong sắc lam của buổi chiều bắt đầu lẫn vào sắc lam khác. Nàng nghe trong cơ thể mình còn rơi rớt lại chút hơi rượu Sherry. Chắc bà chủ vẫn ngủ?


      “Chekhov thế này,” Tamaru chầm chậm đứng lên, . “ khi trong câu chuyện xuất súng lục phải có người bắn bằng khẩu súng ấy.”


      “Thế nghĩa là sao?”


      Tamaru đứng mặt đối mặt với Aomame. ta chỉ cao hơn Aomame chừng vài xăng ti mét. “Ý ông ấy muốn , trong câu chuyện chớ nên tùy tiện với những món đạo cụ liên quan. Nếu xuất súng lục đến cảnh nào đó phải có người dùng nó để bắn. Chekhov thích viết những truyện trong đó có bất cứ đoạn chải chuốt thừa thải nào.”


      Aomame sửa lại ống tay của chiếc váy liền quần, khoác túi đeo chéo lên vai. “Vậy nên lấy làm lo lắng: nếu có súng lục xuất , sợ rằng có cảnh nổ súng ở nơi nào đó.”


      “Theo như quan điểm của Chekhov vậy.”


      “Vì thế mới nghĩ, nếu có thể giúp tôi tìm súng là hơn.”


      “Vừa nguy hiểm, lại vừa phạm pháp. Hơn nữa Chekhov còn là tác giả rất đáng tin cậy.”


      “Nhưng đây phải câu chuyện. Chúng ta đến thế giới thực.”


      Tamaru nheo mắt, nhìn chằm chằm vào mặt Aomame, sau đó thong thả cất tiếng, chậm cũng nhanh: “Chuyện này ai mà biết được?”
      Annabelle thích bài này.

    4. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 02: Ngoại trừ linh hồn chẳng còn gì cả - P1

      Tengo


      Ngoại trừ linh hồn chẳng còn gì cả


      đặt đĩa nhạc Sinfonietta của Janáček vào mâm quay đĩa, ấn nút phát tự động. Dàn nhạc giao hưởng Chicago do Ozawa Seiji chỉ huy. Mâm quay đĩa bắt đầu chuyển động với vận tốc ba mươi ba vòng rưỡi phút, cần máy dịch chuyển từ mép đĩa vào trong, đầu kim nhích dần dọc theo các rãnh đĩa. Sau đoạn kèn đồng mở đầu, trong loa vọng ra tiếng trống định đẹp đẽ. Đây là phần Tengo thích nhất.


      Tengo vừa nghe nhạc vừa nhìn màn hình word mà gõ chữ. Mỗi sáng sớm nghe Sinfonietta của Janáček, đó là trong các thói quen thường ngày của . Từ khi Tengo trở thành nhạc công cấp tốc tham gia diễn tấu khúc nhạc này hồi trung học, nó trở thành bản nhạc có ý nghĩa đặc biệt với . Nó luôn cổ vũ , bảo vệ – ít nhất là có cảm giác như thế.


      Có lúc và người tình hơn tuổi cùng nghe bản Sinfonietta này của Janáček.


      “Cũng hay,” . Nhưng so với nhạc cổ điển, thích các đĩa nhạc Jazz cũ hơn, càng cũ càng tốt. Đối với đàn bà ở tuổi , đây là sở thích hơi khác người. đặc biệt thích album tập hợp các điệu blues của W.C Handy do Louis Armstrong[1] biểu diễn thời trẻ. Barney Bigard[2] chơi kèn clarinet, James Trummy Young thổi kèn trombone. tặng đĩa nhạc này cho Tengo. Nhưng để cho nghe đúng hơn là cho Tengo.


      [1] Louis Armstrong (1901-1971), nghệ danh Satchmo, Sachimo hay Pops, là nghệ sĩ kèn trumpet và ca sĩ nhạc Jazz của Mỹ.


      [2] Barney Bigard (1906-1980): nghệ sĩ chơi kèn clarinet và saxophone của Mỹ.


      Sau khi làm tình, hai người thường nằm giường nghe đĩa nhạc. có thể nghe cả trăm lần thấy chán. “Louis Armstrong thổi trumpet và hát dĩ nhiên là tuyệt vời rồi, nhưng nếu hỏi ý kiến em ở đây thứ đáng ình phải chú tâm nghe là tiếng kèn clarinet của Barney Bigard,” . vậy, song thực ra trong đĩa nhạc này cơ hội độc tấu của Barney Bigard rất ít, hơn nữa mỗi lần lại chỉ có mỗi đoạn nhạc phụ họa mà thôi. Louis Armstrong mới là cây đinh trong đĩa nhạc này. Nhưng những đoạn độc tấu hết sức ngắn ngủi ấy của Bigard đều được quý, mỗi lần nghe đều khẽ ngâm nga theo, từng nốt thuộc nằm lòng.


      , có thể còn nhiều nghệ sĩ kèn clarinet xuất sắc hơn Bigard, có điều diễn tấu nồng nàn mà tinh tế như ông ấy chẳng thể nào tìm ra người thứ hai đâu. Những bài ông ấy chơi hay nhất luôn khơi lên trong tâm trí ta hình ảnh đặc biệt. Ngoài Bigard ra còn những những nghệ sĩ Jazz nào chuyên chơi clarinet nữa, Tengo hoàn toàn biết; tuy nhiên, nghe hết lần này đến lần khác, dần dần Tengo cũng lờ mờ nhận ra vẻ đẹp thuần khiết ở những đoạn diễn tấu clarinet trong đĩa nhạc, hoàn toàn tự nhiên, rất giàu tưởng tượng. Nhưng muốn cảm được đến mức ấy, cần tập trung tinh thần nghe nghe lại nhiều lần, ngoài ra còn phải có người hướng dẫn giỏi. Nếu chỉ nghe cách hờ hững bỏ qua những điểm vi tế đó ngay.


      “Barney Bigard giống như cầu thủ chơi chốt hai[3] thiên tài, diễn tấu hay.” Có lần . “Ông ấy độc tấu dĩ nhiên cũng rất đặc sắc, nhưng ông chỉ thực tỏa sáng khi lùi lại phía sau để khiến người khác nổi bật lên. Điều này cực khó, vậy mà ông ấy dễ dàng làm được. Chỉ những ai tinh tế mới nghe ra giá trị thực của ông mà thôi.”


      [3] vị trí trong môn bóng chày.


      Mỗi lần bản nhạc thứ sáu của mặt B chiếc đĩa than Atlanta Blues cất lên, đều nắm chặt bộ phận nào đó người Tengo, tấm tắc khen đoạn độc tấu ngắn gọn mà tuyệt diệu của Bigard, nằm giữa đoạn Louis Armstrong hát và chơi kèn trumpet. “Nghe , mình nghe cho kỹ . Cái thanh đầu nghe như tiếng khóc trẻ con, kéo dài, khiến tim người ta như muốn rung lên ấy! Thế là kinh ngạc? Hân hoan vui sướng? Hay thổ lộ niềm hạnh phúc? Rồi liền đó nó hóa thành tiếng thở dài khoan khoái, ngoằn ngoèo tiến lên phía trước men theo dòng sông thanh diễm lệ, để rồi bị hút êm vào nơi tuyệt đẹp ai biết đến. Đấy! Nghe ! Ngoài ông ấy, ai thổi được điệu nhạc khiến tim ta phải đập liên hồi như thế. Jimmy None, Bechet, Russell, Goodman[4], đều là nghệ sĩ kèn clarinet xuất sắc, nhưng họ thể tạo ra những khúc nhạc đẽo gọt tinh tế như tuyệt phẩm điêu khắc thế này được.”


      [4] Jimmy Noone (1895-1944), Sidney Bechet (1897-1959), Charles Ellsworth Russell (1906-1969), Benny Goodman (1909-1986): những nghệ sĩ nhạc Jazz chơi kèn clarinet nổi tiếng của Mỹ.


      “Sao mình lại am hiểu nhạc Jazz xưa thế?” có lần Tengo hỏi.


      “Em có nhiều quá khứ mà mình biết lắm. Những quá khứ ai có thể thay đổi được,” vừa vừa đưa tay dịu dàng ve vuốt tinh hoàn của Tengo.


      Khi hoàn thành công việc buổi sáng, Tengo bách bộ ra nhà ga, mua tờ báo ở quầy báo. Sau đó vào quán cà phê gần đấy, gọi phần ăn sáng gồm bánh mì nướng phết bơ mà trứng luộc. Trong lúc đợi phục vụ đưa đồ ăn lên, vừa uống cà phê vừa đọc báo. Đúng như Komatsu dự đoán, trang Xã hội lên bài về Fakaeri. Bài báo dài lắm, đăng ở phần dưới, ngay phía quảng cáo xe Mitsubishi. Tít bài là “Nhà văn tuổi hoa mới nổi mất tích?”


      Việc tác giả cuốn tiểu thuyết bán chạy Nhộng khí, “Fukaeri” (tức Fukada Eriko, 17 tuổi), mất tích được chứng thực vào chiều ngày x x. Theo lời người giám hộ của là nhà nhân loại học văn hóa Ebisuno Takayuki (63 tuổi) cho biết khi đến cục cảnh sát thành phố Ome trình báo, từ tối ngày 27 tháng Sáu Eri trở về nhà ở thành phố Ome, cũng về căn hộ của tại Tokyo và từ đó đến giờ ai liên lạc được với . Trả lời phỏng vấn của bổn báo qua điện thoại, ông Ebisuno cho biết, khi ông gặp Eri lần cuối, vẫn như mọi ngày, hoàn toàn có gì bất thường, ông cũng nghĩ ra bất cứ lý do gì khiến cần phải nấp. Từ trước đến nay chưa từng tự tiện qua đêm mà xin phép ông như thế, nên ông rất lo biết liệu có gặp chuyện gì bất trắc hay chăng.


      Ông Komatsu Kobayashi, biên tập viên phụ trách Nhộng khí của nhà xuất bản xx cho biết: “Cuốn sách này đứng đầu bản xếp hạng sách bán chạy liên tiếp sáu tuần, rất được chú ý, nhưng Fukada thích công khai lộ diện trước giới truyền thông. nhà xuất bản chúng tôi chưa thể xác định được liệu lần mất tích này có liên quan đến ý hướng đó của bản thân hay . Fukada trẻ tuổi mà rất đỗi tài hoa, là tác giả trẻ có tương lai rộng mở. Chúng tôi mong sớm gặp lại ấy bình an mạnh khỏe.” Cảnh sát nghĩ đến mấy khả năng có thể xảy ra và tăng cường điều tra việc.


      Trong giai đoạn tại, chắc báo chí cũng chỉ có thể viết được đến đó thôi, Tengo nghĩ. Nếu chuyện bé xé ra to, biến nó thành tin động trời, chẳng may hai ngày sau Fukaeri bình an vô trở về nhà như chẳng có gì xảy ra, phóng viên nào viết bài báo ấy chắc chắn bị tẽn tò, cả tòa báo cũng phen bẽ mặt. Về phía cảnh sát cũng vậy. Cả hai bên đều đưa ra những phát biểu ngắn gọn vô thưởng vô phạt, như là thả bóng thám vậy, để xem thể rồi ra sao. việc chỉ ầm ĩ lên khi các tạp chí tuần nhúng tay vào đài truyền hình bắt đầu to mồm nhắc đến. Từ giờ đến lúc ấy còn mấy ngày nữa.


      Nhưng chắc chắn, sớm muộn việc trở nên nghiêm trọng. Sóng gió là thể tránh khỏi. đời này, chắc chỉ có bốn người biết rằng ấy hề bị bắt cóc mà thân mình náu ở nơi nào đó. Bản thân dĩ nhiên là biết. Tengo biết. Thầy giáo Ebisuno và con ông, Azami, cũng biết. Ngoài ra còn ai biết màn kịch mất tích này chỉ là trò bịp nhằm thu hút chú ý của mọi người.


      thực, Tengo biết mình nên vui sướng hay lo lắng nữa. Có lẽ là vui sướng: ít nhất cần lo lắng cho an toàn của Fukaeri. nơi an toàn. Nhưng bên cạnh đó, điều ràng là bản thân lại bị đẩy vào tình thế phải bảo vệ cho mưu phức tạp này. Thầy giáo Ebisuno dùng cây xà beng bật tung tảng nham thạch khổng lồ chẳng lành ấy lên, để ánh mặt trời chiếu rọi vào trong, và chờ xem rốt cuộc có thứ gì bò ra từ bên dưới tảng nham thạch ấy. Và Tengo, mặc dù muốn chút nào, buộc lòng phải đứng bên cạnh ông. Sau rốt có thứ gì bò ra, Tengo muốn biết. muốn thấy nó. Thứ bò ra khỏi tảng nham thạch ấy chỉ có thể là những phiền phức cực khó giải quyết. Nhưng cảm thấy mình có cách nào khác ngoại trừ đứng nhìn.


      Tengo uống cà phê, ăn bánh mì nướng và trứng gà, gấp tờ báo đọc hết lại, bước ra khỏi quán. Về đến nhà, đánh răng, tắm rửa, chuẩn bị đến trường dự bị.


      Trong giờ nghỉ trưa ở trường dự bị, Tengo tiếp kiến vị khách lạ. Sau giờ học buổi sáng, về phòng điều độ nghỉ lát, định lật xem mấy tờ báo buổi sáng chưa đọc thư ký thường trực vào thông báo: có người muốn gặp . này lớn hơn Tengo tuổi, rất tháo vát nhanh nhẹn. Tuy chỉ giữ chức danh thư ký, nhưng kỳ thực hầu như mọi việc liên quan đến điều hành nhà trường đều do tay xử lý. Dung mạo hơi thiếu cân đối, khó mà gọi là đẹp, nhưng thân hình thon thả ưa nhìn, ăn mặc trang điểm cũng rất tao nhã.


      “Là người họ Ushikawa,” .


      Chưa bao giờ nghe thấy cái họ này.


      hiểu sao, hơi nhíu mày. “ ta có việc rất quan trọng, nếu được muốn chuyện riêng với .”


      “Việc rất quan trọng?” Tengo kinh ngạc thốt lên. Ở cái trường dự bị này, chưa có ai đến tìm bàn chuyện quan trọng bao giờ.


      “Đúng lúc phòng khách còn trống, tôi dẫn ta đến đó trước rồi. Thường giáo viên thể tùy tiện dùng chỗ đó, nhưng chắc là...”


      “Cám ơn quá,” Tengo , đoạn nở nụ cười rất tươi với thư ký.


      Thế nhưng chẳng buồn nhìn mà nhanh chân rảo bước mất, gió lùa vào chiếc vest mùa hè mẫu mới của Agnes B người , làm vạt bay lất phất.


      Ushikawa lùn tịt, tuổi chừng bốn mươi lăm. Y béo đến nỗi chẳng thấy vòng eo đâu nữa, quanh cổ bắt đầu có thịt thừa đùn ra. Nhưng tuổi tác y Tengo đoán ra được. Vì tướng mạo y đặc biệt (hoặc có thể tầm thường), nên những yếu tố để suy đoán tuổi tác thành ra rất khó nắm bắt. Y vừa có thể nhiều tuổi hơn chút, lại vừa như trẻ hơn chút – bất cứ tuổi nào từ khoảng ba mươi hai cho đến năm mươi sáu. Hàm răng khấp khểnh, cột sống vẹo vọ cách kỳ dị. Đỉnh đầu y hói bóng tạo thành hình phẳng dẹt đến độ bất tự nhiên cùng đường viền nham nhở. Mảng phẳng lì bẹt dí ấy khiến người ta nghĩ đến sân bay trực thăng quân dụng được xây bằng cách phạt ngang đỉnh ngọn đồi chiến lược. Tengo từng thấy cái như thế trong đoạn phim tài liệu về chiến tranh Việt Nam. Xung quanh mảng hói phẳng dẹt méo mó ấy là đám tóc xoăn vừa đen vừa thô dày còn sót lại, dài đến mức cần thiết, xõa xượi che kín hai tai. Nhìn bộ tóc ấy, e rằng trăm người phải có đến chín mươi tám người liên tưởng đến đám lông bờm xờm quanh bộ phận sinh dục. Hai người còn lại nghĩ gì Tengo chịu biết được.


      Từ thân hình cho đến gương mặt, tất cả mọi thứ của người này hình như đều đối xứng. Tengo vừa đưa mắt nhìn nhận ra ngay. Tất nhiên, cơ thể mọi người ít nhiều đều thiếu cân đối, và điều ấy có gì là trái tự nhiên. Ngay bản thân , mí mắt phải và trái cũng hoàn toàn giống nhau, tinh hoàn trái hơi thấp hơn so với tinh hoàn phải. Cơ thể chúng ta phải là đồ sản xuất hàng loạt theo quy cách thống nhất trong nhà máy. Nhưng ở trường hợp người này, sai lệch giữa hai bên phải trái vượt quá phạm vi nhận thức thông thường của con người. mất cân đối lồ lộ ấy ai có mặt cũng thấy được. Nó thể kích thích thần kinh những người có mặt quanh y, khiến họ có cảm giác gai gai khó chịu như đứng trước tấm gương nhà cười vậy.


      Bộ vest màu xám người y chi chít nếp nhăn li ti, khiến người ta liên tưởng đến mặt đất bị băng hà xâm thực. Bên trong là chiếc sơ mi trắng mà cổ áo vểnh cả ra bên ngoài áo vest, nút thắt cà vạt méo xệch, như thể tự oằn mình ra vì sao kham nổi cảm giác khó chịu khi phải đậu chỗ đó. Bộ vest, cà vạt và sơ mi, ba thứ ấy có vẻ hợp nhau lắm về kích cỡ. Hoa văn cà vạt nôm giông giống những sợi mì rữa rối nùi vẽ theo phong cách ấn tượng chủ nghĩa bởi tay học sinh mỹ thuật vụng về. Mỗi món đồ người y đều có vẻ là hàng rẻ tiền mua cả mớ trong hiệu hạ giá. Mặc dù vậy, càng nhìn lâu Tengo lại càng cảm thấy tội nghiệp ớ quần áo ấy, tội nghiệp do bị người này mặc. Tengo gần như chẳng bao giờ bận tâm đến quần áo mặc người mình, nhưng từ bé lại đặc biệt để ý đến cách ăn mặc của người khác. Nếu bắt chọn ra kẻ ăn mặc ra gì nhất mà gặp suốt mười năm nay, người này chắc chắn lọt vào nhóm đầu bảng. Chẳng những ăn mặc ra gì, y thậm chí còn gây ra cho người ta ấn tượng rằng y cố ý lăng nhục khái niệm mặc quần áo.


      Khi Tengo bước vào phòng tiếp khách, người đó liền đứng dậy, lấy trong hộp đựng ra tấm danh thiếp, cúi khom người đưa cho . tấm danh thiếp là bốn chữ “Ngưu Hà Lợi Trị”. Bên dưới in hàng chữ Latinh Ushikawa Toshiharu. Tên nghe cũng bình thường, nhưng còn họ, “Ushikawa”? Dòng sông bò? Cái họ này Tengo chưa nghe bao giờ. Phần chức vụ ghi “Quỹ tài chính Hội Chấn hưng Văn nghệ và Học thuật Tân Nhật Bản – Quản lý chuyên trách”. Địa chỉ của hiệp hội ở Kojimachi, khu Chiyoda, và số điện thoại. Cái “Hội Chấn hưng Văn nghệ và Học thuật Tân Nhật Bản” này là tổ chức thế nào, quản lý chuyên trách là chức vụ gì, Tengo hiểu lắm. Nhưng danh thiếp còn in nổi cả logo, trông rất hoa mỹ, giống như loại in tức thời để đối phó. Tengo nhìn chằm chằm vào danh thiếp lúc, rồi lại ngước lên nhìn người đối diện. nhân vật có vẻ ngoài khác xa với cái chức danh nghe rất kêu “Quản lý chuyên trách của Hội Chấn hưng Văn nghệ và Học thuật Tân Nhật Bản” đến như thế này quả là có hai, nghĩ.


      Hai người lần lượt ngồi xuống ghế, nhìn nhau qua chiếc bàn trà thấp. Người kia lấy khăn tay lau mạnh vài lần cái trán đẫm mồ hôi, sau đó nhét chiếc khăn đáng thương vào lại túi áo ngực. Nữ nhân viên lễ tân mang trà lên cho hai người. Tengo cám ơn .


      Ushikawa lời với lễ tân, nhưng ngay với Tengo: “Xin lỗi làm phiền lúc nghỉ ngơi, lại cũng liên hệ từ trước, quả thực tôi vô cùng áy náy.” Từ ngữ chọn dùng cũng khá là khách khí, nhưng giọng y lại có gì đó nghe suồng sã lạ thường khiến Tengo cảm thấy gần như phản cảm. “À, dùng cơm trưa chưa? Nếu ngại, hay chúng ta ra ngoài vừa ăn vừa chuyện?”


      “Lúc làm việc tôi ăn bữa trưa.” Tengo . “Dạy lớp buổi chiều xong tôi ăn qua loa gì đó. Vì vậy cần để ý chuyện ăn uống làm gì.”


      “Tôi hiểu. Vậy ta chuyện ở đây nhé. Ở đây hình như có thể chuyện thoải mái, mà lại yên tĩnh nữa.”


      Y đảo mắt nhìn quanh gian phòng lượt, như thể định giá. Đây là gian phòng tiếp khách có gì nổi bật. tường treo bức tranh sơn dầu lớn, vẽ ngọn núi. Ngoài việc dùng màu tương đối nổi bật ra, bức tranh gây ấn tượng gì đặc biệt. Trong bình hình như cắm hoa thược dược, loài hoa khiến người ta nghĩ đến người đàn bà đần độn tuổi trung niên. Tại sao trường dự bị lại cần văn phòng tiếp khách u ám thế này nhỉ, Tengo tự hỏi.


      “Tự giới thiệu bây giờ e hơi muộn. Như danh thiếp có viết, tôi họ Ushikawa. Bạn bè gọi tôi là Ushi[5]. Xưa nay chẳng ai gọi tôi là ‘ Ushikawa’ theo đúng khuôn phép cả. Cứ gọi luôn là Bò thôi,” Ushikawa , miệng mở nụ cười.


      [5] Nghĩa là “con bò”.


      Bạn bè? Hạng người như thế nào lại muốn làm bạn với cái gã này nhỉ, Tengo thắc mắc, thuần túy do hiếu kỳ.


      Thực lòng mà , tay Ushikawa làm Tengo nghĩ đến thứ gì đó bò ra từ lỗ sâu trong đất khiến người ta rởn cả gai ốc, thứ gì đó trơn chuội, hình dạng ràng. thứ gì đó vốn nên xuất dưới ánh mặt trời. chừng người này chính là trong những thứ mà Thầy giáo Ebisuno dẫn dụ ra bên dưới tảng nham thạch kia. Tengo nhíu mày cách vô thức, đặt tấm danh thiếp nãy giờ vẫn cầm tay xuống bàn trà. Ushikawa Toshiharu. Đó là tên họ người đàn ông này.


      “Chắc là Kanawa rất bận, nên tôi chuyện nhảm nữa mà thẳng , luôn vào chủ đề chính,” Ushikawa .


      Tengo khẽ gật đầu.


      Ushikawa nhấp ngụm trà, rồi cất tiếng: “Tôi nghĩ, chắc là Kanawa vẫn chưa nghe đến cái tên ‘Hội Chấn hưng Văn nghệ và Học thuật Tân Nhật Bản’.” Tengo gật đầu. “Chúng tôi là quỹ tài chính mới thành lập gần đây. Hoạt động chủ yếu là tuyển chọn những người trẻ tuổi, có nét đặc sắc riêng, hoạt động sôi nổi trong lĩnh vực văn nghệ và học thuật, đặc biệt là những người còn chưa được xã hội biết đến, và tài trợ cho họ. ngắn gọn, tôn chỉ của chúng tôi là bồi dưỡng các nhân tài chớm hé mà rồi trở thành nhân vật dẫn đầu trong thế hệ kế tiếp mọi lĩnh vực của nền văn hóa Nhật Bản đại.


      Ở mỗi lĩnh vực, chúng tôi ký kết hợp đồng với nhân viên điều tra chuyên nghiệp để tìm ứng cử viên. Mỗi năm có năm nghệ sĩ hoặc nhà nghiên cứu được chọn để nhận tiền tài trợ. Trong vòng năm, họ có thể tùy ý làm bất cứ gì mình thích. Điều kiện duy nhất của chúng tôi là đến cuối năm họ nộp bản báo cáo, mang tính hình thức thôi, giải trình qua xem trong năm mình làm những gì, đạt được thành quả nào, thế là được rồi. Báo cáo được đăng tạp chí do quỹ chúng tôi phát hành. Thế thôi, có gì phiền phức cả. Vì hoạt động này chúng tôi chỉ mới bắt đầu nên cho dù thế nào, điều quan trọng nhất với chúng tôi lúc này là có thành tích thực tế trước . cách khác, chúng tôi vẫn trong giai đoạn gieo hạt. Cụ thể hơn, thế nghĩa là chúng tôi phát ỗi người ba triệu yên tiền tài trợ trong năm.”


      “Hào phóng quá nhỉ,” Tengo .


      “Muốn tạo ra hoặc phát ra những thứ quan trọng, cần có thời gian, và cần cả tiền bạc. Dĩ nhiên, phải chỉ cần bỏ thời gian và tiền bạc vào là bảo đảm gặt hái được thành quả lớn. Nhưng thời gian hay tiền bạc đầu tư bao nhiêu cũng đủ. Đặc biệt là thời gian, vì tổng lượng thời gian là đặc biệt hữu hạn. Kim đồng hồ, ngay giờ này phút này, tích tắc tích tắc ghi lại thời gian. Thời gian trôi qua. Cơ hội liên tục mất . Thế nhưng, có tiền, ta có thể mua thời gian. Chỉ cần ta muốn tự do cũng có thể mua được. Thời gian và tự do, đó là những thứ quan trọng nhất mà con người có thể mua được bằng tiền.”


      Tengo nghe ta vậy liền liếc mắt nhìn xuống đồng hồ đeo tay như phản xạ có điều kiện. Đúng thế, thời gian ngừng trôi tích tắc tích tắc.


      “Chiếm dụng thời gian của thế này thực là áy náy quá,” Ushikawa vội , là coi động tác ấy như minh chứng cho lập luận của chính y. “Tôi ngắn gọn thế này. Lẽ đương nhiên, nay mà chỉ dựa vào món tiền ít ỏi ba triệu yên năm thể sống sung túc được. Nhưng với người trẻ tuổi hẳn có thể coi đó là món trợ cấp . Đấy chính là ý định của quỹ chúng tôi: làm sao người nhận trợ cấp phải vất vả lo toan cuộc sống, có thể dồn hết tinh thần và sức lực vào nghiên cứu hay sáng tác trong vòng năm. Trong kỳ xét duyệt cuối năm, chỉ cần ban trị nhận định trong năm đó đương nhận được thành quả khả quan, có khả năng người đó tiếp tục được nhận tài trợ chứ chỉ trong năm đó.”


      Tengo rằng, đợi đối phương tiếp tục.


      “Hôm trước tôi mạn phép nghe giảng bài ở trường này suốt tiếng đồng hồ,” Ushikawa . “Chà chà, thú vị vô cùng. Tôi là kẻ hoàn toàn có chuyện môn gì về toán, thậm chí đây luôn là môn mà tôi kém nhất nữa, hồi học tôi ghét cay ghét đắng giờ toán. Chỉ cần nghe thấy hai chữ ‘toán học’ thôi là đầu nhức buốt cả lên, chỉ muốn chuồn càng xa càng hay. Nhưng bài giảng của , ôi chà chà, quả thực là quá thú vị. Tất nhiên, tôi chẳng hiểu gì về lý thuyết vi phân tích phân, nhưng mà, mới chỉ nghe giảng có tiết thôi, tôi bắt đầu nghĩ, ra toán học thú vị như vậy cơ đấy, hay từ giờ mình cũng học toán nhỉ. Thực có thể tự hào về mình. Kanawa, sở hữu tài năng khác thường, có lẽ nên gọi là khả năng thu hút lòng người. Nghe là thầy giáo rất được quý ở trường này. u cũng là lẽ dĩ nhiên thôi.”


      Tengo hoàn toàn biết Ushikawa đến nghe mình giảng bài vào lúc nào và ở đâu. Mỗi khi đứng lớp, bao giờ cũng chú ý quan sát trong phòng học có những ai. Mặc dù nhớ mặt tất cả học sinh, nhưng nếu trong lớp xuất nhân vật có tướng mạo đặc biệt như Ushikawa tuyệt đối có chuyện nhận ra. Con người này chắc chắn là bắt mắt hệt như con rết trong hộp đường kính vậy. Nhưng Tengo truy vấn thêm. Gặng hỏi nữa chỉ khiến cuộc chuyện dài lại càng dài.


      “Chắc cũng biết, tôi chẳng qua cũng chỉ là thầy giáo làm thuê dạy vài cua ở trường dự bị này.” Để đỡ phí thời gian, Tengo lên tiếng. “Tôi phải người chuyên nghiên cứu về toán học gì đâu. Tôi chỉ cố gắng giảng giải sao cho lý thú và dễ hiểu những thứ được coi là tri thức phổ cập cho học sinh, đồng thời dạy chúng số phương pháp giải đề thi đại học tương đối hiệu quả. Có lẽ tôi thich hợp với công việc như thế. Nhưng rất lâu rồi tôi từ bỏ ý muốn trở thành người nghiên cứu chuyên nghiệp trong lĩnh vực này. mặt tình hình kinh tế cho phép tôi tiếp tục học lên cao, nhưng chủ yếu là vì tôi tự thấy mình đủ tố chất hay năng lực để giành được thành công trong giới học thuật. Vì vậy, tôi thể giúp gì được cho đâu.”


      Ushikawa vội giơ tay lên. “, , tôi có ý đó. Có lẽ tại tôi hơi phức tạp hóa vấn đề. Cho tôi xin lỗi. Giờ toán của đúng là vô cùng thú vị, rất độc đáo, giàu tính sáng tạo. Có điều hôm nay tôi đến đây để chuyện ấy. Điều chúng tôi quan tâm là hoạt động với tư cách tiểu thuyết gia của cơ.”


      Bị đối phương làm cho bất ngờ, suốt mấy giây liền Tengo thốt được tiếng nào.


      “Hoạt động với tư cách tiểu thuyết gia?” hỏi.


      “Vâng ạ.”


      “Tôi hiểu lắm. Đúng thế, mấy năm nay tôi viết tiểu thuyết, có điều chưa lần nào in thành sách cả. Người như tôi chắc thể gọi là tiểu thuyết gia. Làm sao mà tôi lại được các chú ý như thế chứ?”
      Annabelle thích bài này.

    5. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 02: Ngoại trừ linh hồn chẳng còn gì cả - P2

      Nhận thấy phản ứng của Tengo, Ushikawa chừng như hết sức đắc ý, liền mỉm cười, khiến cho hai hàm răng xiên bên nọ vẹo bên kia lộ hết cả ra. Những chiếc răng ấy nghiêng vẹo theo đủ mọi góc độ, chĩa ra mọi hướng, để lộ đủ thứ bẩn thỉu, trông như hàng cọc gỗ ven bờ biển vừa bị sóng lớn vùi dập. tới mức này rồi, giờ có muốn nẹp răng lại chắc cũng được nữa, nhưng ít nhất cũng phải có người dạy ta đánh răng cho đúng cách chứ, Tengo nghĩ.


      “Đó chính là chỗ độc đáo của quỹ chúng tôi,” Ushikawa kêu hãnh . “Các điều tra viên ký hợp đồng với Quỹ thường lưu ý đến những thứ mà người khác còn chưa để ý. Đây cũng là trong các mục đích của chúng tôi. Đúng như , vẫn chưa cho ra mắt tác phẩm hoàn chỉnh nào. Điều ấy chúng tôi rất . Nhưng chúng tôi cũng biết rằng cho đến nay, gần như năm nào cũng gửi bản thảo đến dự thi giải thưởng Tác giả mới của tờ tạp chí văn nghệ, ký bút danh. Chỉ tiết là vẫn chưa được giải, nhưng có mấy lần lọt vào vòng chung khảo. Bởi thế mà khá nhiều người đọc tác phẩm của , và số người trong đó hết sức coi trọng tài năng của . Điều tra viên của chúng tôi kết luận, nghi ngờ gì nữa, trong tương lai gần giành được giải Tác giả mới, chính thức xuất với tư cách nhà văn. Bảo là ‘đầu tư dài hạn cho tương lai’ có lẽ hơi thô, nhưng như tôi vừa khi nãy, ‘bồi dưỡng các nhân tài chớm hé mà rồi trở thành nhân vật dẫn đầu trong thế hệ kế tiếp’ chính là ý định của quỹ chúng tôi.”


      Tengo nhấc chén lên, nhấp ngụm trà hơi nguội. “Tôi trở thành ứng cử viên nhận tiền tài trợ với tư cách nhà văn mới. Có phải vậy ?”


      “Hoàn toàn chính xác. Có điều phải ứng cử viên mà đúng hơn là chắc chắn được chọn rồi. Chỉ cần với tôi rằng đồng ý nhận khoản tài trợ này, thế là tôi có thể thu xếp xong xuôi. chỉ việc ký tên vào số giấy tờ, ba triệu yên được chuyển ngay vào tài khoản ngân hàng của . Như vậy là có thể xin nghỉ ở trường dự bị này nửa năm, năm, chuyên tâm viết tiểu thuyết. Nghe viết tiểu thuyết dài. Đây chẳng phải là cơ hội tốt hay sao?”


      Tengo chau mày. “Làm sao biết được tôi viết tiểu thuyết dài?”


      Ushikawa nhe răng cười. Nhưng nếu quan sát kỹ, có thể thấy mắt y hề cười. Sâu trong đồng tử y có ánh sáng lạnh buốt như băng.


      “Các điều tra viên của quỹ chúng tôi vừa mẫn cán lại vừa giỏi giang. Họ chọn ra số ứng viên, rồi điều tra triệt để từ mọi phương diện. Chuyện viết tiểu thuyết dài, xung quanh thể nào chẳng có vài người biết. Chuyện gì cũng đều có thể lộ ra.”


      Chuyện Tengo viết tiểu thuyết dài, Komatsu có biết. Người tình hơn tuổi của cũng biết. Ngoài ra còn ai nữa nhỉ? Chắc là .


      “Tôi muốn hỏi vài câu về quỹ của các ,” Tengo .


      “Vâng, cứ hỏi. Hỏi gì cũng được.”


      “Nguồn gốc số tiền các sử dụng là từ đâu?”


      “Có người cung cấp vốn. Cũng có thể là do tập đoàn tài chính mà ông ta sở hữu cung cấp cũng được. cách khách quan – chuyện này chỉ hai ta biết thôi nhé – làm như vậy cũng là để ông ấy bớt phải đóng thuế. Dĩ nhiên là, ngoài chuyện đó ra, ông ấy quan tâm sâu sắc đến văn nghệ và học thuật, sẵn sàng ủng hộ và giúp đỡ những người trẻ tuổi. Cụ thể hơn nữa tôi tiện . Ông ấy, bao gồm cả tập đoàn tài chính mà ông ấy sở hữu, mong muốn giữ kín tên tuổi của mình. Mọi hoạt động được ủy thác hoàn toàn cho ban trị của quỹ. Tôi đây cũng là thành viên trong ban trị ấy.”


      Tengo nghĩ ngợi giây lát. Thực ra cũng chẳng có gì đáng để nghĩ ngợi cả. Chỉ là cần sắp xếp lại cho có lớp lang những lời Ushikawa vừa .


      “Tôi hút thuốc được nhỉ?” Ushikawa hỏi.


      “Vâng. Mời ,” Tengo , rồi đẩy chiếc gạt tàn qua.


      Ushikawa lấy trong túi áo ra bao Mild Seven, ngậm điếu vào miệng, rồi châm thuốc bằng chiếc bật lửa kim loại. Đó là chiếc bật lửa và dài, có vẻ là loại đắt tiền.


      thấy sao, Kanawa?” Ushikawa hỏi. “ có vui lòng chấp nhận tiền tài trợ của quỹ chúng tôi ? thực lòng, từ khi dự thính tiết học thú vị của , cá nhân tôi rất hứng thú với cái thế giới cố tạo ra trong các tác phẩm của mình.”


      “Tôi lấy làm cảm kích trước đề nghị của các ,” Tengo đáp. “Nhưng tôi thể nhận số tiền tài trợ này được.”


      Ushikawa kẹp điếu thuốc tỏa khói, nheo mắt nhìn vào mặt Tengo. “Ý là...”


      “Trước tiên, cá nhân tôi muốn nhận tiền của những người xa lạ. Thứ nữa, giờ tôi đặc biệt cần tiền. Mỗi tuần tôi dạy ở trường dự bị này ba ngày, thời gian còn lại tập trung viết tiểu thuyết, cuộc sống như vậy có thể coi là thoải mái. Tôi muốn thay đổi nhịp sống này.”


      Thứ ba, Ushikawa ạ, tôi chẳng muốn phát triển quan hệ cá nhân nào với . Thứ tư, số tiền tài trợ này dù xét từ góc độ nào cũng thấy đầy nghi vấn. Điều kiện tốt đến mức quá trớn. Chắc chắn là đằng sau có tình gì đây. Đương nhiên tôi phải người có trực giác nhạy bén nhất thế giới, song những chuyện này chỉ ngửi qua là cảm thấy được. Tất nhiên, Tengo chỉ nghĩ chứ ra lời.


      “Ồ,” Ushikawa , hít hơi thuốc dài vào phổi rồi phun ra xem chừng khoan khoái lắm. “Tôi hiểu, tôi có thể hiểu được cân nhắc của . Lý do đưa ra cũng hợp tình hợp lý. Có điều, Kanawa ạ, việc này cần phải trả lời ngay. cứ về nhà, nghĩ ngợi cho kỹ trong ba ngày, được ? Sau đó từ từ quyết định cũng chưa muộn. Chúng tôi gấp gáp gì. Đề nghị của chúng tôi chẳng phải tồi đâu.”


      Tengo kiên quyết lắc đầu. “ thế tôi lòng cảm kích, nhưng tốt nhất ta dứt khoát ở đây cho xong, đỡ lãng phí thời gian cả đôi bên. Tôi thấy vinh hạnh được chọn làm ứng cử viên nhận tiền tài trợ của quý quỹ. lại quản đường sá đến tận nơi thế này, mất công quá. Có điều, tôi e phải từ chối. Đây là quyết định cuối cùng; tôi nghĩ lại đâu.”


      Ushikawa gật đầu lia lịa, lưu luyến dụi điếu thuốc mới hút có hai hơi vào gạt tàn.


      “Được rồi. Tôi hoàn toàn hiểu ý , và tôi tôn trọng ý nguyện của . Tôi lấy làm tiếc quấy quả , làm mất giờ. Tôi đành thôi nài ép nữa. Cho tôi xin phép cáo từ!”


      vậy nhưng Ushikawa tỏ vẻ gì là muốn đứng dậy, vẫn gãi gáy sồn sột và nheo nheo mắt.


      “Chỉ có điều, Kanawa này, hẳn là bản thân vẫn chưa ý thức được, nhưng người ta kỳ vọng nhà văn có tiền đồ rộng mở. có tài năng. Toán học và văn học có lẽ có quan hệ trực tiếp, nhưng bài giảng của thực thú vị, cứ như kể chuyện vậy. Việc đó người bình thường làm được đâu. sở hữu khả năng đặc biệt, đáng để kể cho người khác nghe. Đến cả người như tôi mà thoáng nhìn cũng nhận ra ngay. Vì vậy, xin hãy trân trọng lấy mình. Thứ lỗi cho tôi nếu tôi hơi lắm lời, xin đừng dính dáng vào những chuyện liên quan, cứ giữ lấy thân mà thẳng tiến con đường của mình thôi.”


      “Những chuyện liên quan?” Tengo hỏi ngược lại.


      “Chẳng hạn như giữa Fukada Eri tác giả cuốn Nhộng khí hình như, ừm, sao nhỉ, có chút quan hệ. Hoặc có thể là cho đến nay hai người gặp nhau vài lần rồi, phải ? Hơn nữa, vừa nãy tôi tình cờ đọc bài báo hôm nay, viết rằng hình như ấy mất tích. Giới truyền thông chắc chắn ra sức xào xáo lên à xem.”


      “Cứ cho là tôi và Fukada Eri gặp nhau mấy lần, chuyện đó có ý nghĩa gì chứ?”


      Ushikawa nhấc tay lên ra ý ngăn Tengo tiếp. Bàn tay , song các ngón tay lại chuối mẳn, tròn nần nẫn. “Chà chà, xin đừng cảm tính như thế chứ. Tôi vậy hề có ác ý gì. Tôi chỉ muốn là, bán rẻ thời gian và tài năng của mình vì miếng cơm manh áo hằng ngày kết quả chẳng bao giờ tốt đẹp đâu. ra lời này có lẽ hơi mạo muội, nhưng tài năng của viên kim cương thuần khiết ở dạng thô, và tôi muốn thấy nó bị hư hỏng phí hoài vì những chuyện đâu. Nếu chuyện giữa Fukada và Kanawa bị lọt ra ngoài, chắc chắn có người tìm đến tận nơi. Họ bám nhằng nhẵng chịu rời, moi ra đủ chuyện cả cả giả rồi làm ầm ĩ lên. Bọn họ là lũ dai lắm đấy.”


      Tengo lời nào, lẳng lặng nhìn chằm chằm vào Ushikawa bấy giờ vẫn nheo mắt và gãi gãi cái dái tai to tướng. Tai y rất , nhưng cái dái tai lại to đến bất thường. Kết cấu cơ thể dị thường của con người này quả là nhìn bao giờ hết chán.


      đừng hiểu sai. Tôi tuyệt đối tiết lộ chuyện này ra ngoài đâu.” Ushikawa lặp lại, làm động tác kéo phéc mơ tuya ngang miệng. “Tôi hứa với . Trông bộ dạng tôi thế này thôi, nhưng tôi kín miệng lắm. Người ta còn biết kiếp trước của tôi có phải con sò cơ đấy. Chuyện này tôi giữ kín trong lòng, để bày tỏ thiện ý cá nhân của tôi với Kanawa. ai khác biết đâu.”


      xong câu ấy, cuối cùng Ushikawa cũng đứng lên khỏi sofa, kéo kéo bộ vest, như muốn vuốt cho thẳng những nếp nhăn li ti đó. Nhưng y làm vậy chẳng khiến các nếp nhăn phẳng lại, mà chỉ khiến chúng càng thêm nổi bật hơn thôi.


      “Còn chuyện tiền tài trợ, nếu thay đổi ý kiến, xin cứ liên hệ với tôi qua số điện thoại danh thiếp bất cứ lúc nào. Thời gian vẫn còn nhiều. Nếu năm nay được vẫn còn sang năm.” đoạn, y lấy hai ngón tay trỏ vạch biểu thị trái đất chuyển động quanh mặt trời. “Chúng tôi hề sốt ruột. Ít nhất tôi cũng có được cơ hội chuyện với và truyền đạt thông tin đến rồi.”


      xong Ushikawa lại toét miệng cười, như muốn khoe hai hàm răng hư hoại của mình, rồi quay người bước ra khỏi phòng tiếp khách.


      Trước khi tiết học bắt đầu, Tengo cứ nghĩ mãi về những lời Ushikawa . Người này dường như biết Tengo có tham gia kế hoạch “tái tạo” Nhộng khí. Giọng điệu y ám chỉ điều ấy. Bán rẻ tài năng và thời gian vì miếng cơm manh áo hằng ngày kết quả chẳng bao giờ tốt đẹp đâu. Ushikawa như thế.


      Chúng tôi biết hết... đây chính là thông tin bọn họ muốn truyền đạt.


      Tôi cũng có được cơ hội chuyện với và truyền đạt thông tin đến rồi.


      Lẽ nào để truyền đạt thông tin như thế, chỉ vì mục đích đó thôi, họ phải phái Ushikawa đến chỗ Tengo, dâng tặng ba triệu “tiền tài trợ”? , nghe chẳng hợp lý chút nào. Họ đâu cần lập mưu chu đáo đến thế làm gì. Họ nắm được nhược điểm của mình. Nếu muốn uy hiếp, họ chỉ cần lôi ấy ra ngay từ đầu là được. Hay là bọn họ mưu dùng số “tiền tài trợ” ấy để mua chuộc mình? Cho dù thế nào, tất cả cũng đều quá kịch. Và rốt cuộc, bọn họ là ai? Cái quỹ “Chấn hưng Văn nghệ và Học thuật Tân Nhật Bản” ấy liệu có liên quan gì đến Sakigake ? Cái quỹ ấy liệu có thực tồn tại hay ?


      Tengo cầm danh thiếp của Ushikawa tìm thư ký. “Tôi còn chuyện này muốn nhờ giúp.”


      “Chuyện gì thế?” ngồi yên ghế, ngẩng mặt lên hỏi Tengo.


      “Tôi muốn nhờ gọi điện thoại đến chỗ này, hỏi xem họ có phải là ‘Chấn hưng Văn nghệ và Học thuật Tân Nhật Bản’ hay . Rồi hỏi người quản lý có họ là Ushikawa có ở đấy . Chắc họ bảo , chừng ấy hỏi xem mấy giờ ta trở lại. Nếu họ hỏi tên cứ bịa ra tên gì đó. Tự tôi gọi được, chỉ e ngộ nhỡ đối phương nghe ra giọng tôi tiện lắm.”


      thư ký ấn số. Đầu dây bên kia bắt máy, ứng đối rất thỏa đáng. Đó là cuộc trò chuyện giữa những người chuyên nghiệp, súc tích và ngắn gọn.


      “Đúng là có ‘Chấn hưng Văn nghệ và Học thuật Tân Nhật Bản’ . Người bắt máy là tiếp tân, áng chừng chưa đến hai lăm tuổi, trả lời khá mạch lạc. Người mang họ Ushikawa đúng là làm việc ở đó, khoảng ba giờ rưỡi về văn phòng. ta hỏi tên họ của tôi. Nếu là tôi đương nhiên tôi hỏi.”


      “Đương nhiên rồi,” Tengo . “Tóm lại là cám ơn nhiều lắm.”


      có gì.” đặt tấm danh thiếp của Ushikawa vào tay Tengo mà : “Vậy ông Ushikawa này chính là người lúc nãy à?”


      “Đúng vậy.”


      “Tôi chỉ liếc có cái thôi, chà, bộ dạng ta trông sợ đấy.”


      Tengo cất tấm danh thiếp vào ví da. “E rằng dù có thời gian nhìn ta lâu hơn ấn tượng ấy cũng thay đổi đâu.”


      “Tôi thường thích xét người qua tướng mạo bề ngoài. Trước đây vì chuyện này mà tôi sai lầm lần, hối hận quá muộn. Nhưng mà con người này, vừa thoáng nhìn tôi cảm thấy thể tin được. Đến giờ tôi vẫn nghĩ thế.”


      chỉ mình nghĩ thế đâu,” Tengo .


      “Nghĩ như thế chỉ có mình tôi,” lặp lại, như xác nhận xem kết cấu ngữ pháp của câu ấy có chuẩn .


      “Áo của đẹp quá,” Tengo . Lời này phải để lấy lòng, mà hoàn toàn thành thực. Sau khi được nếm mùi bộ vest đại hạ giá nhàu nhĩ của Ushikawa, chiếc áo vải đay được cắt may rất có gu của trông chẳng khác nào lụa là từ thiên đường bay xuống trong buổi chiều gió.


      “Cám ơn,” thư ký đáp.


      “Nhưng mà, cho dù có người nghe điện thoại, ‘cũng chưa chắc tồn tại Chấn hưng Văn nghệ và Học thuật Tân Nhật Bản’,” Tengo .


      “Đúng vậy. Đương nhiên cũng có khả năng đây là vụ lừa đảo được dày công sắp xếp. Chỉ cần đăng ký đường dây điện thoại, thuê người trực máy là được rồi. Giống như trong phim The Sting[6] ấy. Nhưng mà cần gì phải tốn công như vậy chứ? Tengo ạ, tôi thế này hơi... nhưng hình như đâu phải loại người có nhiều tiền để người ta lừa gạt, phải .”


      [6] Bộ phim năm 1973 của đạo diễn George Roy Hill.


      “Tôi nào có gì,” Tengo , “Ngoại trừ linh hồn.”


      “Nghe giống như câu chuyện sắp có Mephistopheles[7] xuất ấy,” .


      [7] Mephistopheles (hay còn gọi là Mephistophilus, Mephistophilis, Mephostopheles, Mephisto): con quỷ trong thần thoại Đức, nhân vật trong tác phẩm của nhiều tác gia Đức trong đó có tác phẩm lừng danh Faust của J.W.Geothe.


      “Có lẽ tôi phải đến tận địa chỉ này chuyến, tận mắt xem rốt cuộc có văn phòng của họ ở đấy .”


      “Sau khi làm kết quả báo với tôi tiếng nhé,” nheo mắt, vừa vừa kiểm tra lại sơn móng tay.


      “Hội Chấn hưng Văn nghệ và Học thuật Tân Nhật Bản” quả có tồn tại . Sau giờ học, Tengo bắt tàu điện đến Yotsuya, rồi từ đó bộ tới Kojimachi. Tìm đến địa chỉ trong danh thiếp, thấy tòa nhà bốn tầng, trước cửa treo tấm biển kim loại đề “Chấn hưng Văn nghệ và Học thuật Tân Nhật Bản”. Văn phòng nằm tầng ba. Tầng này có “Nhà Xuất bản m nhạc Mikimoto” và “Phòng kế toán Koda”. Nhìn quy mô tòa nhà các văn phòng có lẽ lớn lắm. Dường như chẳng có công ty nào làm ăn phát đạt, mặc dù nếu chỉ nhìn bề ngoài thể hiểu được tình hình bên trong. Tengo định thang máy lên tầng ba, muốn xem xem đó rốt cuộc là văn phòng như thế nào, hay ít nhất nhìn qua cái cửa thôi cũng được. Thế nhưng nếu chẳng may đụng phải Ushikawa ở hành lang có thể hơi phiền.


      Tengo bắt tàu điện về nhà, gọi điện cho Komatsu. ngờ Komatsu ở công ty, ta bắt máy ngay, là chuyện xưa nay hiếm.


      “Giờ tiện cho lắm,” Komatsu . nhanh hơn bình thường, điệu hơi cao. “Xin lỗi, giờ tôi tiện chuyện.”


      Komatsu, chuyện này quan trọng lắm,” Tengo . “Hôm nay có tay rất kỳ quái đến chỗ trường tôi dạy, hình như biết gì đó về quan hệ giữa tôi và Nhộng khí.”


      Komatsu cầm điện thoại, trầm ngâm mất mấy giây. “Chừng hai mươi phút nữa tôi có thể gọi lại cho cậu. Cậu ở nhà à?”


      “Vâng,” Tengo trả lời. Komatsu liền gác máy. Trong lúc đợi điện thoại, Tengo lấy đá mài ra mài hai con dao, đun nước, pha trà. Đúng hai mươi phút sau, chuông điện thoại vang lên. Komatsu mà như thế lại cũng là chuyện hết sức hiếm gặp.


      Lần này giọng Komatsu trấn tĩnh hơn lúc nãy nhiều. Như thể ta vừa đến nơi yên tĩnh rồi gọi điện từ đó. Tengo kể vắn tắt cho ta nghe những gì Ushikawa trong phòng tiếp khách.


      “Chấn hưng Văn nghệ và Học thuật Tân Nhật Bản? Chưa bao giờ nghe đến. Lại còn tài trợ cho cậu ba triệu yên, chuyện này cũng hết sức kỳ lạ. Đương nhiên tôi đồng ý là rồi đến ngày cậu trở thành tác gia lớn, nhưng giờ cậu còn chưa xuất bản tác phẩm nào kia mà. Chuyện này khó tin. Đằng sau chắc chắn là có chuyện mờ ám.”


      “Tôi cũng nghĩ thế.”


      “Cho tôi chút thời gian. Cái ‘Chấn hưng Văn nghệ và Học thuật Tân Nhật Bản’ ấy, để tôi điều tra cho. Khi nào biết được gì, tôi liên lạc với cậu. Nhưng tóm lại câu, thằng cha Ushikawa ấy biết được quan hệ giữa cậu và Fukaeri rồi hả?”


      “Hình như vậy.”


      “Chuyện này hơi phiền phức chút đây.”


      “Có gì đó bắt đầu chuyển động,” Tengo . “Thầy giáo Ebisuno dùng xà beng nậy tảng đá lên cũng chẳng sao, nhưng xem ra có thứ gì đó mà chúng ta tưởng tượng nổi từ bên dưới bò ra rồi.”


      Komatsu thở dài ở đầu dây phía bên kia. “Chỗ tôi cũng bị người ta truy hỏi suốt. Tạp chí tuần nhặng xị hết cả lên. Cả đài truyền hình cũng sang chọc ngoáy. Mới sáng nay cảnh sát đến công ty hạch hỏi tôi. Họ nắm được quan hệ giữa Fukaeri và Sakigake. Đương nhiên là cả chuyện biết cha mẹ ấy ở đâu. E là đám truyền thông thổi phồng vụ lên.”


      “Thầy giáo Ebisuno giờ thế nào?”


      “Từ hôm trước cả Thầy giáo Ebisuno cũng mất liên lạc. Gọi điện thoại được, mà ông ấy cũng liên lạc với ai. Chắc ông ấy cũng rối hết cả lên. Nếu thầm trù tính gì đó.”


      “Nhân thể, Komatsu này, tôi hỏi câu liên quan nhé, chuyện tôi viết tiểu thuyết dài, kể với ai đấy chứ?”


      “Làm gì có, tôi chẳng kể với ai hết,” Komatsu lập tức đáp. “Cần gì phải với người khác kia chứ?”


      “Vậy tốt. Tôi chỉ hỏi vậy thôi.”


      Komatsu trầm ngâm thoáng, đoạn : “Tengo này, bây giờ e hơi muộn, nhưng chuyện tới nước này, khéo chúng ta đặt chân vào nơi cực kỳ khó chịu đấy.”


      “Dù đặt chân vào đâu cũng còn đường quay đầu lại nữa rồi, chắc chắn.”


      “Nếu có đường quay đầu lại , dù xảy ra chuyện gì cũng chỉ có thể tiến lên phía trước mà thôi. Cho dù cái thứ chúng ta tưởng tượng nổi mà cậu ấy có bò ra cũng vậy.”


      “Tốt nhất là buộc chắc dây an toàn vào,” Tengo .


      “Đúng rồi,” Komatsu xong liền gác máy.


      ngày dài đằng đẵng. Tengo ngồi bên bàn, uống trà nguội tanh nguội ngắt, nghĩ về chuyện Fukaeri. mình náu ở chỗ bí mật ấy, cả ngày làm gì nhỉ? Đương nhiên, chẳng ai biết được rốt cuộc Fukaeri làm gì.


      Trí tuệ và sức mạnh của Người Tí Hon có thể làm tổn thương đến Thầy giáo và , Fukaeri như thế trong băng cát xét. Ở trong rừng phải cẩn thận. Tengo bất giác đưa mắt nhìn quanh. Đúng vậy. Rừng sâu là thế giới của họ.
      Annabelle thích bài này.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :