Đồng Đạo - John Grisham(Trinh thám)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Đồng Đạo
      [​IMG]

      Tác Giả: John Grisham
      Thể Loại: Trinh Thám, Kinh Dị, Tiểu thuyết, Văn học phương Tây
      Dịch Giả: Nguyễn Bá Long
      Nhà Xuất Bản: NXB Văn Học
      Nguồn: vnthuquan.net


      Giới thiệu:


      Chiếc xe lao xuống vực và bốc cháy dữ dội. Nạn nhân chỉ còn sót lại mảnh xương chậu nham nhở song vẫn nhanh chóng được xác định là luật sư Patrick Lanigan.
      Bốn năm sau, người ta tìm ra viên luật sư được coi là chết đó - kẻ tận mắt chứng kiến lễ mai táng chính mình - nhưng thu hồi được 90 triệu đô là mà , bằng những mưu mẹo thần sầu, nẫng tay của đám đồng nghiệp tham lam, ti tiện.
      Họ đâu biết rằng, chính , do quá mỏi mệt với lẩn trốn, lấy thêm được tiền của họ, và chỉ cho họ cách tìm ra mình.

      Bốn năm trước, "giúp" họ mai táng mình. Bây giờ, "giúp" họ bắt mình. Mọi đều được tính toán kỹ lưỡng. Tưởng còn gì có thể làm ngạc nhiên nữa. Song Lanigan lường được bất ngờ khủng khiếp chờ đợi . Khủng khiếp hơn mọi bất ngờ mà gây ra cho mọi người. vẫn thể tính hết.​

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 1

      H ọ tìm ra ở Ponta Porã, thị trấn êm đềm của Braxin, giáp biên giới với Paragoay, nơi miền đất mà người ta vẫn gọi là vùng biên.

      Họ thấy sống trong biệt thự mình phố Tiradentes, đường phố rộng với hàng cây xanh chạy ở giữa và những cậu bé để chân đất đá bóng mặt hè nóng bỏng.

      Theo như những gì họ biết sống mình, kể người giúp việc đến và vào những giờ rảnh rang trong suốt tám ngày mà họ theo dõi.

      Có thể thấy rằng sống cuộc sống dễ chịu nhưng chắc chắn là thừa thãi gì. Ngôi biệt thự khá là khiêm nhường mà bất kỳ thương nhân địa phương nào cũng có thể có. Ô tô xài là chiếc VoJkswagen Beetle đời 1983, được sản xuất ở São Paulo cùng với cả triệu chiếc khác. Chiếc xe màu đỏ và đuợc lau chùi bóng lộn. Tấm ảnh đầu tiên của mà họ chụp dược là lúc lau xe ngay bên trong cổng.

      Họ thấy giảm cân cách đáng kể so với cái thân hình chừng hơn tạ mà lần cuối cùng người ta nhìn thấy. Da và cả tóc sẫm màu hơn, cái cằm gọn ghẽ và cái mũi hơi nhọn. Những thay đổi tinh tế. Họ phải chi tiền kha khá cho tay bác sĩ phẫu thuật ở Rio, người thực những thay đổi này cách đây hai năm rưỡi.

      Vậy là sau bốn năm săn lùng khổ ải, bốn năm với những ngõ cụt, những dấu vết mất hút và những tin tức sai lạc, bốn năm đổ tiền như trút vào cái túi thủng, cuối cùng họ cũng tìm thấy .

      Nhưng rồi họ vẫn chờ đợi. Thoạt đầu họ muốn tóm ngay lập tức, gây mê và đưa tới ngôi nhà an toàn ở Paragoay, trước khi phát ra họ hay người hàng xóm nào đó trở nên nghi ngờ. Cơn bốc đồng khi tìm ra khiến họ nghĩ tới hành động nhanh chóng, thế nhưng sau hai ngày họ quyết định mình và chờ đợi. Họ lảng vảng phố Tiradentes, ăn mặc như những người địa phương, uống trà dưới bóng cây, tránh nắng, ăn kem, tán gẫu với bọn trẻ, tất cả chỉ để trông chừng ngôi nhà của . Họ bám theo khi chạy xe vào trong phố để mua hàng, và họ từ bên kia đường chụp ảnh khi bước ra khỏi tiệm thuốc. Họ áp sát cửa hàng rau quả và nghe với người bán hàng bằng thứ tiếng Bồ Đào Nha tuyệt hảo, với hơi chút giọng của người Mỹ hay người Đức chịu học gì đó. mau mau chóng chóng mua hàng và trở về nhà, với cánh cổng đóng kín lại ngay. Chuyến chóng vánh này của dã để lại nhiều tấm ảnh cho họ.

      Xưa kia cũng từng tập chạy, mặc dù trong những tháng trước khi biến mất quãng đường chạy của rút ngắn lại khi mà thân hình của mập ú lên. Giò đây, xuống cân nhiều như vậy họ chẳng ngạc nhiên gì khi thấy chạy trở lại. khóa cổng khi ra khỏi nhà và bắt đầu chạy từ từ hè phố Tiradentes. Chín phút cho dặm đưòng đầu tiên, với đoạn đường thẳng tắp và nhà cửa mỗi lúc cách xa nhau hơn. Ra tới rìa thị trấn mặt đường còn được trải nhựa nữa mà chỉ là đưòng đất và khi vào dặm dưòng thứ hai với-tốc độ tám phút dặm Đanilo bắt đầu túa mồ hôi. chừng giữa buổi sáng và thời tiết tháng Mười lúc này vào khoảng hai mươi tư độ. tăng tốc độ khi ra khỏi thị trấn, chạy qua bệnh viện với đầy các bà mẹ trẻ và nhà thờ do những người Báptixt dựng lên. Đoạn đường trở nên bụi bặm hơn khi hướng ra ngoại ô với tốc độ bảy phút dặm.

      Việc chạy của là hoàn toàn nghiêm túc và điều đó làm cho họ hết sức hài lòng. Đơn giản là Danilo chạy thẳng vào tay họ.

      Ngay sau hôm tìm ra , ngôi nhà tồi tàn ở ngoại ô Ponta Porã được người Braxin có tên là Osmar đứng ra thuê, và chẳng mấy chốc toàn bộ nhóm truy lùng dọn đến. Số lượng ngưòi Mỹ và người Braxin trong nhóm là bằng nhau, với Osmar ra lệnh bằng tiếng Bồ Đào Nha và Guy ra lệnh bằng tiếng . Osmar có thể cả hai thứ tiếng này, và trở thành người phiên dịch chính thức cho cả nhóm.

      Guy, đến từ Washington, là cựu nhân viên chính phủ được thuê để tìm kiếm Danny Boy, biệt danh mà ngưòi ta đặt cho Danilo Sinva. Với số cấp, Guy được coi là ngưòi có thực tài, và ở những cấp khác ta được đánh giá là thiên tài, còn quá khứ của ta hoàn toàn là lỗ đen. ta tốn khá nhiều thời gian của bản hợp đồng thứ năm cho việc tìm kiếm Danny Boy, và khoản tiền chi cho việc tìm kiếm con mồi là khá lớn. Mặc dù để lộ ra, nhưng Guy dần dần mệt mỏi dưới áp lực của việc tìm kiếm này.

      Bốn năm và ba triệu rưỡi đô la, mà chẳng có kết quả gì.

      Nhưng giờ đây, họ tìm ra .

      Osmar và nhóm Braxin của ta hề biết gì về những hành vi tội phạm của Danny Boy, thế nhưng kẻ ngu ngốc cũng biết rằng biến mất cùng với lượng tiền có thể chất đầy cả đoàn tàu và, dẫu có tò mò về Danny Boy, Osmar vẫn nhanh chóng hiểu là nên hỏi gì. Guy và những người Mỹ kia hề mở miệng về chuyện này.

      Những tấm ảnh của Danny Boy được phóng lên cỡ 18/24 và gắn lên dọc bức tường trong căn bếp của ngôi nhà bẩn thỉu, nơi mà những người đàn ông đầy vẻ kiên nhẫn kia, với những điếu thuốc lá loại nặng luôn môi, xem xét chúng cách cẩn trọng và rồi lắc đầu. Họ thào với nhau và so sánh những tấm ảnh mới này với những tấm cũ, từng được chụp trước đây. người con hơn, chiếc cằm gọn ghẽ và cái mũi khác. Tóc ngắn hơn và da dẻ sẫm màu hơn. Có thực ?

      Họ nhầm lần, ở Recife, vùng bờ biển miền đông bắc, cách đây mười chín tháng, khi họ thuê căn hộ và xem xét những tấm ảnh gắn tường cho tới khi họ quyết định tóm người Mỹ và kiểm tra dấu vân tay của ta. Dấu vân tay đúng. Nhầm người. Họ tiêm thêm cho ta liều thuốc gây mê và bỏ ta lại cái rãnh bên đường.

      Họ e ngại dám tìm hiểu quá sâu vào đời sống nay của Danilo Silva. Nếu thực là kẻ mà họ muốn tìm kiếm đương nhiên phải có rất nhiều tiền. Và tiền luôn luôn làm ra được những điều kỳ diệu vối các nhà chức trách sở tại. Từ hàng chục năm nay, tiền bạc mua được an toàn cho những tên Quốc xã và những người Đức khác tìm đường tới náu ở Ponta Porã.

      Osmar muốn tóm . Guy phải đợi. mất hút bốn ngày liền và cái ngôi nhà tồi tàn đó cuống cuồng cả lên trong suốt ba mươi sáu tiếng đồng hồ.

      Họ nhìn thấy rời khỏi nhà chiếc Beetle màu đỏ. Tin báo lại rằng có vẻ vội vã. lái xe băng ngang qua thị trấn tới sân bay, nhảy lên chiếc máy bay chở khách cỡ vào phút chót, và biến mất. Xe của được để trong cái bãi gửi xe duy nhất, và họ hề rời mắt khỏi nó cho dù là giây. Chiếc máy bay đó hay hướng São Paulo, với bốn chặng dừng dọc đường.

      Ngay lập tức có kế hoạch đột nhập ngôi nhà của và rà soát mọi thứ. Hẳn phải có các hồ sơ giấy tờ liên quan tới tiền bạc. Guy mường tượng tới việc tìm thấy những thông báo của nhà băng, những giấy tờ liên quan tới việc chuyển tiền, các thông báo về tài khoản; tất cả các loại giấy tờ được xếp gọn gàng trong chiếc cặp và dẫn họ thẳng tới chỗ tiền kia.

      Thế nhưng, ta khôn ngoan hơn thế. Nếu Danny Boy chạy trốn họ để lại đằng sau chứng cớ nào hết. Và nếu thực là kẻ mà họ muốn tìm kiếm ngôi nhà của phải được bảo vệ rất kỹ lưỡng. Cho dù là ở đâu Danny Boy có thể cũng biết ngay khi họ mở cửa ra vào hoặc cửa sổ của ngôi nhà.

      Họ chờ đợi, chửi thề, cãi cọ và mỗi lúc trở nên căng thẳng hơn. Guy vẫn hàng ngày gọi điện về Oasinhtơn, việc chẳng thú vị gì. Họ tiếp tục dán mắt vào chiếc Beetle. Mỗi chuyến bay hạ cánh là ống nhòm và điện thoại di động lại nháo nhào cả lên. Ngày thứ nhất có sáu chuyến và ngày thứ hai năm chuyến. Ngôi nhà trở nên nóng bức hơn và họ tỏa cả ra bên ngoài - những người Mỹ ngủ gà ngủ gật dưới tán cây ở vườn sau còn những người Braxin chơi bài bên hàng rào ở phía trước.

      Guy và Osmar sau cùng quyết định tóm nếu như quav lại-Osmar tin tưởng là quay lại. Có thể là khỏi chỉ vì công chuyện gì đó. Họ tóm , nhận dạng và nếu chẳng may lại nhầm ngưòi đơn giản là lại ném xuống cái rãnh nào đó và rút êm. Đó là chuyện từng xảy ra mà.

      trở về vào ngày thứ năm. Họ bám thep tới phố Tiradentes, và tất cả đều thở phào.

      Vào ngày thứ tám, ngôi nhà bẩn thỉu trở nên trống rỗng vì cả nhóm chiếm lĩnh các vị trí.

      Tuyến đường của dài sáu dặm. Từ hôm về, ngày nào cũng chạy, rời nhà vẫn cùng giờ đó, vẫn bộ đồ màu xanh da trời và da cam cùng đôi giày Nike cũ mèm.

      Địa điểm thuận tiện nhất cách nhà hai dặm rưỡi, lưng chừng ngọn đồi , xa điểm vòng trở về của cho lắm. Sau hai mươi phút chạy, Danilo lên tới đỉnh đồi, sớm hơn bình thường ít giây. chạy nhanh hơn, vì lý do nào đó. Có thể là do những đám mây.

      chiếc xe bị xẹp lốp dừng chắn ngang đường, cốp sau xe mở toang, đuôi xe được kích nâng lên. Lái xe là gã đàn ông to con, có vẻ như giật mình vì xuất của cái người vừa chạy vừa thở hồng hộc kia. Danilo chậm bước lại trong giây. Phía bên phải có lối rộng hơn.

      “Xin chào,” gã đàn ông to con kia vừa vừa bước lại phía Danilo.

      “Xin chào” Danilo đáp, vẫn tiến lại phía chiếc xe.

      Gã lái xe bất chợt rút khẩu súng to tướng ra khỏi cốp xe và chĩa vào mặt Danilo. sững lại, mắt dán vào khẩu súng, miệng vẫn há ra để thở. Đôi tay lực lưỡng của gã lái xe tóm lấy cổ và đẩy dúi dụi về phía chiếc xe rồi ghì xuống cái bađờxốc. Gã nhét súng vào túi và dùng hai tay gập người Danilo lại, ấn vào trong cốp xe. Danny Boy giẫy giụa nhưng ăn thua gì.

      Gã lái xe sập nắp cốp, quay kích hạ chiếc xe xuống, ném cái kích ra bên đưòng rồi cho xe vọt . Được dặm, gã rẽ vào con đường đầy bụi bặm, nơi các đồng của gã sốt ruột chò đợi.

      Họ trói hai tay Danny Boy bằng dây nilông, dùng mảnh vải đen bịt mắt và rồi đẩy lên đằng sau chiếc xe van. Osmar ngồi bên phải , người Braxin ngồi bên trái. người khác lấy ra chùm chìa khóa đeo ở cạp quần . Danilo hề mở miệng khi chiếc xe bắt đầu lăn bánh. Mồ hôi vẫn túa ra và thở còn mạnh hơn lúc chạy.

      Khi chiếc xe dừng lại con đường đất gần cánh đồng, Danilo mới lần đầu tiên cất tiếng. “Các muốn gì?” hỏi bằng tiếng Bồ Đào Nha.

      “Im ,” Osmar đáp bằng tiếng . chàng người Braxin ngồi bên trái Danilo lấy ra chiếc xilanh từ cái hộp bằng kim loại và hút đầy vào đó thứ chất lỏng. Osmar kéo hai cổ tay về phía mình trong khi chàng kia chọc kim tiêm vào phía cánh tay của Danilo cứng người lên, cố vùng vẫy nhưng rồi hiểu ra là có hy vọng gì. Người lỏng ra khi giọt thuốc cuối cùng được bơm vào thân thể. Nhịp thở của chậm lại và cái đầu bắt đầu chúi xuống. Khi cằm chạm vào ngực, Osmar nhàng dùng ngón tay trỏ kéo gấu quần soóc của lên chút và thấy điều mà ta chờ đợi. Nước da trắng nhợt.

      Việc tập chạy làm cho gầy bớt và cũng làm cho có nước da màu nâu.

      Những vụ bắt cóc là quá quen thuộc ở cái vùng biên này. Người Mỹ thường dễ là những mục tiêu. Nhưng vì sao lại là ? Danilo tự hỏi trong khi đầu trĩu xuống và mắt khép lại, trước khi hoàn toàn lịm .

      Họ nhét xuống phía dưới những chiếc thùng cáctông đựng đầy dưa và quả dâu. Đám lính biên phòng gật đầu mà thèm cả rời khỏi ghế, và lúc này Danny Boy đất Paragoay, tất nhiên, vẫn hề biết gì cả. Người chao chao lại sàn xe trong khi đường mỗi lúc trở nên xấu hơn và nhiều dốc hơn. Osmar liên tục đốt thuốc và thỉnh thoảng lại chỉ trỏ này nọ. Sau giờ kể từ lúc tóm , họ đến được chỗ rẽ cuối cùng. Đó là căn nhà trong hẻm núi khó mà có thể nhìn thấy được từ ngoài con đường bụi bặm kia. Họ mang xuống như cái bao thịt và đặt lên chiếc bàn ở trong nhà, và Guy cùng chuyên gia vân tay bắt đầu vào việc.

      Danny Boy vẫn ngáy như sấm trong khi người ta lấy dấu tay . Những người Mỹ và người Braxin quây lại xung quanh nhìn chằm chặp từng động tác. Trong cái thùng đặt bên cửa có chai uytxki chưa mở, để uống mừng, nếu đây đúng là Danny Boy.

      Tay chuyên gia vân tay đột ngột bỏ sang căn phòng ở phía sau, chốt cửa lại và trải những dấu vân tay mới ra trước mặt. Ông ta chỉnh lại ánh sáng và rồi lôi ra bộ vân tay mẫu của Danny Boy được lấy từ hồi còn trẻ hơn nhiều và xin vào Hội luật gia tiểu bang Louisiana.

      Cả hai bộ đều ở trong tình trạng tốt và ngay lập tức có thể thấy là chúng hoàn toàn trùng khớp với nhau. Tuy nhiên, ông ta vẫn cẩn thận kiểm tra lại cả mười ngón. vội vã gì. Cứ để bọn họ đợi ngoài đó, ông ta cảm thấy khoan khoái cái giây phút này. Sau cùng, ông ta mở cửa và nghiêm nghị nhìn vào cả hơn chục gương mặt nhìn mình chờ đợi. Thế rồi, ông ta mỉm cười. “Đúng là ,” ông ta bằng tiếng , và cả bọn vỗ tay ầm lên.

      Guy cho phép uống rượu, nhưng chỉ ở mức vừa phải. Còn có việc phải làm. Danny Boy, vẫn còn hôn mê, được tiêm cho mũi nữa và bỏ vào trong căn phòng ngủ hề có cửa rả gì ngoài cánh cửa ra vào nặng trịch được khóa từ bên ngoài. Ngay tại đó, bị thẩm vấn, và tra tấn, nếu cần thiết.

      Những đứa trẻ để chân đất đá bóng hè phố quá mải mê với trận đấu của chúng và chẳng thèm để ý gì đến ai. Chùm chìa khóa của Danny Boy chỉ có bốn chiếc và bởi vậy cánh cổng dược mở ra cách nhanh chóng và để ngỏ ở đó. gã trong bọn chờ sẵn trong chiếc xe thuê đậu dưới bóng cây lớn cách đó bốn ngôi nhà. gã khác, chiếc môtô, chờ ở cuối phố và luôn ở tư thế sẵn sàng.

      Nếu hệ thống bảo vệ báo động về vụ đột nhập, kẻ đột nhập dễ dàng biến mất, còn nếu tha hồ ở trong đó mà lục lọi.

      Cánh cửa vào nhà được mở ra mà gây nên báo động nào. Bảng điều khiển của hệ thống bảo vệ gắn ngay tường cho thấy hệ thống bị ngắt. Gã thở và đứng im phút trước khi bắt đầu di quanh. Gã tháo cái ổ cứng khỏi chiếc máy tính cá nhân của Danny Boy, và lượm lặt tất cả những cái đĩa. Gã lục lọi đống hồ sơ bàn nhưng thấy gì ngoài những hóa đơn thông thường, cái được thanh toán, cái chưa. Chiếc máy facx là loại rẻ tiền và quá thường, thoáng trông cũng biết ngay là hỏng. Gã chụp ảnh đám quần áo, thức ăn, đồ đạc, tủ sách và cả cái giá để tạp chí.

      Năm phút sau lúc cánh cửa vào nhà bị mở ra, tín hiệu câm được kích hoạt từ căn phòng áp mái của Danilo và cú điện thoại được tự động gọi đến hãng bảo vệ tư nhân nằm cách dó mười khúc phố, ở khu trung tâm Ponta Porã. Cú điện thoại này được đáp lại bỏi lẽ tay trực ban của hãng lại nằm đu đưa chiếc võng mắc ở sân sau. Mẩu thông tin xuất phát từ ngôi nhà của Danilo được tự động ghi lại và báo cho ngưòi nghe nó biết rằng vụ đột nhập. Mười lăm phút sau đó mới có người nghe được thông tin này và cho đến khi tay trực ban lao đến nhà Danilo kẻ đột nhập biến mất. thấy ông Silva đâu. Mọi thứ vẫn có vẻ như đâu vào đấy, kể cả chiếc Beetle trong nhà xe, cửa nhà lẫn cánh cổng đều được khóa.

      Các chỉ dẫn trong hồ sơ là rất cụ thể. Với những cú báo động như vậy, gọi cảnh sát. Trước tiên là tìm cách liên lạc với ông Silva, và trong trường hợp thể tìm ngay được gọi số điện thoại ở Rio - Xin gặp Eva Miranda.

      Với phấn khích khó dằn xuống nổi, Guy gọi cú điện thoại thường ngày của ta về Oasinhtơn. Thực ta nhắm mắt và mỉm cười khi thốt lên, “Đúng là .”

      Đầu kia ngừng lại đôi chút và câu hỏi, “ chắc chứ ?”

      “Vâng. Vân tay hoàn toàn khớp.”

      thoáng ngừng nữa trong khi Stephano sắp xếp các ý nghĩ của lão, điều thường chỉ diễn ra trong vài phần triệu giây. “Còn tiền ?”

      “Chúng tôi chưa bắt tay vào việc đó. còn chưa tỉnh.”

      “Khi nào ?”

      “Đêm nay.”

      “Tôi chờ.” Stephano gác máy, mặc dù lão có thể cả vài tiếng đồng hồ.

      Guy ngồi xuống gốc cây to ở phía sau căn nhà. Cây cối xung quanh rậm rạp, bầu khí thoáng đãng và mát mẻ. Những giọng hồ hởi của những con người vui vẻ vang tới tai ta. Phần lớn công việc kết thúc.

      Guy kiếm dược thêm năm mươi nghìn đôla. Tìm ra chỗ tiền có nghĩa là thêm khoản nữa, và ta tin chắc là tìm thấy.

      John Grisham

      Đồng Đạo


      Chương 2

      T rung tâm Rio.

      Trong văn phòng gọn tầng mười của ngôi nhà cao tầng, Eva Miranda nắm chặt chiếc điện thoại bằng cả hai tay và chậm rãi nhắc lại những lời mà nàng vừa được nghe. Cú báo động bí mật dẫn tới diện của nhân viên bảo vệ. Danilo Silva có nhà, nhưng xe của vẫn ở đó và cửa nhà vẫn khóa.

      Có ai đó vào nhà, và đó thể là cú báo động nhầm bởi vì hệ thống bảo vệ vẫn hoạt động khi người của hãng bảo vệ tới.

      Còn Danilo vẫn bặt vô tín.

      Có lẽ là ta chạy và quên mất cái việc phải làm thường lệ. Theo báo cáo của nhân viên bảo vệ cú báo động bí mật kia được kích hoạt cách đó giờ mười phút. Nhưng Danilo chỉ chạy chưa đầy giờ - sáu dặm với tốc độ bảy đến tám phút dặm, tối đa là năm mươi phút. có ngoại lệ. Nàng biết lắm.

      Nàng gọi về nhà ở phố Tiradentes, có ai trả lời. Nàng gọi vào chiếc máy di dộng mà đôi khi giữ ở bên mình,cũng có ai nhận.

      Cách đây ba tháng, vô tình ngắt hệ thống bảo vệ và vụ đó làm cho cả hai bị phen sợ hãi. Thế nhưng cú điện thoại ngắn gọn là đủ dể làm sáng tỏ vấn đề.

      rất thận trọng với hệ thống bảo vệ và thể nào cẩu thả được. Bỏi nó quá quan trọng.

      Nàng lại phôn cú nữa, và kết quả vẫn thế. Nàng tự nhủ chắc phải có lý do nào đó cho chuyện này.

      Nàng quay số máy của cái căn hộ ở Curitiba, thành phố có triệu rưỡi dân cư, và là thủ phủ của bang Paraná. Theo hai người chỉ có họ biết với nhau về căn hộ này. Nó được thuê dưới cái tên khác, được dùng làm nhà kho và cho những cuộc gặp lúc này lúc khác. Đôi khi họ nghỉ cuối tuần ở đó, nhưng đủ thường xuyên để làm vừa lòng Eva.

      Nàng chờ đợi câu trả lời từ căn hộ này, và quả nhiên là thế. Danilo tới đó mà lại báo cho nàng biết trước.

      Sau khi gọi tất cả những số máy có thể, nàng bước ra khóa cửa phòng, đứng dựa vào cánh cửa, mắt nhắm lại, vẫn có thể nghe thấy tiếng các cộng và các thư ký ở bên ngoài. Hãng luật này có ba mươi ba luật sư, là hãng lớn thứ hai ở Rio, với chi nhánh ở São Panlo và chi nhánh ở New York. Tiếng điện thoại, tiếng máy fax, máy photocopy hòa quyện vào nhau như thể dàn đồng ca.

      Ở tuổi ba mươi mốt, nàng là cộng đầy kinh nghiệm của hãng; quá quen thuộc với những giờ làm việc kéo dài và cả vào những ngày thứ bảy. Hãng thuộc về mười bốn cổ đông nhưng chỉ có hai trong số đó là phụ nữ, và nàng có những kế hoạch để thay đổi tỉ lệ đó. Mười trong số mười chín người cộng là phụ nữ, điều cho thấy là ở Braxin, cũng như ở Mỹ, phụ nữ thích thú vào nghề này. Nàng học luật tại Đại học Thiên chúa giáo ở Rio, trong những trường khá tốt, theo ý nàng. Cha nàng vẫn giảng dạy triết học ở đó.

      Ông kiên quyết đòi nàng theo học luật ở Đại học Georgetown sau khi học xong luật ở Rio. Ông rất mê tín trường này. Uy tín của ông, cùng với những bài viết đầy ấn tượng, vẻ đẹp choáng váng và thứ tiếng thuần thục của nàng khiến cho việc tìm chỗ làm tốt nhất ở hãng hàng đầu trở nên khá dễ dàng.

      Nàng dừng lại bên cửa sổ và tự nhủ mình bình tĩnh. Thời giờ đột nhiên trở nên cấp bách. Hàng loạt bước sắp tới đòi hỏi bộ óc vững vàng. Rồi nàng cũng phải biến . Có cuộc hẹn sau ba mươi phút nữa, nhưng nó phải được hoãn lại.

      Tập hồ sơ đó được khóa chặt trong cái ngăn chống cháy . Nàng lấy nó ra và đọc lại bản chỉ dẫn; những chỉ dẫn mà nàng và Danilo rà lại nhiều lần.

      biết là họ tìm ra .

      Eva cố tình nghĩ tới khả năng này.

      Đầu óc nàng nghĩ lan man trong nỗi lo lắng cho an toàn của . Chuông điện thoại vang lên làm nàng giật mình.

      phải Danilo. Thư ký của nàng báo là có khách hàng đợi. Vị khách này đến hơi sớm.

      Nàng cầu xin lỗi khách, khất cái hẹn khác và đề nghị làm phiền nàng nữa.

      Số tiền đó được để ở hai nơi: nhà băng ở Panama, và công ty tài chính hải ngoại ở Bermuda. Bản fax đầu tiên của nàng cầu chuyển ngay tiền ra khỏi Panama, tới nhà băng ở Antigua. Bản fax thứ hai chia số tiền này vào ba nhà băng ỏ Grand Cayman. Bản thứ ba chuyển tiền từ Bermuda tới Bahamas.

      Lúc này là gần hai giờ ở Rio. Các nhà băng châu u đóng cửa, bởi vậy nàng buộc phải chuyển tiền loanh quanh ở vùng Caribê trong ít giờ tới cho đến khi các nhà băng khác thế giới mở cửa.

      Những chỉ dẫn của Danilo khá ràng nhưng cũng rất chung chung. Các chi tiết được để tùy ý nàng. Những vụ chuyển tiền đầu tiên là do Eva quyết định. Nàng tính để nhà băng nào được nhận bao nhiêu tiền. Nàng lập danh sách các công ty ma để giấu tiền dưới những cái tên đó; danh sách mà Danilo chưa bao giờ nhìn thấy. Nàng chia ra, nhập vào, tính toán các ngả chuyển tiền. Đó là bài tập mà họ nhiều lần ôn lại, nhưng chưa bao giờ có tình huống cụ thể.

      Danilo thể biết tiền được chuyển đâu. Chỉ nàng biết. Nàng là người có đầu óc mê say trong lĩnh vực này và vào lúc này, trong hoàn cảnh này, nàng quyết định chuyển tiền vì thấy đó là việc thích hợp. Chuyên môn của nàng là luật thương mại. Hầu hết các thân chủ của nàng đều là các nhà doanh nghiệp Braxin. những người muốn đẩy mạnh xuất khẩu sang Mỹ và Canada. Nàng hiểu biết về thị trường, tiền tệ và hoạt động ngân hàng của nước ngoài. Cái mà nàng biết là việc chuyển tiền lòng vòng quanh thế giới lại do Danilo dạy nàng.

      Nàng liên tục nhìn đồng hồ. Hơn giờ qua kể từ lúc có cú điện thoại từ Ponta Porã.

      Trong khi bản fax từ trong máy trườn ra chuông điện thoại lại vang lên. Sau cùng chắc chắn đó phải là Danilo, với câu chuyện điên rồ nào đó và tất cả chuyện này đều là vớ vẩn cả. Có lẽ chỉ là cuộc tập dượt để kiểm tra khả năng xử lý của nàng trong điều kiện phải chịu sức ép. Thế nhưng, đâu phải thứ người đùa cợt.

      Hóa ra là trong số các cổ đông của hãng, phiền lòng về việc nàng lại chậm trễ với cuộc gặp nữa. Nàng xin lỗi với những lời lẽ ngắn gọn và trở lại bên chiếc máy fax.

      Sức ép tăng lên với từng phút trôi qua, vẫn hề có tin tức gì từ Danilo. Các cú phôn liên tục của nàng đều được trả lời. Nếu thực là họ tìm được họ chẳng chịu chờ lâu để bắt phải mở miệng. Đó là điều mà sợ nhất. Đó cũng là lý do vì sao nàng phải cao bay xa chạy.

      giờ rưỡi trôi qua. đè nặng lên đôi vai nàng. Danilo mất tích, và bao giờ đâu mà gọi báo cho nàng trước. tính toán những di chuyển rất thận trọng, luôn luôn sợ bị bám theo. Giờ đây cơn ác mộng khủng khiếp nhất của họ trở thành .

      Tại buồng điện thoại công cộng dưới gian đại sảnh của tòa nhà, Eva gọi hai cú. Cú thứ nhất là cho người quản lý nhà để xem có ai tới căn hộ của nàng ở Leblon, khu Nam Rio, nơi mà những ngưòi giàu có sinh sống và những người đẹp lui tới chơi bời. Câu trả lời là , nhưng người quản lý để mắt tới mọi chuyện. Cú thứ hai là tới văn phòng của Cục điều tra Liên bang Mỹ (FBI) ỏ Biloxi, Mississippi. Bằng giọng bình thản nhất có thể được cùng với cố gắng nhất để thứ tiếng của người Mỹ, nàng giải thích rằng có chuyện khẩn cấp. Nàng chờ đợi, biết rằng từ giây phút này trở thể nào còn quay lại được nữa.

      “Xin chào,” tiếng vang lên như thể chỉ cách có góc phố vậy.

      “Nhân viên dặc biệt Joshua Cutter phải ?”

      “Phải"

      Nàng thoáng dừng lại. “Có phải ông phụ trách vụ Patrick Lanigan ?” Nàng biết là đúng như vậy.

      Phía đầu dây kia ngập ngừng. “Phải. Ai vậy ?"

      Họ lần theo cú điện thoại này tới Rio, và điều đó phải mất chừng ba phút. Rồi việc tìm kiếm của họ chìm ngập trong cái thành phố mười triệu dân này. Thế nhưng, nàng vẫn nhìn quanh sợ hãi.

      “Tôi gọi từ Braxin,” nàng theo kịch bản có sẵn. “Họ bắt Patrick.”

      “Ai hả ?” Cutter hỏi.

      “Tôi cho ông cái tên.”

      “Tôi nghe đây,” Cutter , giọng ông ta đột nhiên trở nên khẩn trương.

      “Jack Stephano. Ông có biết ?”

      thoáng dừng trong khi Cutter cố ghi lại cái tên. “. Ông ta là ai thế ?.”

      thám tử tư ở Oasinhtơn. ông ta săn lùng Patrick suốt bốn năm qua.”

      “Và bà là ông ta tìm ra phải ?”

      "Đúng vậy. Người của ông ta tìm thấy .”

      “Ở đâu?”

      “Ở đây. Braxin.”

      “Khi nào?”

      “Hôm nay. Và tôi nghĩ là họ giết mất.”

      Cutter cân nhắc điều này trong giây, rồi hỏi tiếp, “Bà có thể cho tôi biết thêm gì nữa ?”

      Nàng cho ông ta số điện thoại của Stephano ở Oasinhtơn D.C, rồi gác máy và rời khỏi tòa nhà.

      Guy thận trọng lật từng trang giấy tờ thu được từ nhà của Danny Boy, và kinh ngạc vì chẳng hề thấy dấu vết gì. thông báo hàng tháng của nhà băng địa phương liệt kê bảng thanh toán chừng ba nghìn đôla, hề mảy may là điều họ trông đợi. Khoản tiền gửi duy nhất là nghìn tám trăm đôla, các khoản vào bên có trong tháng chưa đầy nghìn. Danny Boy sống hoàn toàn thanh đạm. Các hóa đơn tiền điện và điện thoại của chưa trả nhưng chưa quá hạn. Chừng chục hóa đơn các khoản khác được đánh dấu trả.

      trong số những người của Guy kiểm tra tất cả các số điện thoại trong danh sách của Danny Boy nhưng tìm được điều gì hấp dẫn cả. người khác rà soát lại cái ổ cứng của chiếc máy tính của và nhanh chóng thấy rằng Danny Boy phải là tay trộm điện tử cao siêu gì. Có bài viết dài về những cuộc phiêu lưu của ở vùng rừng rậm Braxin.

      Câu chuyện mới nhất cách đây gần năm.

      Nhưng chính việc có rất ít giấy tờ thế này lại là điều rất đáng ngờ. Chỉ có thông báo của nhà băng thôi ư ? đời này làm gì có ai lại giữ có mỗi bản thông báo mới nhất của nhà băng ở trong nhà? Tháng trước sao? Danny Boy phải có cái kho đâu đó, cách xa nơi ở của . Điều đó hoàn toàn phù hợp với kẻ phải trốn tránh.

      Vào lúc chập tối Danny Boy, vẫn còn bất tỉnh, bị lột hết quần áo, chỉ trừ lại có đồ lót. Đôi giày chạy bẩn thỉu cùng đôi tất đẫm mồ hôi được lột ra, làm lộ đôi chân hoàn toàn trắng trẻo. Nước da màu sẫm mới của chỉ là thứ của rởm. được đặt nằm lên tấm ván mỏng chừng ba phân ngay cạnh chiếc giường. tấm ván khoét sẵn những cái lỗ, và cổ tay, cổ chân bị trói ghì xuống tấm ván bằng những sợi dây nilông. dải băng keo đen sì giữ chặt ngang trán . cái túi kiểu để tiếp nước được treo lủng lẳng ngay phía mặt , với cái ống dẫn ngoằn nghèo được trích vào ven ở cổ tay trái.

      giật nảy người vì mũi tiêm nữa; mũi tiêm này là để đánh thức dậy. Tiếng thở nặng nhọc của trở nên nhanh hơn và rồi mở cặp mắt đỏ lừ, thất thần, nhìn hồi lâu vào cái túi. Tay bác sĩ người Braxin vào cuộc, và hề lời, chọc kim vào cánh tay trái của Danny Boy. Đó là thứ chất kích thích đôi khi được dùng để buộc người ta phải . Nó rất có hiệu quả khi mà đối tượng có điều gì đó phải thú nhận.

      Mười phút trôi qua. cố ngoái đầu, nhưng được. chỉ nhìn được sang mỗi bên chút ít. Căn phòng tối om trừ ngọn đèn đâu đó ở phía sau .

      Cánh cửa mở ra rồi khép lại. Guy mình bước vào. ta thẳng tới chỗ Danny Boy, đặt tay lên mép tấm ván và lên tiếng, “Xin chào, Patrick.”

      Patrick nhắm mắt lại. Giờ đây còn Danilo Silva nữa, mãi mãi còn. người bạn cũ thân thiết còn nữa, vậy đó. Cuộc sống đơn giản phố Tiradentes nhạt nhòa cùng với Danilo; mai danh tích của cũng biến mất cùng với cái lời chào kia.

      Trong bốn năm qua, thường mường tượng cái cảm giác khi họ tóm được . Liệu đó cảm giác được giải thoát ? Hay công lý ? Liệu có chút cảm giác hồi hộp như sắp được trở về nhà ngồi nghe nhạc ?

      Dứt khoát là . Lúc này, Patrick hoàn toàn khiếp sợ. Gần như trần truồng và bị trói ghì xuống như con vật. biết mình thể nào chịu nổi mấy giờ đồng hồ sắp tới.

      " có nghe thấy tôi , Patrick ?” Guy cúi xuông hỏi. và Patrick mỉm cười, phải là vì muốn cười mà là bởi vì cái cảm giác buồn cười nào đó mà thể nào kiềm chế được.

      Guy nhận thấy rằng liều thuốc bắt đầu có công hiệu. Đó là thứ chất kích thích phải được dùng rất đúng liều lượng. Cực kỳ khó khăn để xác định mức tỉnh táo thích hợp cho cuộc thẩm vấn. liều quá sức kháng cự của đối tượng bị bẻ gãy. Hơi quá chút đối tượng lập tức ngất .

      Cánh cửa mở ra rồi lại khép vào. người Mỹ nữa bước vào phòng để nghe, nhưng Patrick thể nhìn thấy người đó “ ngủ ba ngày rồi, Patrick,” Guy . Thực ra mới chỉ gần năm giờ, nhưng làm sao mà Patrick có thể biết được điều đó. “ có đói hay khát đấy?”

      “Khát,” Patrick đáp.

      Guy mở nắp chai nước khoáng và cẩn thận kê vào miệng Patrick.

      “Cảm ơn,” , rồi mỉm cười.

      có đói ?” Guy hỏi lại.

      . muốn gì?”

      Guy chậm rãi để chai nước khoáng lên mặt bàn và kề gần lại khuôn mặt Patrick. “Hãy giải quyết chuyện này trước , Patrick. Trong khi ngủ, chúng tôi lấy dấu vân tay của . Chúng tôi biết chính xác là ai. bởi vậy chúng ta có thể bỏ qua chuyện loanh quanh ban đầu được chứ?”

      “Tôi là ai?” Patrick hỏi với nụ cười ngơ ngẩn.

      “Patrick Lanigan.”

      “Từ đâu tới?”

      “Biloxi, Mississippi. Sinh ra ở New Orleans. Học luật ở Tulane. Có vợ, con sáu tuổi. Mất tích bốn năm nay.”

      “Tuyệt vời. Đúng là tôi.”

      , Patrick, chứng kiến tang lễ của chính mình phải ?”

      “Đó là tội ư?”

      . Người ta đồn vậy.”

      “Phải. Tôi chứng kiến. Tôi xúc động với buổi tang lễ đó. biết rằng mình có nhiều bạn đến thế.”

      “Hay lắm. lánh mặt ở đâu sau đó.”

      “Chỗ này chỗ khác.”

      cái bóng xuất từ phía bên trái và bàn tay đưa ra điều chỉnh chiếc van ở đáy cái túi. “Gì thế?” Patrick hỏi.

      thằng cha vớ vẩn,” Guy đáp, hất hàm về phía người đàn ông lại đứng lùi về phía góc phòng.

      “Chỗ tiền đó đâu, Patrick?” Guy hỏi với nụ cười.

      “Tiền nào ?”

      “Chỗ tiền mà cuỗm ấy.”

      “Ồ, chỗ tiền đó,” Patrick và thở dài. Mắt đột nhiên nhắm lại và thân thể mềm ra. Vài giây trôi qua và lồng ngực phập phồng chậm lại.

      “Patrick,” Guy gọi, nhàng lay cánh tay . có phản ứng, chỉ có tiếng thở của giấc ngủ sâu.

      Liều lượng thuốc được giảm xuống ngay lập tức, và họ chờ đợi.

      Hồ sơ của FBI về Jack Stephano khá ngắn gọn; cựu thám tử ở Chicago với hai bằng về lĩnh vực tội phạm học, tay cao giá trong nghề săn lùng những kẻ tội phạm để lĩnh thưởng, tay súng nhà nghề, bậc thầy trong lĩnh vực tìm kiếm và gián điệp, và là chủ hãng có vẻ mờ ám ở Oasinhtơn D.c chuyên tìm kiếm những người mất tích và tiến hành các hoạt động theo dõi với giá rất cao.

      Hồ sơ của FBI về Patrick Lanigan được chứa đầy trong tám cái thùng. Chuyện nọ liên quan tới chuyện kia. thiếu gì người muốn moi ra Patrick và điệu trở về. Stephano được thuê làm công việc đó.

      Hãng của Stephano, mang tên Edmund Associates, nằm tầng thượng của tòa nhà có gì nổi bật ở phố K, cách Nhà Trắng sáu khúc phố. Hai nhân viên đặc biệt đứng chờ dưới đại sảnh, bên cửa thang máy trong khi hai người khác ập vào văn phòng của lão. Họ suýt phải ẩu đả với tay thư ký lực lưỡng, kẻ khăng khăng rằng Stephano rất bận. Họ thấy lão ở bàn làm việc riêng, mình, và chuyện trò vui vẻ điện thoại. Nụ cười của lão vụt tắt khi họ ập vào với những tấm thẻ chìa ra.

      “Chuyện quái gì vậy !” Stephano quát lên. Bức tường sau bàn làm việc của lão là cả tấm bản đồ thế giới rất chi tiết, với những chấm đỏ bé xíu nhấp nháy những lục địa màu xanh lá cây. Cái chấm nào là Patrick?

      “Ai mướn ông tìm Patrick Lanigan hả?” trong hai nhân viên đặc biệt lên tiếng hỏi.

      “Đó là điều phải được giữ kín,” Stephano cười khẩy. Lão từng là cảnh sát kỳ cựu và dễ bị dọa nạt.

      “Chiều nay chúng tôi nhận được cú diện thoại từ Braxin,” người thứ hai .

      Ta cũng vậy, Stephano nghĩ, hơi giật mình nhưng cố giữ vẻ bình thản. Đầu lão lướt nhanh qua các giả thuyết có thể về diện của hai tay cớm này. Lão dã chuyện với Guy, ngoài ra có ai khác. Guy hoàn toàn tin cậy. Guy bao giờ hé chuyện với ai, nhất là với FBI. thể là Guy dược.

      Guy sử dụng điện thoại di động để gọi từ vùng núi miền đông Paragoay. thể nào có chuyện cú điện thoại đó bị nghe lén.

      “Ông vẫn nghe đấy chứ ?” Tay nhân viên thứ hai hỏi cách tinh quái.

      "Hừm, lão đáp, nghe mà nghe."

      “Patrick ở đâu?” Tay nhân viên đầu tiên hỏi.

      “Có lẽ là ở Braxin.”

      “Chỗ nào ở Braxin ?”

      Stephano nhún vai cách thẳng thừng. “Tôi biết. Đó là đất nước rộng lớn.”

      “Chúng tôi có lệnh bắt ,” tay nhân viên đầu tiên . “ thuộc về chúng tôi.”

      Stephano lại nhún vai, lần này với vẻ bình thường hơn, như thể lão muốn , “Quan trọng nhỉ?”

      “Chúng tôi muốn có ,” tay nhân viên thứ hai quát lên. “Và ngay bây giờ.”

      “Tôi thể giúp các ông được.”

      “Ông dối,” tay nhân viên đầu tiên gầm lên, và cả hai người bọn họ áp sát tới trước mặt bàn, cùng nhìn chằm chặp vào lão. Tay nhân viên thứ hai tiếp. “Chúng tôi có người ở dưới nhà, ở bên ngoài, ở góc phố, ở quanh nhà ông tại Falls Church. Chúng tôi để mắt tới mọi bước của ông từ lúc này trở cho đến khi tóm được Lanigan.”

      “Được thôi. Giờ các ông có thể .”

      “Và đừng có làm đau đớn, hả? Chúng tôi sẵn lòng kiếm chuyện với ông nếu có bất kỳ điều gì xảy ra với đấy.”

      Họ từ tốn ra và Stephano khóa ngay cửa lại. Phòng làm việc của lão có cửa sổ. Lão đứng trước tấm bản đồ thế giới. Braxin có ba chấm đèn đỏ, điều mấy có ý nghĩa. Lão chậm rãi lắc đầu, với vẻ hoàn toàn bối rối.

      Lão tiêu tốn bao nhiêu thời gian và tiền bạc cho việc che giấu hành tung của mình.

      Trong số giới nhất định, hãng của lão đứng vào hàng đầu trong việc nhận tiền và biến mất vào bóng tối. Chưa bao giờ lão bị bắt. Chưa bao giờ có ai biết Stephano giở trò với ai.

      John Grisham

      Đồng Đạo


      Chương 3

      M ột mũi tiêm nữa để đánh thức . Rồi mũi khác để tăng độ nhạy cảm cho hệ thần kinh.

      Cánh cửa được mở toang ra và căn phòng đột ngột bừng sáng, ồn ào tiếng người này nọ. Guy đưa ra những mệnh lệnh và ai đó lầu bầu bằng tiếng Bồ Đào Nha.

      Patrick mở mắt, rồi nhắm lại ngay. Rồi mở hẳn mắt ra khi những liều thuốc kia bắt đầu có công hiệu. Họ ào đến bên , sục sạo ngưòi . Chiếc quần lót của bị xé toang và nằm đó, trần trụi. lưõi dao cạo điện bắt đầu chạy xè xè, nhoi nhói da thịt . cắn chặt môi và nhăn mặt, tim đập thình thịch, mặc dù đau đớn chưa bắt đầu.

      Guy cúi xuống, tay vẫn để yên nhưng mắt ta quan sát tất cả.

      Patrick hề cố mở miệng, nhưng để bảo đảm an toàn, thêm những bàn tay nữa xuất dải băng keo lớn được dán kín lên miệng . Những cực điện lạnh lẽo dược gắn vào những phần thân thể dược cạo nhẵn nhụi, và nghe ai đó to tiếng hỏi về “cường độ dòng điện”. Băng keo được dán đè lên những cực điện. nghĩ là đếm được tám cái áp lên da thịt . Có thể là chín. Thần kinh căng thẳng. Trong bóng tối, có thể cảm thấy những bàn tay sờ lần người mình. Những mảnh băng keo dán rất chặt.

      Hai hoặc ba người đàn ông bận rộn trong góc phòng, điều chỉnh thiết bị mà Patrick nhìn thấy được. Những sợi dây điện chạy ngoằn nghèo thân thể như thể người ta trang trí cây thông Nôen vậy.

      Họ giết , cố tự nhủ, mặc dù cái chết có thể ập tới vào bất cứ lúc nào trong mấy giờ đồng hồ tới. mường tượng cơn ác mộng này cả nghìn lần trong bốn năm qua. cầu nguyện để điều này đừng bao giờ xảy ra, nhưng luôn biết rằng nó tới. luôn biết rằng họ ở đâu đó trong bóng tối, lần theo các dấu vết, bỏ tiền ra để mua chuộc, tìm kiếm từng ngóc ngách.

      Patrick luôn biết. Eva quá ngây thơ.

      nhắm mắt, cố thở đều và kiểm soát các suy nghĩ của mình. Những liều thuốc kia làm cho nhịp tim của tăng nhanh và da thịt ngứa ngáy.

      Tôi biết chỗ tiền đó ở đâu. Tôi biết chỗ tiền đó ở đâu. gần như hét to lên. Nhưng dải băng keo bịt kín miệng .

      thường gọi Eva trong khoảng từ 4 dến 6 giờ chiều. Hàng ngày, cả bảy ngày trong tuần. có ngoại lệ, trừ trường hợp được dự liệu trước. Trong thâm tâm mình, biết rầng lúc này nàng chuyển tiền , rằng nó được cất giấu an toàn ở hàng chục nơi lòng vòng thế giới. Và biết cụ thể là ở đâu.

      Nhưng liệu họ có tin ?

      Cánh cửa cọt kẹt, và hai hay ba bóng người gì đó rời khỏi căn phòng. Các hoạt động xung quanh tấm ván mà nằm giảm xuống. Rồi tất cả trở nên yên lặng. mở mắt ra và cái túi treo kia biến mất.

      Guv nhìn . ta nhàng gỡ dải băng keo miệng để có thể , nếu như muốn.

      “Cảm ơn,” Patrick .

      Tay bác sĩ người Braxin lại xuất từ phía bên trái và chọc mũi kim vào cánh tay . Cái xilanh khá dài và chứa gì cả ngoài thứ nước có màu, nhưng làm sao mà Patrick có thể biết điều đó?

      “Chỗ tiền đó đâu, Patrick ?” Guy hỏi.

      “Tôi có tiền nào cả,” Patrick đáp. Đầu đau vì bị ghì sát lên tấm ván. Mảnh băng keo tì lên trán nóng rực. cựa quậy mấy tiếng đồng hồ.

      phải , Patrick. Tôi cam đoan là như vậy. vó thể ngay bây giờ, hoặc là sau mười tiếng nữa khi mà nửa sống nửa chết. Tùy ý thôi.”

      “Tôi muốn chết, được chứ ?” Patrick , cặp mát đầy vẻ hãi. Họ giết mình, tự nhủ.

      Guy cầm cái thiết bị , đơn giản, đặt sẵn bên cạnh Patrick và giơ lên trước mặt . Đó là thanh kim loại với đầu được bọc cao su gá cái hộp vuông có hai sợi dây điện chạy ra.

      “Thấy ,” Guy , như thể là Patrick được quyền lựa chọn. “Khi cái thanh này nằm ở phía , mạch điện hở.”

      Guy thận trọng cầm lấy cái đầu bọc cao su bằng hai ngón tay, rồi từ từ hạ nó xuống.

      “Nhưng khi nó di chuyển xuống cái tiếp điểm xíu ỏ đây mạch đóng lại và dòng điện chạy qua dây dẫn tới những cực điện được gắn người .”

      ta dừng thanh kim loại chỉ cách cái tiếp điểm kia có vài xăngtimét. Patrick nín thở. Căn phòng vẫn yên tĩnh.

      có muốn biết điều gì xảv ra khi bị điện giật đây ?” Guy hỏi.

      .”

      “Vậy tiền ở đâu?”

      “Tôi biết. Tôi xin thề đấy.”

      Cúi xuống gần sát mặt Patrick, Guy ấn cái thanh kim loại kia xuống tới tiếp điểm. Cú điện giật xảy ra ngay lập tức và khủng khiếp - da thịt đau xé. Patrick giật nảy người và những sợi dây trói siết chặt thêm. nhắm nghiền mắt, nghiến chặt răng để cố phải hét lên, nhưng chỉ sau vài giây, tiếng thét rùng rợn vang khắp cả ngôi nhà.

      Guy nâng thanh kim loại lên, chờ chốc lát để Patrick lấy lại nhịp thở và mở mắt ra, rồi , “Đó là mức độ đầu tiên, dòng điện có cường độ thấp nhất. Tôi có năm mức và dùng tới cả năm, nếu cần thiết. Tám giây ở mức độ thứ năm giết chết , và tôi sẵn sàng làm điều đó, như biện pháp cuối cùng. nghe đấy chứ, Patrick?”

      Da thịt vẫn còn như bị thiêu đốt suốt từ chân lên tới ngực. Tim còn đập dồn dập và thở dốc.

      nghe đấy chứ?” Guy nhắc lại.

      “Có.”

      “Tình thế của hoàn toàn đơn giản. Cho tôi biết chỗ tiền kia ở đâu và sống để ra khỏi căn phòng này. Cuối cùng, chúng tôi đưa trở lại Ponta Porã, và có thể tiếp tục cuộc sống mà thấy thích hợp với mình. Chúng tôi có ý định báo cho FBI.” Guy ngừng lời và nhứ nhứ cái cần gạt. “Tuy nhiên, nếu từ chối trả lời câu hỏi duy nhất này, chết. hiểu chứ, Patrick?”

      “Hiểu.”

      "Tốt. Tiền ở đâu ?”

      “Tôi thề là tôi biết. Nếu biết tôi ."

      Guy lạnh lùng ấn thẳng thanh kim loại kia xuống, và dòng diện cứa vào da thịt như dòng axít nóng bỏng. “Tôi biết!” Patvick hét lên đau đớn. "Tôi thề là tôi biết.”

      Guy nâng cái thanh kim loại lên, và chờ đợi để Patrick tỉnh lại. Rồi ta bình thản hỏi, "Tiền đâu?"

      “Tôi thề là tôi biết mà.”

      tiếng kêu thét nữa vang lên, lọt qua các cửa sổ để ngỏ của ngôi nhà, vọng vào mãi trong hẻm núi trước khi chìm vào đám cây rừng.

      Cái căn hộ ở Curitiba nằm ở gần sân bay. Eva bảo người lái taxi chờ dưới đường. Nàng để chiếc túi to đựng đồ lại trong cốp xe nhưng mang theo chiếc cặp da cỡ lớn.

      Nàng bằng thang máy lên tầng chín. Lúc này là mười giờ đêm, dãy hành lang tối và im ắng. Nàng từ từ, quan sát tất cả các phía. Nàng mở cửa và nhanh chóng ngắt hệ thống bảo vệ với chiếc chìa khóa khác.

      Danilo có trong phòng, và mặc dù ngạc nhiên nhưng đó vẫn là điều thất vọng. có tin nhắn nào ở máy ghi của điện thoại. hề có dấu hiệu nào về . lo lắng của nàng tăng lên mức độ nữa.

      Nàng thể ở lại lâu, bởi lẽ những người tóm Danilo có thể đường đến đây. Nhưng nàng vẫn rất từ tốn. Căn hộ có cả thảy ba phòng và nàng lần lượt kiểm tra lại từng phòng.

      Các giấy tờ mà nàng cần nằm trong tủ hồ sơ ở phòng làm việc. Nàng mở ba cái ngăn kéo nặng trịch và xếp gọn đám giấy tờ vào trong cái cặp. Số giấy tờ này bao gồm các hồ sơ tài chính, tuy nhiên phải là nhiều so với số tiền người ta truy tìm. Lượng giấy tờ của là tối thiểu. Mỗi tháng, đến đây lần để cất giấu hồ sơ và ít nhất cũng mỗi tháng lần thiêu hủy những giấy tờ cũ.

      Nàng cài lại hệ thống bảo vệ và nhanh chóng ra ngoài. ai chú ý tới nàng cả. Nàng mướn phòng tại khách sạn trong thành phố, gần Bảo tàng Nghệ thuật đương đại. Các nhà băng châu Á mở cửa và lúc này là gần bốn giờ sáng ở Zurich. Nàng lôi ra chiếc máy fax và nối nó vào ổ cắm điện thoại trong phòng. Chiếc giường lập tức bừa bộn những bản chỉ dẫn và những điện chuyển tiền.

      Nàng mệt bã người, nhưng thể nghĩ tới chuyện ngủ. Danilo là họ tới tìm nàng. Nàng thể trở về nhà. Những ý nghĩ của nàng phải là về tiền, mà là về . có còn sống ? Nếu còn phải chịu đựng những gì ? với họ đến đâu, và với cái giá thế nào?

      Nàng lau mắt và bắt đầu thu xếp giấy tờ. có thời gian cho những giọt nước mắt.

      Với trò tra tấn, cái kết quả tốt nhất tới sau ba ngày. Những ý chí bướng bỉnh bị bẻ gãy cách chậm chạp. đau đớn ám ảnh và còn lớn hơn trong khi nạn nhân chờ đợi cuộc hành hạ tiếp theo. Ba ngày, hầu hết các nạn nhân đều suy sụp hoàn toàn.

      Guy có được ba ngày. Tù nhân của ta phải là tù binh chiến tranh mà là công dân Mỹ bị FBI truy nã.

      Vào khoảng nửa đêm, họ để Patrick lại mình trong ít phút để chịu đựng đau đớn và nghĩ về vòng hành hạ sắp tới. Thân thể đầm đìa mồ hôi; người ngợm đỏ lựng vì nóng và vì những cú sốc điện. Máu rỉ ra dưói lớp băng keo ngực , nơi những điện cực được gắn quá chặt và đốt cháy da thịt. ngáp ngáp khí và liếm cặp môi khô nứt. Những sợi dây nilông vẫn siết vào cổ tay và cổ chân.

      Guy quay lại mình và ngồi xuống cái ghế đặt cạnh tấm ván. Trong phút, cả căn phòng yên lặng với thanh duy nhất là tiếng thở của Patrick. Mắt vẫn nhắm nghiền.

      rất bướng bỉnh,” sau cùng, Guy lên tiếng.

      có phản ứng gì.

      Hai giờ đồng hồ đầu tiên mang lại kết quả nào. Tất cả các câu hỏi đều nhằm vào chỗ tiền kia. biết tiền ở đâu, cả trăm lần. Còn chỗ tiền đó ? , lặp lặp lại. Chuyện gì dã xảy ra với chỗ tiền đó ? biết.

      Kinh nghiệm tra tấn của Guy là rất hạn chế. ta tham khảo ý kiến chuyên gia, tay đốn mạt thực thích thú với cái trò này, và đọc bản hướng dẫn khái quát, nhưng thấy rằng việc thực hành khó hơn nhiều.

      Giờ đây, khi mà Patrick biết những trò hành hạ man rợ kia là thế nào điều quan trọng là phải làm cho mở miệng.

      ở đâu khi diễn ra cái lễ tang của chính , hả ?” Guy hỏi.

      Những cơ bắp của Patrick có vẻ hơi được thả lỏng ra chút. Sau cùng câu hỏi về chỗ tiền kia. lưỡng lự và suy nghĩ về điều đó. Có gì hại nào? bị tóm. Câu chuyện của phải được ra. Có lẽ là nếu hợp tác họ thôi tra điện.

      “Ở Biloxi,” .

      “Trốn à ?”

      “Tất nhiên.”

      “Và chứng kiến lễ an táng mình chứ ?" “Phải.”

      “Từ đâu thế?"

      “Tôi ngồi cái cây, với chiếc ống nhòm.” Mắt vẫn nhắm nghiền và hai tay nắm chặt.

      “Sau đó đâu ?”

      “Mobile.”

      “Đó là nơi lẩn trốn à ?”

      “Phải, đó là nơi.”

      trốn ở đó trong bao lâu ?”

      liên tục trong chừng vài tháng.”

      “Lâu thế cơ à ? sống tại đâu ở Mobile?"

      “Những nhà trọ rẻ tiền. Tôi thường xuyên di chuyển. Lên lên xuống xuống vùng Vịnh. Destin. Bãi Panama City. Trở lại Mobile.”

      thay đổi diện mạo của mình.’'

      “Có. Tôi cạo râu, nhuộm tóc, và giảm chừng hơn hai chục cân.”

      có học thứ tiếng nào ?”

      “Tiếng Bồ Đào Nha.”

      “Vậy biết là đến đây ?”

      “Đây là đâu ?”

      “Cứ cho là Braxin .”

      “Phải. Tôi cho rằng đây là nơi tốt để náu.”

      “Sau Mobile đâu ?”

      “Toronto.”

      “Vì sao lại là Toronto?”

      “Sau Mobile đâu ?”

      “Toronto.”

      “Vì sao lại là Toronto?”

      phải đâu đó. Đó là nơi đẹp.”

      kiếm giấy tờ tùy thân mới ở Toronto phải ?”

      “Phải.”

      trở thành Danilo Silva ở Toronto ?”

      “Phải.”

      theo học khóa ngôn ngữ nữa phải ?"

      “Phải.”

      “Làm giảm cân chút nữa chứ ?”

      “Phải. Thêm hơn chục cân nữa.” vẫn nhắm nghiền mắt và cố quên đau đớn, hay ít nhất là cố gượng chịu đựng nó. Những cực điện vẫn nóng ỉ và cứa sâu hơn vào da thịt .

      “Ba tháng."

      "Nghĩa là rời khỏi đó vào khoảng tháng Bảy năm 92 phải ?”

      "Khoảng thế.”

      “Tiếp đó đâu ?”

      “Bồ Đào Nha.”

      “Vì sao lại là Bồ Đào Nha?”

      vẫn phải đâu đó. đất nước đẹp. Chưa bao giờ tới đó cả.”

      ở đó bao lâu?”

      “Vài tháng”

      “Rồi đâu?"

      “São Paulo.”

      "Vì sao lại là São Paulo ?”

      “Hai mươi triệu dân. nơi náu tuyệt vời.”

      ở đó trong bao lâu ?”

      năm.”

      xem làm gì ở đó.”

      Patrick hít hơi sâu và nhăn mặt khi cựa quậy cổ chân. thả lỏng ngưòi ra.

      “Tôi mình trong thành phố đó. Thuê ông thầy và học tiếng cho đến nơi đến chốn. Giảm cân thêm môt ít nữa. Chuyển từ căn hộ bé này sang căn hộ bé khác.”

      làm gì với chỗ tiền đó ?“

      thoáng ngập ngừng. chút căng thẳng. Lại trò tra điện ư ? Tại sao họ thê tiếp tục về cuộc chạy trốn và dẹp chuyện tiền kia nhỉ?

      “Tiền nào ?” hỏi với vẻ tuyệt vọng.

      “Thôi , Patrick. Khoản chín mươi triệu dôla mà đánh cắp từ hãng luật của và các khách hàng của nó.”

      “Tôi rồi. Các nhầm người.”

      Guy đột nhiên quát lớn ra phía cánh cửa. Nó lập tức mở ra và số người Mỹ còn ở ngoài đó ập vào. Tay bác sĩ người Braxin tiêm thêm hai ống thuốc nữa vào tĩnh mạch của Patrick rồi ra. Hai ngưòi đàn ông sẵn sàng bên cái thiết bị ở góc phòng. Chiếc máy ghi được bật lên. Guy đứng bên Patrick vói cái cần gạt trong tay, cáu kỉnh và càng quyết tâm hơn trong việc giết chết nạn nhân nếu chịu .

      “Số tiền được chuyển vào tài khoản hải ngoại của hãng luật của ở Nassau. Chính xác là lúc mười giờ mưòi lăm, giờ miền Đông, ngày 26 tháng Ba năm 1992 — 45 ngày sau cái chết của . ỏ đó, Patrick, trông khỏe mạnh, da rám nắng và giả bộ làm người khác. Chúng tôi có những bức ảnh do hệ thống camera bảo vệ của nhà băng ghi lại. có những giấy tờ giả mạo hoàn hảo. Ngay sau khi được chuyển đến, số tiền này lại được chuyển nhà băng ở Manta. đánh cắp nó, Patrick. Nào, bây giờ nó ở đâu ? ra và được sống.”

      Patrick nhìn Guy lần cuối cùng, và nhìn cái thanh kim loại kia lần nữa, thế rồi nhắm chặt mắt lại, thu hết can đảm, và . “Tôi thề là tôi biết chuyện gì.”

      “Patrick, Pattrick … “

      “Xin đừng làm thế!” nài nỉ. “Xin đừng!"

      “Đây mới chỉ là mức độ thứ hai, Patrick. được nửa đường rồi đấy.” Guy đẩy cần gạt xuống, và nhìn cái thân thể quằn quại.

      Patrick kêu thét lên, còn kiềm chế dược nữa. tiếng kêu khốc liệt và kinh hoàng đến mức Osmar và đám người Braxin ở bên ngoài cũng phải chết sững giây lâu. Họ im bặt trong bóng tối. người trong số họ lầm rầm cầu nguyện.

      Phía ngoài đường, cách đó chừng ba chục mét, người Braxin với khẩu súng trong tay ngồi bên lề đường trông chừng xe cộ qua lại mặc dù khó lòng mà xảy ra chuyện ấy. Nơi có nhà ở gần nhất cũng cách đây vài dặm. ta cũng lầm rầm cầu nguyện khi tiếng kêu thét lại vang lên.

      John Grisham

      Đồng Đạo

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 4

      C ú điện thoại thứ tư hay thứ năm gì đó của những người hàng xóm làm cho bà Stephano phải chú ý, và nó cũng buộc Jack phải với vợ. Ba người đàn ông mặc đồ màu sẫm lảng vảng bên chiếc xe đậu ngoài phố ngay trước cửa nhà họ là các nhân viên FBI. Lão giải thích vì sao họ lại có mặt ở đó. Lão với vợ phần lớn câu chuyện về Patrick, vi phạm nghiêm trọng nghề nghiệp. Bà Stephano bao giờ hỏi han gì.

      quan tâm tới chuyện chồng bà làm gì ở văn phòng. Tuy nhiên, bà có cảm giác khá về điều mà những người hàng xóm có thể nghĩ. Sau cùng đây là Falls Church, và người ta hẳn dị nghị.

      Bà lên giường vào lúc nửa đêm. Jack ngủ ở chiếc xôpha trong căn phòng làm việc, cứ nửa tiếng lại dậy lần để nhìn qua rèm cửa xem họ làm gì ngoài đó. Lão thiếp vào lúc ba giờ sáng, khi chuông cửa réo lên.

      Lão ra mở cửa trong bộ đồ ngủ. Bốn người bọn họ đứng đợi và lão nhận ra ngay trong số đó là Hamilton Jaynes, Phó giám đốc FBI. Nhân vật số hai này ở FBI tình cờ sống ở cách nhà lão có bốn đoạn phố và cùng ở trong câu lạc bộ gôn với lão, mặc dù cả hai chưa bao giờ chạm mặt.

      Lão để họ vào trong căn phòng làm việc rộng thênh thang của mình. Tiếp đó là những lời giới thiệu cứng nhắc. Họ ngồi đó trong lúc bà Stephano xuống trong chiếc áo choàng ngủ, rồi vội vã trở lên khi nhác thấy những người đàn ông trong các bộ đồ màu sẫm.

      Jaynes , thay mặt cho FBI. “Chúng tôi làm việc ngày đêm về vụ Lanigan này. Tin tức tình báo của chúng tôi cho biết ở trong tay ông. Ông có thể xác nhận hoặc phủ nhận chăng ?”

      ,” Stephano đáp, mặt lạnh như tiền.

      “Tôi có trát bắt giữ ông."

      Vẻ mặt hơi thay đổi, Stephano liếc nhìn nhân viên có vẻ mặt dữ dằn khác. “Về tội gì?"

      “Chứa chấp kẻ bị Liên bang truy nã. Cản trở công vụ. Tùy ông gọi thế nào cũng được. Có gì khác nhau đâu ? Tôi quan tâm tới việc buộc tội ông. Tất cả những gì tôi muốn là tống giam ông, rồi sau đó dọn dẹp cả cái hãng lẫn đám thân chủ của ông. Hai mươi tư giờ đồng hồ để tóm gọn tất cả. Chúng tôi lo việc truy tố sau, tùy thuộc vào việc chúng tôi có tóm được gã Lanigan hay . Ông hiểu chứ ?"

      "Hiểu. Tôi nghĩ thế."

      "Lanigan ở đâu?"

      "Braxin.”

      “Tôi muốn tóm gã. Và ngay bây giờ.”

      Stephano nheo mày đôi lần, và mọi quân bài đều . Trong hoàn cảnh này, giao nộp Lanigan phải là bước tồi. Đám Liên bang này có cách để buộc phải mở miệng. Trước cái án chung thân, Patrick có thể phải bật mí và khai khoản tiền kia ra. Có những áp lực to lớn từ đủ các phía đòi phải có điều đó.

      "Thôi được, thỏa thuận thế này vậy,” Stephano . “Cho tôi bốn mươi tám giờ, tôi trao cho ông Lanigan. Còn ông xé cái trát bắt tôi và từ bỏ những đe dọa truy tố trong tương lai."

      “Đồng ý."

      khoảnh khắc im lặng trong khi cả hai phía nhấm nháp thắng lợi. Jaynes , “Tôi cần biết phải nhận ở đâu.”

      “Phái chiếc máy bay tới Asunción."

      “Paragoay ư ? Thế Braxin sao ?"

      có bạn bè ở Braxin.”

      “Thôi được.” 'Jaynes thầm vào tai đồng , người kia lập tức đứng dậy ra. “ ta vẫn nguyên vẹn đấy chứ ?" Ông ta hỏi Stephano.

      “Phải.”

      “Tốt nhất là nên như thế. Nếu có vết bầm tím nào người tôi quăng ông xuống địa ngục đấy.”

      “Tôi cần phải gọi cú điện thoại."

      Jaynes thực phải cố mỉm cười. Ông ta nhìn quanh các bức tường và . "Đây là nhà của ông mà.”

      “Máy của tôi có bị nghe trộm ?”

      đâu.”

      “Ông thề chứ ?”

      “Tôi mà.”

      “Xin lỗi.” Stephano bước qua gian bếp, rồi vào trong phòng kho nơi lão để cái điện thoại di động. Lão bước ra sân sau, đứng trong đám cỏ ướt và gọi Guy.

      Tiếng kêu thét ngừng vào lúc mà gã người Braxin ngồi gác cái xe tải nghe thấy tiếng chuông điện thoại. Chiếc máy được để ở khoang lái, với cái cần ăngten cao gần năm mét nhô ra từ nóc xe. ta trả lời máy bằng tiếng , rồi chạy kiếm người Mỹ.

      Guy từ trong nhà chạy ra và chộp lấy máy.

      có mở miệng ?” Stephano hỏi.

      chút xíu. gục cách đây chừng giờ.”

      “Cậu biết những gì ?”

      “Khoản tiền đó vẫn còn. biết nó nằm ở đâu. Nó do ngưòi đàn bà ở Rio, luật sư, kiểm soát.”

      “Có tên ta ?"

      “Dạ. Chúng tôi liên hệ. Osmar có người ở Rio.”

      “Cậu có thể moi được ở thêm gì nữa ?”

      "Tôi nghĩ vậy. nửa sống nửa chết rồi, Jack.”

      “Ngừng ngay mọi chuyện mà cậu làm. Có bác sĩ ở đó ?"

      “Tất nhiên.”

      “Chữa trị ngay cho . Đưa tới Asunción càng nhanh càng tốt,”

      “Nhưng sao … “

      hỏi. có thời gian. Đám Liên bang (1) vây chúng ta kín rồi. Hãy làm theo lời tôi, và đừng có để bị tổn thương gì đấy.”

      “Đừng bị tổn thương ? Tôi suýt giết chết trong suốt năm giờ đồng hồ qua.”

      “Làm theo lời tôi. Chữa trị cho . Gây mê. Asunción ngay. Cứ mỗi tiếng lại gọi cho tôi, vào đầu giờ.”

      “Tùy ý sếp thôi.”

      “Và kiếm người đàn bà kia.”

      Đầu Patrick được nhàng nâng lên và nước mát được rót vào miệng . Những sợi dây trói được cắt ra, và họ nhàng gỡ những dải băng keo, đám dây điện và các điện cực. co quắp, vặn vẹo và rên rỉ những lời mà chẳng ai hiểu gì cả. mũi moócphin được tiêm vào tĩnh mạch và rồi Patrick lại chìm vào cơn hôn mê.

      Vào lúc tảng sáng, Osmar có mặt ở sân bay Ponta Porã để chờ chuyến bay đưa ta tới Rio vào lúc cuối ngày. ta liên lạc với người ở Rio, kéo họ ra khỏi giường với lời hứa hẹn về những khoản tiền lớn. Họ phải sục sạo các đường phố.

      Nàng gọi cho cha trước tiên, ngay sau lúc mặt trời mọc, thời điểm trong ngày mà ông luôn luôn ở ngoài hiên với mấy tờ báo và ly cà phê. Ông sống trong căn hộ ở Ipanema, cách bờ biển ba khúc phố, xa Eva quý của ông cho lắm. Khu nhà nơi ông ở được xây dựng cách đây ba chục năm và là trong những tòa nhà cổ nhất trong khu phố giàu của Rio. Ông sống có mình.

      Nghe giọng nàng, ông biết ngay là có chuyện. Nàng bảo đảm với ông là nàng an toàn và vẫn như vậy, rằng khách hàng ở châu u đột nhiên cần đến nàng trong hai tuần, và rằng nàng gọi cho ông hàng ngày. Nàng giải thích tiếp là vị khách hàng đặc biệt này có lẽ có gì đó mờ ám và rất cẩn trọng, và do đó có lẽ ông ta cho người ngó ngàng tới quá khứ của nàng. Đừng có lo ngại gì. Trong thương mại quốc tế điều đó có gì là bất thường cả.

      Ông những muốn có vài câu hỏi, nhưng hiểu rằng có những câu trả lời.

      Cú điện thoại cho vị cổ đông giám sát công việc của nàng khó khăn hơn nhiều. Câu chuyện mà nàng chuẩn bị trước được ra rành mạch, thế nhưng vẫn có những chỗ trống lớn trong đó. khách hàng mới gọi điện đêm hôm trước và nàng cần phải có mặt ngay ở Hamburg. Nàng bay chuyến bay sớm. Vị khách này hoạt động trong ngành viễn thông, với những kế hoạch mở rộng thị trường lớn lao ở Braxin.

      Vị cổ đông kia còn ngái ngủ. Ông ta bảo nàng gọi lại chi tiết sau.

      Nàng gọi cho người thư ký vẫn với câu chuyện đó, và cầu ta hoãn tất cả các cuộc hẹn và các cuộc gặp lại cho tới khi nàng trở về.

      Từ Curitiba, nàng bay tới São Paulo và từ đó lên chuyến bay của hãng Hàng Achentina bay thẳng Buênốt Airét. Lần đầu tiên, nàng dùng tấm hộ chiếu mới của nàng, do Danilo “sắm” giúp từ cách đây năm. Nàng cất giữ nó ở căn hộ kia, cùng với hai chiếc thẻ tín dụng mới và tám nghìn đôla Mỹ tiền mặt.

      Giờ đây, nàng là Leah Pires, cùng tuổi nhưng khác ngày sinh. Danilo biết những chi tiết này; thể nào biết.

      Nàng hoàn toàn cảm thấy mình là người khác.

      Có nhiều khả năng. có thể bị băng cướp bắn chết trong vụ cướp đường thông thường ngả đường nông thôn hoang dã. Chuyện vẫn xảy ra ở vùng biên. cũng có thể lọt vào tay băng nhóm ngầm nào đó biết quá khứ của , bị tra tấn, bị giết và vùi xác trong rừng rậm. Có thể là phải mở miệng, và nếu như vậy chắc hẳn là tên nàng được nhắc tới. Nàng có thể phải sống chui lủi cả phần đời còn lại của mình. Chí ít cũng cảnh cáo nàng về điều này ngay từ đầu. Nhưng cũng có thể là khai gì hết và nàng vẫn được là Eva.

      Có thể Danilo vẫn còn sống ở đâu đó. hứa với nàng là họ giết . Họ có thể hành hạ khiến cho phải cầu xin được chết, nhưng họ dám giết . Nếu các nhà chức trách Mỹ tìm ra trước đòi giải về Mỹ. chọn Nam Mỹ bởi vì xứ sở này có truyền thống chống lại việc dẫn độ.

      Nếu những kẻ thuộc thế giới ngầm tìm ra trước, họ đánh đập cho tới khi phải ra số tiền đó ở đâu. Đó là điều mà sợ nhất - việc bị cưỡng ép.

      Nàng cố gắng chợp mắt lúc ở sân bay Buênốt Airét nhưng tài nào ngủ được. Nàng lại gọi về nhà ở Ponta Porã, gọi vào máy di động và gọi về căn hộ ở Curitiba. Vô ích.

      Tại Buênôt Airét, nàng lên chuyến bay New York, nơi nàng chờ ba tiếng đồng hồ rồi lên chuyến bay Zurich của hãng Hàng Thụy Sĩ.

      Họ đặt nằm ghế sau của chiếc van Volkswagen, và chằng qua người chiếc dây an toàn để khỏi lăn xuống. Những đoạn đường phía trước rất gồ ghề. người chỉ có độc chiếc quần cộc mặc khi tập chạy. Tay bác sĩ kiểm tra lại những chỗ băng bó - tám chỗ tất cả , bôi dầu lên những vết bỏng và tiêm kháng sinh cho . ta ngồi ở chiếc ghế phía trước bệnh nhân, và cặp cái túi đen của mình ở giữa hai chân. Patrick phải chịu đựng đủ rồi. Giờ đến lúc ta phải lo cho .

      hoặc hai ngày nghỉ ngơi và thêm chút thuốc giảm đau Patrick bắt đầu hồi phục. Những vết bỏng để lại những cái sẹo , và với thời gian mờ .

      Tay bác sĩ ngoái lại và vỗ vai . ta rất mừng là bị chết. “ sẵn sàng,” ta với Guy ngồi ở ghế trước. Tay tài xế người Braxin bắt đầu cho xe chuyển bánh.

      Họ dừng lại sau mỗi giờ, chính xác là sau sáu mươi phút, để có thể liên lạc bằng điện thoại di động ở vùng núi này, với chiếc ăngten được dựng lên nóc xe. Guy gọi cho Stephano, ngồi tại văn phòng của lão ở Oasinhtơn D.C. cùng với Hamilton Jaynes và quan chức cấp cao khác của Bộ Ngoại giao Mỹ. Lầu Năm Góc cũng được tham khảo ý kiến.

      Chuyện quái quỷ gì diễn ra thế nhỉ, Guy những muốn hỏi. Cái đám Liên bang này từ đâu đến vậy?

      Trong sáu giờ đồng hồ đầu tiên, họ chạy được trăm dặm. Thỉnh thoảng đường xấu đến mức gần như thể được. Họ còn liên tiếp phải dừng lại để gọi cho Oasinhtơn. Vào lúc hai giờ chiều, đường xá khá hơn khi họ bắt đầu rời khỏi vùng núi.

      Vấn đề dẫn độ rất rắc rối, và Hamilton Jaynes muốn chuyện đó tí nào. Những kênh ngoại giao quan trọng được sử dụng đến. Giám đốc FBI gọi điện cho Chánh văn phòng Nhà Trắng. Đại sứ Mỹ tại Paragoay cũng bị lôi vào cuộc. Những lời hứa hẹn và những lời dọa nạt được đưa ra.

      đổi tượng tình nghi về tiền bạc có thể cưỡng lại chuyện bị dẫn độ từ Paragoay trong nhiều năm, nếu là vĩnh viễn. Nhưng đối tượng này có tiền trong tay và thậm chí biết là lãnh thổ nước nào.

      Ngưòi Paragoay miễn cưõng đồng ý lờ chuyện thủ tục dẫn độ.

      Vào lúc bốn giờ, Stephano lệnh cho Guy tìm đến cái sân bay ở Concepción, thị trấn cách Asunción chừng ba giờ xe chạy. Tay tài xế người Braxin chửi thề bằng tiếng Bồ Đào Nha khi được cầu quay đầu xe lại để về phía bắc.

      Họ đến Concepción lúc tảng sáng và trời vẫn còn tối khi sau cùng họ cũng tới được sân bay, tòa nhà xây bằng gạch bên cạnh dải đường băng hẹp trải nhựa. Guy gọi cho Stephano, và được chỉ thị để lại Patrick trong xe, với chìa khóa xe trong ổ cắm, rồi rời khỏi đó. Guy, tay bác sĩ, tay tài xế và người Mỹ nữa từ từ bước ra xa khỏi xe, thỉnh thoảng ngoái đầu nhìn lại trông chừng. Họ tìm điểm cách xa chừng ba bốn chục mét, dưới tán cây lớn, nơi họ thể bị nhìn thấy. giờ đồng hồ trôi qua.

      Sau cùng, chiếc King Air mang số hiệu đăng ký của Mỹ hạ cánh và chạy tới bên cái nhà ga . Hai viên phi công bước ra và vào bên trong nhà ga. thoáng sau, họ tới chỗ chiếc xe, mở cửa, chui vào và lái nó chạy lại bên chiếc máy bay.

      Patrick được đỡ ra khỏi xe để đưa lên máy bay. tay bác sĩ quân chờ sẵn và ngay lập tức chăm sóc cho gã tù nhân. Viên phi công trả chiếc xe trở lại vị trí cũ của nó. Vài phút sau đó, chiếc máy bay cất cánh.

      Chiếc King Air lấy thêm nhiên liệu ở Asunción, và trong lúc nó còn đỗ ở đó Patrick bắt đầu cựa quậy được. quá yếu và quá đau đớn đến mức thể tự ngồi dậy. Tay bác sĩ cho chút nước mát và vài cái bánh ngọt.

      Họ lại lấy thêm nhiên liệu ở La Paz và ở Lima. Đến Bôgôta, họ chuyển sang chiếc Lear loại , có tốc độ gấp hai lần chiếc King Air. Nó lấy thêm nhiên liệu ở Aruba, ngoài khơi Vênêxuêla, rồi bay thẳng tới căn cứ của Hải quân Mỹ bên ngoài San Juan, Puéctô Ricô. chiếc xe cứu thương đưa tới bệnh viện của căn cứ này.

      Sau gần bốn năm rưỡi, Patrick lại trở về lãnh thổ Mỹ.

      ----

      (1)Ý FBI

      John Grisham

      Đồng Đạo


      Chương 5

      H ãng Luật nơi Patrick làm việc trước đây, năm sau tang lễ của , đệ đơn phá sản theo luật. Sau cái chết của , tiêu đề giấy tờ chính thức của Hãng vẫn bao gồm cả tên cách trịnh trọng ở góc bên phải: Patrick S. Lanigan, 1954-1992. Song rồi những lời đồn đại cứ lan truyền mãi. Chẳng bao lâu sau, mọi người đều tin rằng cuỗm khoản tiền kia và biến mất. Sau ba tháng, còn ai ở vùng Vịnh lại tin rằng chết. Tên còn ở tiêu đề nữa khi những món nợ cứ chồng chất lên.

      Bốn cổ đông còn lại vẫn sát cánh bên nhau, bị ràng buộc bởi món nợ phá sản. Tên của họ cùng có các văn tự cầm cố và các khế ước ngân hàng, thuở họ còn nổi như cồn và sắp tới đỉnh cao của giàu có. Họ từng là các đồng bị cáo trong vài vụ kiện tụng thể nào gỡ nổi; cho tới vụ phá sản này. Kể từ ra của Patrick, họ cố gắng, bằng mọi cách có thể được, để chia tay nhau mà nổi. Hai người trong số họ trở thành những kẻ nghiện rượu, thường uống ngay tại nơi làm việc sau những cánh cửa khóa chặt, nhưng bao giờ uống cùng với nhau. Hai người kia còn trong giai đoạn phục hồi, vẫn còn chuếnh choáng chứ chưa hẳn tỉnh táo.

      lấy tiền của họ. Ngót trăm triệu. Những khoản tiền mà họ tiêu pha từ lâu trước khi có trong túi, như kiểu các luật sư vẫn làm. Những khoản tiền được chi cho việc tân trang cách xa xỉ tòa nhà làm việc của họ ở trung tâm Biloxi. Những khoản tiền chi cho các ngôi nhà mới, những du thuyền, những ngôi nhà nghỉ ở vùng Caribê. Chỗ tiền đó đường đến với họ, được chấp thuận, giấy tờ được ký, lệnh chuyển tiền được đưa ra; họ có thể nhìn thấy nó, ngửi thấy nó, hầu như sờ được vào nó người cộng chết kia của họ lại cuỗm mất ở giây phút cuối cùng.

      chết. Họ chôn cất hôm 11 tháng hai năm 1992. Họ chia buồn với người vợ góa và ghi tên lên tiêu đề của Hãng. Vậy mà sáu tuần lễ sau, bằng cách nào đó, đánh cắp được tiền của họ.

      Họ cãi vã về chuyện nên trách cứ ai. Charles Bogan, cổ đông hàng đầu và là bàn tay sắt của Hãng, khăng khăng đòi chuyển số tiền đó tới tài khoản mới ở nước ngoài, và sau số thảo luận, ý kiến đó được cho là hay. thể nào cất giấu nổi số tiền chín mươi triệu đôla, trong đó Hãng được giữ lại phần ba, ở Biloxi, thành phố chỉ có năm mươi nghìn dân. Ai đó ở nhà băng tiết lộ. Rồi tất cả mọi người biết. Cả bốn người thề giữ bí mật, thậm chí ngay trong khi mỗi người đều có kế hoạch phô trương giàu sang của mình. Họ còn bàn tới cả việc mua chiếc máy bay phản lực, loại sáu chỗ ngồi, cho Hãng.

      Vậv là Bogan nhận phần trách nhiệm của mình. Với tuổi bốn mươi chín, ông ta lớn nhất trong số bốn người, và vào lúc này, là người điềm tĩnh nhất. Ông ta cũng phải chịu trách nhiệm về việc tuyển dụng Patrick chín năm về trước, và ông ta hối tiếc về nó phải là ít.

      Doug Vitrano, luật sư chính của Hãng, quyết định oan nghiệt là đề nghị nhận Patrick làm cổ đông thứ năm. Ba người kia đồng ý và khi cái tên Lanigan được bổ sung vào tên của Hãng, thực tế là tiếp cận được với mọi hồ sơ trong văn phòng. Bogan, Rapley, Vitrano, Havarac và Lanigan, Luật sư và Tư vấn pháp lý. quảng cáo lớn những trang vàng tuyên bố họ là “Những chuyên gia về các tổn thất ở nước ngoài." Chuyên gia hay cũng giống như hầu hết các hãng khác, họ đều sẵn sàng nhận mọi việc nếu các khoản thù lao là béo bở.

      Tất cả bọn họ đều trong độ tuổi giữa đến cuối bốn mươi. Havarac được người cha của ông ta nuôi dưỡng nhờ chiếc tàu đánh bắt tôm. Ông ta hãnh diện với đôi bàn tay vẫn đầy chai của mình, và ước ao được tự tay bẻ gãy cổ Patrick. Rapley bị trầm uất cách nghiêm trọng và hiếm khi rời khỏi nhà, nơi ông ta vẫn viết lách gì đó trong căn phòng áp mái tối tăm.

      Khoảng hơn chín giờ sáng, Bogan và Vitnino ở bàn làm việc của họ nhân viên đặc biệt Cutter bước vào tòa nhà phố Vieux Marche, trong khu phố cổ của Biloxi. Ông ta mỉm cười với nhân viên lễ tân và hỏi có luật sư nào trong văn phòng . Đó là câu hỏi bình thường. Họ có tiếng là mấy kẻ nghiện ngập thỉnh thoảng mới đến nơi làm việc.

      dẫn ông ta vào phòng họp và mang cà phê đến. Vitrano bước vào trước, trông có vẻ gọn gàng, mặt mũi tỉnh táo. Bogan theo sát ngay đằng sau. Họ khuấy đường trong cà phê và chuyện về thời tiết.

      Trong những tháng ngay sau biến mất của Patrick và số tiền kia, Cutter thỉnh thoảng có ghé vào và thông báo đôi điều mới nhất về cuộc điều tra của FBI. Họ trở nên chỗ quen biết thân tình, dù rằng những cuộc gặp này luôn gây buồn bã. Khi thời gian còn được tính bằng tháng mà bằng năm, những buổi thông báo tình hình này cũng trở nên thưa hơn, và bao giờ cũng có cùng kết thúc: chưa thấy dấu tích của Patrick. gần năm kể từ khi Cutter chuyện với hai người bọn họ.

      Bởi vậy, họ đồ chừng đơn giản là ông ta vẫn tử tế, ngẫu nhiên có chuyện gì đó ở trung tâm thành phố, hay có thể là muốn uống chút cà phê, và cuộc gặp này là bình thường và nhanh chóng.

      Cutter , “Chúng tôi giam giữ Patrick.”

      Charlie Bogan nhắm mắt lại và há hốc mồm kêu lớn, “ Ôi, lạy Chúa,” rồi úp mặt vào hai lòng bàn tay. “ Ôi, lạy Chúa.”

      Đầu Vitrano ngửa ra đằng sau, mồm cũng há hốc ra. Ông ta nhìn lên trần nhà với vẻ thể nào tin nổi. “ ở đâu rồi ?” Ông ta cố lắm mới hỏi được.

      ‘‘ ở trong căn cứ quân ở Puéctô Ricô. bị tóm ở Braxin."

      Bogan đứng dậy và tới góc phòng, cạnh mấy giá sách, giấu mặt vào đó và cố kìm lại những giọt nước mắt. “Ôi, lạy Chúa,” ông ta lặp lặp lại.

      “ Ông có chắc đúng ?” Vitrano hỏi vẻ thiếu tin tưởng.

      “Chắc."

      thêm nào,” Vitrano giục.

      “Về chuyện gì cơ chứ ?”

      “Chẳng hạn như làm thế nào mà các tìm ra ? Và ở đâu ? Và lúc đó làm gì ? Trông thế nào ?”

      “Chúng tôi tìm thấy . được trao cho chúng tôi.”

      Bogan ngồi xuống bàn, chiếc khăn tay áp vào mũi. “Tôi xin lỗi,” ông ta lúng túng .

      “Các ông có biết người đàn ông tên là Jack Stephano ?” Cutter hỏi.

      Cả hai đều gật đầu với vẻ hơi miễn cưỡng.

      “ Các ông có nằm trong cái tổ hợp của lão ta ?”

      Cả hai đều lắc đầu phủ nhận.

      “May cho các ông đấy. Stephano tìm ra , tra tấn , thiếu chút nữa giết chết , nhưng lão phải trao lại cho chúng tôi.”

      “Chuyện tra tấn nghe hay đấy,” Vitrano . “Kể lại cho chúng tôi nghe xem nào.”

      “Bỏ qua chuyện đó . Chúng tôi nhận lại đêm qua ở Paragoay, chở về Puéctô Ricô. nằm trong bệnh viện ở đó. được ra viện và đưa về đây trong ít ngày tới.”

      “Còn tiền sao ?" Bogan gắng gượng hỏi, giọng khản .

      có dấu hiệu gì. Nhưng mà chúng tôi chưa Stephano biết những gì. ”

      Vitrano nhìn chằm chằm xuống mặt bàn, mắt long sòng sọc. Patrick cuỗm theo chín mươi triệu đôla khi biến bốn năm về trước. thể nào tiêu hết được chỗ tiền đó. Có thể là tậu các biệt thự và máy bay lên thẳng, cùng cả đống đàn bà nhưng vẫn phải còn hàng chục triệu đôla. Chắc chắn là họ có thể tìm ra. Phần của Hãng là phần ba.

      Có thể, chỉ là có thể.

      Bogan chớp chớp mắt và nghĩ tới người vợ cũ của ông ta, người đàn bà tâm đầu ý hợp bỗng trở nên độc ác khi chuyện động trời này xảy ra. ta cảm thấy nhục nhã vì vụ phá sản, và do vậy mang đứa con nhứt của họ Pensarola, đệ đơn xin ly hôn và đưa ra những lời buộc tội xấu xa. Bogan uống rượu và dùng chất kích thích. ta biết điều đó và dùng nó để chơi ông ta. Bogan thể phản bác được gì nhiều. Sau cùng, ông ta cũng làm sáng tỏ được danh dự của mình nhưng vẫn bị từ chối quyền đến thăm đứa trẻ.

      trớ trêu. Bogan vẫn còn người vợ cũ của mình, vẫn nghĩ tới việc đưa được ta trở về. Có thể là tiền bạc thu hút được chú ý của ta. Có thể có hy vọng. Chắc chắn là họ tìm ra.

      Cutter phá vỡ im lặng. “Stephano gặp rắc rối to. mình Patrick đầy những vết bỏng vì họ tra tấn .”

      “Được đấy,” Vitrano với nụ cười.

      “ Ông chờ đợi thông cảm từ chúng tôi ư ?" Bogan hỏi.

      “Dù sao Stephano cũng là vấn đề. Chúng tôi theo dõi lão, có thể lão dẫn chúng ta tới chỗ tiền kia."

      dễ dàng tìm ra chỗ tiền kia thôi,” Vitrano . “ cái xác chết nào đó. Ai đó bị Patrick giết. vụ phải chịu án tử hình, dứt khoát. Giết người vì tiền. Dưới sức ép đó Patrick phải khai ra.”

      “Hay tốt hơn là giao cho chúng tôi,” Bogan hề cười. “Mười phút, và chúng ta biết mọi thứ.”

      Cutter nhìn đồng hồ. " Tôi đây. Phải đến Point Clear báo tin này cho Trudy.”

      Bogan và Vitrano ai bảo ai cùng khịt khịt mũi, rồi cười phá lên. “ ả đó chưa biết ư?” Bogan hỏi.

      “Chưa.”

      “Hãy quay video lại,” Vitrano , cố nén cơn cười. “Tôi muốn được nhìn thấy mặt ả.”

      " Tôi thực cũng muốn gặp chị ta.”

      "Con chó cái ấy,” Bogan hằn học.

      Cutter đứng lên và , “Hãy với các cổ đông khác, nhưng chờ đến trưa . Chúng tôi dự kiến tổ chức cuộc họp báo vào lúc đó. Tôi liên lạc sau.”

      Mãi lâu sau khi Cutter khỏi, họ vẫn hề nửa lời. Có quá nhiều câu hỏi, quá nhiều điều để . Cả căn phòng như quay cuồng với bao nhiêu khả năng và bao nhiêu kịch bản khác nhau.

      Là nạn nhân của vụ tai nạn xe nghiệt ngã, con đường vùng nông thôn chẳng có ai chứng kiến, Patrick được người vợ quý của , Trudy, an táng hôm 11 tháng Hai năm 1992. Chị ta là góa phụ đầy hấp dẫn trong bộ đồ Armani màu đen, và trong khi người ta còn lấp đất lên quan tài chị ta bắt đầu tiêu tiền.

      Chúc thư của , đơn giản và mới được sửa lại, để tất cả lại cho chị ta. Vài giờ trước đám tang, Trudy và Doug Vitrano thận trọng mở chiếc két trong phòng làm việc của Patrick và kiểm lại các thứ bên trong. Họ tìm thấy trong đó cái chúc thư, hai giấy chứng nhận sở hữu xe hơi, bản khế ước trả góp hàng năm cho ngôi nhà của gia đình Lanigan, chứng nhận bảo hiểm sinh mạng với giá nửa triệu đôla mà Trudy có được biết, cùng chứng nhận bảo hiểm khác với giá hai triệu đôla mà chị ta chưa bao giờ nghe đến.

      Vitrano nhanh chóng xem xét tờ chứng nhận bảo hiểm bất ngờ này. Nó được Patrick mua từ tám tháng trước đó và Trudy là người được hưởng duy nhất. Cả hai khoản bảo hiểm này đều do cùng hãng lớn, có khả năng thanh toán, bán ra. Chị ta thề là hề biết gì về nó, và nụ cười gương mặt chị ta làm cho Vitrano tin rằng chị ta thực bị bất ngờ. Có đám tang hay Trudy cũng hoàn toàn choáng váng trước khoản tiền kếch sù này. Và với nỗi đau giảm đáng kể, chị ta chịu đựng được suốt cả đám tang mà đến nỗi suy sụp gì.

      Hãng bảo hiểm kia gây khó dễ, như họ vẫn thường làm lúc thoạt đầu, thế nhưng Vitrano có những đe dọa đủ sức để buộc họ phải thanh toán. Bốn tuần sau lễ tang, Trudy lấy về được hai triệu rưỡi đôla cho mình.

      tuần sau đó, chị ta lái chiếc Rolls-Royce màu đỏ rực chạy quanh Biloxi và bắt đầu làm cho mọi người thấy ghét. Thế rồi khoản chín mươi triệu đôla kia biến mất tăm mất tích, và những lời đồn đại loan ra.

      Có lẽ chị ta phải là góa phụ.

      Patrick là đối tượng bị tình nghi đầu tiên, và sau cùng, duy nhất. Những lời đồn đại trở nên độc ác hơn, và bởi vậy, Trudy chất cả con lẫn Lance, nguời bạn tình từ thời trung học của chị ta, lên chiếc Rolls-Royce và bỏ tới Mobile, cách Biloxi giờ xe chạy về phía đông. Chị ta kiếm được tay luật sư tinh quái và nhận được nhiều lời khuyên về việc bảo vệ đồng tiền của mình như thế nào. Chị ta mua ngôi nhà cổ khá đẹp ở Point Clear, nhìn ra vịnh Mobile, và để Lance đứng tên.

      Lance là gã đàn ông hư hỏng nhưng đẹp trai và khỏe mạnh, người mà Truđy lên giường cùng từ hồi mười bốn tuổi. Gã bị kết tội buôn lậu ma túy ở tuổi mười chín và phải ngồi tù ba năm trong khi Trudy được hưởng thời gian tuyệt vời ở trường cao đẳng, cầm đầu đám nữ sinh, quyến rũ các nam sinh trong đội bóng củạ nhà trường, tưng bừng trong các cuộc liên hoan và cuối cùng, vẫn tốt nghiệp với các phần thưởng. Chị ta cưới người bạn học giàu có và ly dị hai năm sau đó. Chị ta hưởng thụ cuộc sống độc thân trong ít năm, cho tới khi gặp và cưới Patrick, luật sư trẻ đầy triển vọng mới đến lập thân ở vùng bờ biển này. Cuộc tình của họ thừa đam mê nhưng thiếu chín chắn.

      Suốt thời gian học cao đẳng, trong cả hai cuộc hôn nhân và với loạt những chỗ làm việc ngắn ngủi khác nhau, Trudy vẫn luôn luôn giữ Lance kề bên. Gã là cả đam mê, gã đàn ông vạm vỡ, khỏe mạnh mà chị ta bao giờ biết chán. Chị ta biết ngay từ cái lần đầu hồi mới mười bốn tuổi ấy rằng chị ta bao giờ thiếu được gã.

      Lance mở toang cánh cửa, ngực để trần, mớ tóc đen của gã được buộc túm lại đằng sau như cái đuôi ngựa, và dái tai bên trái của gã là cái hoa tai kim cương to tướng. Gã khinh bỉ nhìn Cutter cũng như vẫn khinh bỉ cả thế giới này, và lời.

      “Trudy có nhà ?" Cutter hỏi.

      “Có lẽ có.”

      Tấm thẻ được chìa ra, và trong tích tắc vẻ khinh bỉ kia biến mất. “Nhân viên đặc biệt Cutter, FBI. Trước đây tôi chuyện với chị ta.”

      Lance thường mua ma túy từ Mêhicô và đưa về bằng chiếc xuồng cao tốc loại lớn mà Trudy mua tặng. Gã bán lại số ma túy này cho băng nhóm tội phạm ở Mobile. Công việc làm ăn chậm chạp bởi lẽ các nhà chức trách nghi vấn.

      ấy ở phòng tập,” Lance vừa vừa hất hàm. “ Ông muốn gì ?”

      Cutter phớt lờ gã và bước ngang qua lối tới căn nhà để xe được sửa lại, nơi phát ra tiếng nhạc ầm ĩ. Lance lầm lì bước theo sau.

      Trudy ở giữa bài tập thể hình trước siêu người mẫu cái màn hình TV cỡ lớn đặt ở cuối phòng. Chị ta nhảy nhót, xoay người và lẩm nhẩm lời của bài hát trời ơi nào đó, và trông tuyệt vời. chút mỡ thừa nào cái thân hình kia. Cutter có thể đứng thế này mà ngắm hàng giờ. Ngay cả những giọt mồ hôi của chị ta cũng long lanh.

      Tập như vậy hai giờ ngày và ở tuổi ba mươi lăm, Trudy trông vẫn giống như nữ sinh trung học.

      Lance nhấn cái công tắc và đoạn băng video ngừng phát. Trudy quay lại, thấy Cutter, bèn ném cho ông ta cái nhìn có lẽ làm miếng phomát phải chảy ra. “ Ông có chuyện gì ?" Chị ta gắt lên, ràng là muốn bài tập của mình bị ngắt quãng.

      ‘Tôi là nhân viên đặc biệt Cutter, FBI." ông ta , chìa thẻ ra và bước lại gần chị ta. “Chúng ta gặp nhau lần cách đây vài năm."

      “Tôi có thể làm gì cho ông ?”

      “Tôi có tin tức tốt lành cho bà,” Cutter với nụ cười thoải mái.

      “Gì vậy ?"

      “Chúng tôi tìm thấy chồng bà, thưa bà Lanigan, và ông ta còn sống.”

      thoáng ngừng để thông tin này có thể được tiếp nhận. “Patrick ư?” Chị ta .

      “Đúng là ông ta.”

      “ Ông dối,” Lance nhếch mép.

      “E là phải như vậy. Ông ta bị tạm giữ ở Puéctô Ricô. được đưa về đây trong khoảng tuần nữa gì đó. Đơn thuần là chúng tôi cho rằng bà cần được biết tin vui này trước khi chúng tôi cho báo chí biết.”

      Sững sờ và kinh ngạc, chị ta lùi lại và ngồi xuống chiếc ghế băng đặt cạnh chiếc máy nâng. Làn da màu đồng tươi tắn của chị ta nhợt . Tấm thân mềm mại như rúm ró lại. Lance bước đến bên chị ta. “ Ôi, lạy Chúa,” chị ta lẩm bẩm.

      Cutter ném tấm danh thiếp ra trước mặt họ. “Gọi cho tôi, nếu tôi có thể giúp gì được.” Họ gì khi ông ta bỏ .

      Cutter thấy là chị ta có chút giận dữ gì vì bị lừa dối bởi cái chết giả kia. Cũng có dấu hiệu vui mừng nhất nào đối với trở về của người chồng. chút nhõm thường thấy nào ở cuối nỗi thống khổ.

      gì cả ngoài sợ hãi: nỗi sợ phải mất tiền. Cái hãng bảo hiểm sinh mạng kia kiện ngay lập tức.

      Trong lúc Cutter ở Mobile, nhân viên đặc biệt khác từ văn phòng FBI ở Biloxi cũng tới nhà bà mẹ của Patrick ở New Orleans để thông báo tin này. Bà Lanigan quá xúc động, và nài nỉ khách ngồi lại cho bà hỏi han. ta ở lại chừng giờ nhưng có gì nhiều để trả lời cho bà. Bà khóc vì vui mừng, và sau khi khách ra về, bà dành cả thời gian còn lại trong ngày để gọi điện báo cho bạn bè cái tin tuyệt vời là sau cùng con trai bà vẫn còn sống.

      John Grisham

      Đồng Đạo


      Chương 6

      J ack Stephano bị FBI bắt tại văn phòng của lão ở Oasinhtơn D.C. Lão bị giữ ba mươi phút trong phòng giam và rồi bị đưa đến phòng xét xử tại Tòa án Liên bang, nơi lão phải đối mặt với thẩm phán Liên bang trong cuộc thẩm vấn kín. Lão được thông báo rằng được thả ra ngay nếu tự nguyện chấp thuận là rời khỏi địa phương và bị FBI theo dõi 24/24 giờ. Trong khi lão ở tòa án nhóm các nhân viên đặc biệt ập vào văn phòng, tịch thu mọi hồ sơ, và cho những người làm của lão ra về.

      Sau khi ra khỏi tòa án, Stephano được chở đến trụ sở FBI ở đại lộ Pennsylvania, nơi Hamilton Jaynes đợi lão. Khi còn lại hai người trong văn phòng của Jaynes, vị phó giám đốc đưa ra lời xin lỗi tử tế về vụ bắt bớ này, nhưng rằng ông ta còn lựa chọn nào khác. Nguời ta thể bắt giữ kẻ bị Liên bang truy nã, đầu độc đối tượng, tra tấn, làm đối tượng suýt chết mà lại bị kết vào tội gì.

      Vấn đề là chỗ tiền kia. Vụ bắt giữ chỉ là đòn gây sức ép. Stephano thề là Patrick hề khai ra điều gì.

      Trong lúc họ trao đổi, cửa ra vào văn phòng của Stephano bị niêm phong lại và các thông báo của Liên bang được dán lên đó. Điện thoại tại nhà lão bị gắn thiết bị nghe trộm, trong khi bà Stephano còn mải chơi bài.

      Sau cuộc gặp ngắn ngủi và mang lại kết quả gì với Jaynes, lão được thả xuống gần Tòa án Tối cao. Do được lệnh được lảng vảng đến văn phòng của mình, lão vẫy chiếc tăcxi và bảo chở tới khách sạn Hay-Adams, góc phố H và phố 16. Lão ngồi trong xe, nhẫn nại đọc tờ báo, thỉnh thoảng lại sờ sờ cái thiết bị theo dõi mà họ khâu vào nẹp chiếc áo khoác của lão. Đó là cái máy phát xíu nhưng cực mạnh được dùng để giám sát di chuyển của người, hàng hóa, thậm chí là cả xe cộ. Lão sờ lần trong lúc chuyện với Jaynes và lúc đó muốn dứt tung cái thiết bị này ra và quăng trả nó lên mặt bàn của ông ta.

      Nhưng lão là chuyên gia trong lĩnh vực theo dõi này. Lão nhét cái áo khoác xuống bên dưới ghế xe, rồi nhanh chóng vào khách sạn Hay-Adams, đối diện với công viên Lafayette. Được thông báo là còn phòng, lão cầu được gặp tay quản lý, khách hàng cũ, và chỉ trong vòng vài phút lão được hộ tống lên căn hộ ở tầng bốn, nơi mà từ đó có thể thấy toàn bộ quang cảnh Nhà Trắng. Lão cởi tuốt quần áo ra và cẩn thận đặt ngay ngắn từng thứ lên giường, kiểm tra kỹ càng từng phân vải . Rồi lão gọi bữa trưa. Lão cũng gọi điện cho vợ nhưng có ai trả lời.

      Thế rồi lão gọi Benny Aricia, khách hàng của lão, người có chín mươi triệu đôla bị biến mất chỉ vài phút sau khi số tiền này được chuyển vào cái nhà băng ở Nassau. Phần của Benny là sáu mươi triệu, và ba mươi triệu còn lại thuộc về các luật sư của ông ta, Bogan, Vitrano và cái đám lừa đảo bẩn thỉu còn lại ở Biloxi. Thế nhưng, số tiền biến mất trước khi nó tới được tay Benny.

      Ông ta náu mình ở khách sạn Willard, cũng gần với Nhà Trắng, chờ nghe tin tức từ Stephano.

      Họ gặp nhau giờ sau tại khách sạn Four Seasons ở Georgetown, trong căn hộ mà Benny mới đặt trước đó tuần.

      Benny gần sáu mươi, nhưng trông trẻ hơn đến chục tuổi. Ông ta có thân hình gọn gàng và nước da rám nắng của tay nghỉ hưu giàu có ở Nam Florida do chơi gôn hàng ngày. Benny sống trong căn nhà bên con kênh đào ở Boca, cùng với Thụy Điển trẻ trung chỉ bằng cỡ tuổi con mình.

      Khi khoản tiền kia bị đánh cắp, hãng luật đó khoản bảo hiểm về các vụ lừa đảo và đánh cắp gây ra bởi các cổ đông và nhân viên của nó. Trò biển thủ là phổ biến trong các hãng luật. Khoản bảo hiểm đó, do công ty bảo hiểm Monarch-Sierra bán ra, có giới hạn tối đa là bốn triệu đôla và phải được trả cho hãng luật. Benny khởi kiện hãng luật với nỗ lực rất lớn. Đơn kiện đòi sáu mươi triệu đôla; tất cả là thuộc về ông ta.

      Do còn mấy để mà thu hồi, và do hãng luật kia sắp phải ra tòa về vụ phá sản, Benny đành bằng lòng với khoản bốn triệu mà Monarch-Sierra trả. Ông ta tiêu gần nửa số tiền đó vào việc tìm kiếm Patrick. Căn nhà mộng mơ ở Boca ngốn mất nửa triệu. Còn những chi tiêu khác ở chỗ này chỗ nọ, và Benny chỉ còn triệu cuối cùng.

      Ông ta đứng bên cửa sổ và nhấm nháp ly cà phê loại tách caphêin. “Liệu tôi có sắp sửa bị bắt đấy ?" Benny hỏi.

      “Có lẽ là . Nhưng dù sao tôi vẫn khuyên ông thận trọng.”

      Benny đặt ly cà phê xuống bàn và ngồi đối diện với Stephano. “Ông chuyện với các công ty bảo hiểm chưa?”

      “Chưa. Tôi gọi sau. Đám các ông sao đâu.”

      Northern Case Mutual, cái hãng bảo hiểm làm cho Trudy trở nên giàu có kia, thầm bỏ ra nửa triệu đôla cho cuộc tìm kiếm. Monarch-Sierra bỏ ra triệu. Tổng cộng, cái tổ hợp bé của Stephano cam kết và thực chi hơn ba triệu đôla vào cuộc săn lùng Patrick.

      “Có may mắn gì với con bé kia ?” Benny hỏi.

      “Chưa. Người của chúng tôi ở Rio. Họ tìm thấy bố con bé, nhưng lão ta chịu . Với hãng luật của con ranh con cũng vậy. Họ nó vắng mặt ở thành phố vì công chuyện.”

      Benny khoanh tay và ôn tồn , “Giờ cho tôi biết chính xác là gì ?”

      “Tôi còn chưa nghe cuốn băng. Theo dự kiến được chuyển đến văn phòng của tôi vào chiều nay, nhưng lúc này mọi chuyện trở nên phức tạp. Cũng xin thêm là nó được gửi từ vùng rừng rậm Paragoay đấy.”

      “Điều đó tôi biết.”

      "Theo Guy, gục sau năm giờ bị tra điện. là số tiền vẫn chưa bị động đến, được cất giấu trong nhiều nhà băng khác nhau, nhưng thể ra được tên nhà băng nào. Guy suýt giết chết khi thể, hoặc giả là chịu, tên các nhà băng kia. Nhưng lúc đó Guy cân nhắc, cách đứng đắn, rằng có ai khác đó kiểm soát khoản tiền kia. Vài cú đòn nữa và cái tên con bé kia bật ra. Người của Guy lập tức liên lạc với Rio, và xác nhận được về nhân thân con bé. Có điều là nó biến mất.”

      “Tôi muốn nghe cuốn băng đó.”

      “Tàn bạo lắm, Benny. Da thịt của bị thiêu đốt và kêu váng lên.”

      Benny thể nào nén cười. “Tôi biết. Đó chính là thứ mà tôi muốn nghe.”

      Họ đưa Patrick tới cuối dãy nhà trong cái bệnh viện của căn cứ. Phòng của là căn phòng duy nhất ở nơi đây mà người ta có thể khóa từ bên ngoài và cửa sổ mở ra được. Những tấm rèm cửa được che kín. Hai lính gác ngồi ngay ngoài hành lang.

      Các vết thương của Patrick là nghiêm trọng và đau khủng khiếp, và bởi vậy các bác sĩ của , bốn người tất cả, quyết định đơn giản là liên tục tiêm thuốc ngủ cho trong lúc này. việc gì phải vội vã đưa đâu cả. kẻ bị truy nã, nhưng phải mất ít ngày để quyết định xem ai có quyền nhận trước.

      Họ giữ cho căn phòng tối, với chút nhạc, túi truyền lúc nào cũng căng đầy và Patrick ngủ yên với giấc ngủ mộng mị, quên hẳn cơn bão tố gào thét chờ đợi mình.

      Vào tháng Tám năm 1992, năm tháng sau khi khoản tiền kia biến mất, Thẩm phán Liên bang ở Biloxi truy tố Patrick về tội ăn cắp. Có bằng chứng đủ cho thấy rằng làm vụ này và hề có dấu hiệu, dù là nhất nào rằng, còn có ai khác nữa đáng bị tình nghi. Vụ việc diễn ra vượt qua các đường biên giới quốc tế, bởi vậy quyền tài phán thuộc về Liên bang.

      Văn phòng cảnh sát trưởng quận Harrison và văn phòng công tố viên địa phương tiến hành cuộc điều tra chung về vụ giết người này, nhưng từ lâu chuyển sang các vấn đề khác cấp bách hơn. Nay đột nhiên, vụ việc đó lại trở lại với họ.

      Cuộc họp báo vào buổi trưa bị hoãn lại trong khi các nhà chức trách họp tại văn phòng của Cutter ở trung tâm Biloxi. Đó là cuộc họp căng thẳng, mà những người dự họp có các lợi ích xung đột với nhau. Ngồi bên này bàn là Cutter và FBI, những người nhận lệnh từ Maurice Mast, công tố viên Liên bang phụ trách khu vực miền tây Mississippi vừa từ Jackson đến. Bên kia bàn là Raymond Sweeney, cảnh sát trưởng quận Harrison và phụ tá của ông ta là Grimshaw, cả hai đều ghét cay ghét đắng FBI. Người đại diện cho họ là T.L.Parrish, công tố viên phụ trách quận Harrison và các quận xung quanh.

      Đó là chuyện xung đột giữa Liên bang và bang, giữa ngân sách lớn và , với những con người đầy cá tính ngồi quanh phòng và ai cũng muốn được phần lớn nhất trong vụ Patrick này.

      “Điều quan trọng ở đây là phải dùng án tử hình,” Parrish .

      “Chúng ta có thể dùng án tử hình của Liên bang,” Mast cách rụt rè.

      Parrish mỉm cười và hạ ánh mắt xuống. Án tử hình mới được thông qua gần đây bởi cái Quốc hội biết làm thế nào để thực nó. Tất nhiên, cũng là điều tốt khi Tổng thống ký nó thành luật, thế nhưng còn quá nhiều trở ngại.

      Mặt khác, bang lại có truyền thống phong phú và được kiểm nghiệm trong việc thực thi các án tử hình. “Luật của chúng tôi tốt hơn,” Parrish . “Và tất cả chúng ta đều biết điều đó.” Parrish đưa tám phạm nhân vào danh sách tử tù. Mast còn chưa có cơ hội truy tố ai về tội giết người.

      “Và còn vấn đề nhà tù,” Parish tiếp tục. “Chúng tôi đưa tới Parchman, nơi mà bị giam hai mươi ba giờ mỗi ngày, trong căn phòng ẩm ướt với hai bữa ăn tồi tệ, hai lần tắm tuần, đầy gián muỗi và những kẻ hiếp dâm đồng tính. Nếu vào tay quý vị, có cả câu lạc bộ ngoại ô cho quãng đời còn lại trong khi các tòa án Liên bang nuông chiều và tìm ra cả nghìn cách để cho được sống.”

      phải là cuộc dã ngoại đâu,” Mast cách đầy lúng túng và bị động.

      có lẽ cũng là ngày biển. Nào thôi, Maurice. Vấn đề là sức ép. Chúng ta có hai điều bí , hai vấn đề phải được giải đáp trước khi Lanigan nằm xuống. Vấn đề lớn là tiền. Nó ở đâu ? làm gì với số tiền đó ? Có thể thu hồi và trả lại được cho những người chủ của nó hay ? Vấn đề thứ hai chính là chuyện ai được đem chôn ở đó. Tôi có linh cảm rằng chỉ có Lanigan mới có thể cho chúng ta biết, và trừ khi buộc phải . Phải làm cho khiếp sợ, Maurice. Parchman kinh hoàng lắm. Tôi cam đoan với ngài rằng cầu nguyện để được Liên bang truy tố đấy.”

      Mast bị thuyết phục nhưng lại khó lòng mà đồng ý. Đơn giản là vụ này quá lớn, thể trao cho tòa án địa phương được. Đám báo chí lúc này đổ xô đến đây.

      “ Ông biết đấy, còn có những tội danh khác,” ông ta . “Vụ trộm cắp xảy ra ở bên ngoài lãnh thổ, cách đây rất xa.”

      “Phải, nhưng nạn nhân là cư dân của quận này vào thời điểm đó,” Parrish .

      “Vụ này đơn giản.”

      “Ông muốn gì ?"

      “Có lẽ là chúng ta nên làm chung, " Mast , và căng thẳng giảm đáng kể. Liên bang có thể ra đòn trước bất kỳ lúc nào, và việc vị công tố Liên bang đề nghị chia xẻ trách nhiệm là điều cao nhất mà Parrish có thể hy vọng.

      Parchman là vấn đề cốt lõi và ai trong căn phòng này cũng biết điều này. Tay luật sư Lanigan kia hẳn phải biết điều gì đợi ở đó, và khả năng sống mười năm ở cái địa ngục đó trước khi chết có thể làm cho phải mở miệng.

      kế hoạch được thảo ra để chia cái bánh và cả Parrish lẫn Mast đều ngầm thỏa thuận về việc chia xẻ phô trương. FBI tiếp tục cuộc tìm kiếm khoản tiền kia. Giới chức địa phương tập trung vào vụ giết người. Parrish nhanh chóng nhóm họp cái hội thẩm đoàn của ông ta. mặt trận thống nhất được ra mắt công chúng. Những vấn đề rắc rối như việc xét xử và những kháng cáo sau đó được bỏ qua với lời hứa vội vã là đề cập sau. Điều quan trọng lúc này là tìm ra được cuộc ngừng bắn để bên này khỏi phải lo ngại về bên kia.

      Do phiên xét xử diễn ra trong tòa nhà Tòa án Liên bang, đám báo chí được lùa ngang phố sang Tòa án Biloxi, nơi có thể sử dụng phòng xét xử chính nằm tầng hai. Có vài chục phóng viên. Hầu hết là đám địa phương, nhưng cũng có những người khác đến từ Jackson, New Orleans và Mobile. Họ chen lấn và túm tụm ở đằng trước giống như đám trẻ con trong cuộc diễu hành.

      Mast và Parrish nghiêm trang bước tới bục gỗ có để sẵn các micrô, loằng ngoằng dây rợ. Cutter và nhóm cảnh sát còn lại đứng thành hàng ngang sau lưng họ. Đèn bật sáng và các máy ảnh chụp lia lịa.

      Mast hắng giọng và , “Chúng tôi hài lòng được thông báo việc bắt giữ ông Patrick S.Lanigan, cựu công dân của Biloxi. Ông ta vẫn còn sống, và khỏe mạnh, và ở trong tay chúng tôi.” Ông ta ngừng lời nhằm gây ấn tượng, thưởng thức khoảnh khắc tắm trong luồng hào quang của mình, lắng nghe những tiếng kêu đầy kích động và hồi hộp như của bầy kền kền. Tiếp đó, ông ta thêm về số chi tiết của vụ bắt giữ đó - Braxin, hai ngày trước, những giấy tờ tùy thân giả mạo - mà để lộ bất kỳ dấu hiệu nhất nào rằng cả ông ta lẫn FBI đều làm được trò vè gì trong việc thực tìm ra Patrick. Tiếp đó là vài chi tiết vô dụng về việc đưa tù nhân đến, những tội danh có thể có, bàn tay kiên quyết và nhanh chóng của pháp luật Liên bang.

      Parrish diễn giải nhiều như vậy. Ông ta hứa hẹn việc nhanh chóng khởi tố tội giết người, và về bất kỳ tội danh nào khác mà ông ta có thể tính đến.

      Các câu hỏi dồn dập được đưa ra. Mast và Parrish từ chối bình luận về gần như mọi thứ, và liên tiếp từ chối như vậy trong khoảng tiếng rưỡi đồng hồ.

      *

      **

      Ả kiên quyết đòi cho Lance được có mặt trong suốt buổi gặp. Ả là cần gã. Trông gã rất chơi bời trong bộ đồ cộc bó chẽn. Đôi chân cuồn cuộn những bắp thịt của gã đầy lông lá và rám nắng. Viên luật sư cảm thấy kinh tởm, nhưng mà ông ta quá từng trải.

      Trudy ăn mặc rất mốt — váy cộc bó chặt, chiếc áo blu màu đỏ khêu gợi, trang điểm kỹ càng và mang đầy đồ nữ trang. Ả bắt chéo cặp chân thon thả để thu hút chú ý của viên luật sư, và đặt tay vai Lance trong khi gã xoa nắn đầu gối ả.

      Viên luật sư phớt lờ cả cặp chân đẹp lẫn cái trò vuốt ve kia.

      Ả tuyên bố là cần phải đệ đơn xin ly hôn, điều mà ả vắn tắt điện thoại. Ả điên cuồng và chua chát. Làm sao lại có thể làm điều này đối với ả ? Và đối với Ashley Nicole, đứa con quý của họ nữa ? Ả say đắm. Cuộc sống của họ bên nhau từng tốt đẹp. Còn bây giờ chuyện như vậy.

      “Việc ly hôn phải là vấn đề,” viên luật sư , và phải là lần đầu. Tên ông ta là J. Murray Riddleton, chuyên gia về các vụ ly hôn với rất nhiều khách hàng. “Việc đó dễ dàng. Theo luật pháp bang Alabama, bà được ly hôn, có toàn quyền nuôi con, hưởng toàn bộ tài sản, tất cả.”

      “Tôi muốn đệ đơn càng nhanh càng tốt,” ả .

      “Tôi làm nó ngay vào buổi sáng mai.”

      phải mất bao nhiêu thời gian ?”

      “Chín mươi ngày. giấc ngủ trưa dài thôi.”

      Điều này làm giảm được mối lo âu của ả. "Tôi hiểu tại sao người ta lại có thể làm như vậy đối với người mà mình quý. Tôi cảm thấy bị lừa dối.” Bàn tay của Lance xoa bóp nhè ngược lên phía .

      Chuyện ly hôn là chuyện nhất trong những mối lo ngại của ả. Viên luật sư biết điều đó. Ả có thể cố tỏ ra đau đớn, nhưng điều đó lừa được ai.

      “Bà có được bao nhiêu tiền bảo hiểm sinh mạng ” Ông ta hỏi, tay lật lật đám hồ sơ.

      Ả giật nảy mình và gắt lên, “Chuyện đó có liên quan gì ?”

      “Bởi vì họ sắp sửa kiện bà để lấy lại số tiền đó. Ông ấy có chết, thưa bà Trudy. chết, có tiền bảo hiểm sinh mạng.”

      “Ông đùa đấy à.”

      .”

      “Họ thể làm vậy. Đúng ? thể nào.”

      “Nào, nào. Thực là họ làm việc đó rất nhanh chóng đấy.”

      Lance rụt tay lại và co mình trong chiếc ghế của gã. Trudy há hốc miệng với hai mắt ngân ngấn. “Họ thể.”

      Viên luật sư lấy ra tập giấy tờ mới và mở nắp bút. “Chúng ta hãy lập danh mục.”

      trả trăm ba mươi nghìn đôla cho chiếc Rolls-Royce và vẫn còn sở hữu nó. Lance dùng chiếc Porsche mà ả mua cho với giá tám mươi lăm nghìn. Ngôi nhà được mua với giá chín trăm nghìn, tiền mặt, thế chấp gì, và đứng tên Lance. Sáu mươi nghìn cho chiếc xuồng để gã buôn lậu ma túy. trăm nghìn cho những đồ trang sức của ả. Họ tính toán với các con số. Sau cùng bản danh mục này dừng lại ở con số khoảng triệu rưỡi. Viên luật sư nỡ lòng nào mà rằng những tài sản quý giá này của họ phải ra đầu tiên.

      Giống như trò nhổ răng mà dùng tới thuốc giảm đau, ông ta buộc Trudy phải ước tính tới các khoản chi tiêu hàng tháng của họ. Ả tính rằng nó vào chừng mười nghìn tháng, trong suốt bốn năm qua. Họ có những chuyến hoang phí và tiêu tiền như rác đến mức hãng bảo hiểm nào còn có gì hòng thu hồi lại được.

      Ả thất nghiệp, điều mà ả ưa gọi là nghỉ hưu. Lance hẳn đề cập tới nghề buôn lậu ma túy của gã. Họ cũng chẳng dám lộ ra, cho dù là với luật sư của mình, rằng họ cất giấu ba trăm nghìn đôla trong nhà băng ở Florida.

      “Ông nghĩ là khi nào họ khởi kiện ?”

      “Chỉ nội nhật tuần này,” viên luật sư đáp.

      thực tế việc khởi kiện đó xảy đến nhanh hơn nhiều. Vào giữa buổi họp báo, khi mà tin tức về sống lại của Patrick được công bố, các luật sư của công ty Northern Case Mutal lặng lẽ bước vào phòng tiếp nhận đơn khiếu kiện ở ngay tầng dưới và khởi kiện Trudy Lanigan để đòi lại toàn bộ hai triệu rưỡi đôla, cộng với lãi suất và tiền chi phí cho các luật sư. Đơn kiện này cũng bao gồm cả cầu xin tạm thời cấm Trudy di chuyển tài sản khi mà giờ đây ả còn là góa phụ nữa.

      Các luật sư này mang cầu đó của họ tới phòng của thẩm phán, người mà họ có trao đổi trước đó vài giờ, và trong cuộc điều trần kín khẩn cấp hoàn toàn thích đáng, vị thẩm phán này ban lệnh cấm di chuyển tài sản đối với Trudy. Là thành viên có uy tín của cộng đồng pháp lý ở đây, vị thẩm phán này rất biết về vụ Patrick Lanigan. Vợ ông ta bị Trudy làm cho mất mặt ngay sau khi ả mua chiếc Rolls-Royce đỏ rực kia.

      Trong lúc Trudy và Lance vừa sờ soạng nhau vừa bàn tính với viên luật sư của họ, bản sao của cái lệnh cấm di chuyển tài sản kia được chuyển tới Mobile và trao cho viên thư ký tòa án quận. Hai giờ sau, trong lúc họ ngồi trước hiên nhà nhìn ra vịnh Mobile và nhấm nháp ly rượu đầu tiên người chạy giấy vào đưa tận tay Trudy bản sao cái đơn kiện của công ty Northern Case Mutual, trát gọi ra hầu tòa ở Biloxi, và bản sao lệnh cấm di chuyển tài sản. Trong số những điều cấm của lệnh này, có điều cấm ả được viết tấm séc nào nữa cho đến khi tòa cho phép.

      John Grisham

      Đồng Đạo

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 7

      L uật sư Ethan Rapley rời khỏi căn phòng áp mái tối tăm của mình, tắm rửa, cạo râu, chút thuốc mắt vào hai con mắt đỏ mọng và vừa uống ly cà phê đặc vừa tìm chiếc áo khoác màu xanh nước biển còn tạm sạch để mặc vào khu trung tâm thành phố.

      mười sáu ngày nay ông ta đến văn phòng. ai nhớ đến ông ta và ông ta cũng chẳng nhớ đến bất kỳ ai ở đó. Họ gửi fax đến khi cần, và ông ta cũng trả lời bằng fax. Ông ta viết những báo cáo tóm tắt, những bản ghi nhớ và những khuyến nghị mà Hãng cần phải có để tồn tại, và ông ta làm việc này cho những người mà mình khinh bỉ. Đôi khi, ông ta cũng buộc phải thắt cavát để tiếp khách hàng hay dự cuộc hội họp ghê tởm nào đó với các đồng cổ đông. Ông ta căm ghét cái phòng làm việc của mình; căm ghét mọi người, thậm chí là cả những người mà ông ta mấy quen biết; căm ghét các cuốn sách và mọi thứ hồ sơ bàn làm việc. Ông ta căm ghét những tấm ảnh treo tường phòng làm việc, ghét mọi thứ mùi - mùi cà phê ở hành lang, mùi mực gần cái máy photocopy, mùi nước hoa của các thư ký. Mọi thứ.

      Vậy mà ông ta thấy mình gần như mỉm cười quãng đường chạy dọc theo bờ biển cuối chiều hôm đó, và gật đầu với người quen cũ trong khi bước khá nhanh phố Vieux Marche, và cũng thực đôi câu với ngưòi nhân viên lễ tân, phần tiền lương là do ông ta trả nhưng lại thể nào nhớ nổi tên họ của ta.

      Trong phòng họp là đám đông lộn xộn; hầu hết là các luật sư từ các văn phòng ở gần đó, hay hai thẩm phán và vài nhân viên tòa án. Lúc này là sau năm giờ chiều, và bầu khí là thoải mái và vui vẻ. Khói xìgà ngập trong phòng.

      Rapley tìm thấy rượu để cái bàn ở cuối phòng, và vừa chuyện với Vitrano vừa rót ly Scotch, cố tỏ ra vẻ thoải mái. Đầu phòng đằng kia, cả đống nước khoáng và nước giải khát có ga chẳng được ai màng tới.

      “Cứ thế này suốt cả buổi chiều đấy,” Vitrano trong khi họ nhìn vào đám người và lắng nghe những lời trao đổi ồn ào. “Ngay sau khi có tin là cứ nhộn cả lên.”

      Tin về Patrick loang trong cộng đồng pháp lý ở dọc bờ biển này trong khoảng thời gian chỉ tính bằng phút. Đám luật sư thường ưa bàn tán, thêm thắt, và chuyện chuyện lại với tốc độ kinh hoàng. Người ta nghe thấy những lời đồn đại, thu thập, và rồi thêm bớt. nặng chừng sáu mươi cân, được năm thứ tiếng. Tiền thấy. Tiền biệt tăm. sống trong cảnh nghèo túng. Hay là trong biệt thự gì đó? sống có mình. người vợ mới và ba đứa con. Họ biết tiền ở đâu. Họ hề có dấu vết gì. Thôi đủ cả.

      Sau cùng tất cả những lời đồn đại đều nhắm vào khoản tiền kia. Khi đám bạn bè và những người tò mò tụ tập trong căn phòng họp bàn tán chuyện này chuyện nọ, tất cả rồi đều trở lại chuyện chỗ tiền kia. Trong đám đông này có gì có thể được coi là bí mật. Từ cả mấy năm nay, mọi người đều biết là Hãng này có phần ba trong số chín mươi triệu đôla bị mất. Và chỉ cơ hội mỏng manh nhất của việc thu lại được số tiền đó cũng đủ đưa lại đám bạn bè và những người tò mò đến uống với nhau vài ly, cùng câu chuyện, lời đồn, tin tức mới nhất và câu muôn thuở, “Mẹ kiếp, tôi hy vọng là họ tìm ra chỗ tiền.”

      Rapley mất hút vào trong đám đông với ly rượu thứ ba. Bogan nhấm nháp chút nước khoáng và chuyện với vị thẩm phán. Vitrano vòng quanh, ra sức xác nhận hay phủ nhận chuyện này chuyện nọ. Havarac đứng trong góc phòng với tay phóng viên tòa án có tuổi, người đột nhiên cảm thấy ông ta là kẻ đến nỗi khờ khạo.

      Rượu vẫn tràn trề khi màn đêm buông xuống. Những hy vọng tăng lên mãi và cùng với đó là cả những lời tầm phào được nhai nhai lại.

      Patrick là tất cả tin tức truyền hình tối hôm đó của vùng bờ biển này. có mấy tin gì khác được đề cập đến. Đó là hình ảnh Mast và Parrish ngồi cứng người trước loạt micrô, như thể là họ bị lôi tới đó trái với ý muốn của mình. Hình ảnh cận cảnh khung cửa ra vào phía trước của hãng luật kia, mà có bình luận của bất kỳ ai trong đó. chút tư liệu về ngôi mộ của Patrick, cùng với những khả năng ảm đạm về điều gì có thể xảy ra đối với cái người xấu số nằm trong đó. chút hình ảnh thoáng qua về vụ tai nạn bốn năm về trước, quang cảnh trường và xác chiếc Chevy Blazer cháy nham nhở của Patrick Lanigan. có bình luận nào của người vợ, của FBI, của cảnh sát trưởng hay của những người trong cuộc, nhưng lại quá nhiều những phỏng đoán phóng túng của các phóng viên.

      Tin này cũng được đưa đậm ở New Orleans, Mobile, Jackson và thậm chí là Memphis. CNN nhặt được tin này vào khoảng giữa buổi tối và phát toàn quốc trong khoảng giờ trước khi phát ra nước ngoài. câu chuyện ly kỳ tới mức thể cưỡng lại được.

      Lúc đó là gần bảy giờ sáng, giờ Thụy Sĩ, khi Eva thấy những hình ảnh này trong phòng khách sạn. Nàng ngủ thiếp sau lúc nửa đêm mà tắt TV, và gà gà gật gật suốt đêm để chờ đợi tin tức về Patrick. Nàng mệt mỏi và sợ hãi. Nàng những muốn trở về nhà nhưng biết là thể được.

      Patrick còn sống. hứa với nàng cả trăm lần là họ giết nếu như họ có tìm được . Và đó là lần đầu tiên nàng tin .

      với họ đến đâu ? Đó là vấn đề.

      bị đánh đập đến thế nào ?

      Nàng thầm lời cầu nguyện và tạ ơn Chúa rằng Patrick vẫn còn sống.

      Thế rồi, nàng lập danh mục những việc phải làm.

      *

      **

      Dưới cái nhìn hờ hững của hai người lính gác và giúp đỡ chút đỉnh của Luis, chàng hộ lý người Puéctô Ricô, Patrick lê từng bước dọc theo hành lang với cặp chân để trần, mình mặc độc chiếc quần cộc màu trắng của lính. Những vết thương của cần tiếp xúc với khí - chứ phải là quần áo hay những lớp băng lúc này. Chỉ dầu xoa và ôxy. Hai bắp chân và đùi vẫn đau, còn đầu gối và cổ chân như muốn rụng sau mỗi bước .

      Mẹ kiếp, muốn cái đầu được tỉnh táo. sẵn sàng với nỗi đau đớn của các vết bỏng bởi vì nó làm cho đầu óc tỉnh ra. Chỉ có Chúa mới biết những thứ hóa chất tệ hại gì được tiêm vào trong máu suốt ba ngày qua.

      Cuộc tra tấn kia là cả đám sương mù dày đặc, khủng khiếp, nhưng giờ đây bắt đầu tan . Khi các hóa chất được phân giải và bị thải ra ngoài, bắt đầu nhớ lại những tiếng kêu đau đớn đó. với họ những gì về chỗ tiền kia nhỉ ?

      dựa vào bậu cửa sổ trong căngtin để trống chờ người hộ lý lấy ly nước mát. Biển ở cách xa chừng dặm, và trong khoảng giữa từ nơi đứng tới mép biển là những dãy trại lính. ở trong thứ căn cứ quân gì đó.

      Đúng, thú nhận là chỗ tiền kia vẫn còn, nhớ bởi vì những cú điện giật ngừng lại khoảnh khắc khi những lời này bật ra. Thế rồi, bây giờ nhớ lại dường như ngất bởi vì rất lâu sau đó mới tỉnh lại khi bị dội nước lạnh vào mặt. nhớ là dòng nước đó dễ chịu như thế nào, nhưng bọn họ để cho được uống.

      Các nhà băng. suýt nữa mất mạng vì những cái tên của mấy cái nhà băng trời đánh nào đó. Với dòng điện khốc nghiệt quấn quanh người, phải lần lại dấu vết của đống tiền đó, từ lúc đánh cắp nó khỏi Ngân hàng liên hiệp xứ Wales ở Bahama, tới nhà băng ở Manta, rồi tới Panama, nơi mà ai có thể tìm ra nó.

      khi họ tóm rồi còn biết tiền ở đâu nữa. Nó vẫn còn đó, tất cả, cộng với các khoản lãi suất, chắc chắn là với bọn họ như vậy, giờ nhớ, nhớ rất bởi vì tính, mẹ kiếp — họ biết là mình đánh cắp, biết là mình thể nào tiêu tán hết được chín mươi triệu đôla trong vòng bốn năm - thế nhưng biết chính xác số tiền đó ở đâu trong lúc da thịt bị thiêu đốt.

      Ngưòi hộ lý đưa cho lon xôđa và cảm ơn bằng tiếng Bồ Đào Nha. Tại sao lại bằng thứ tiếng này nhỉ?

      Thế rồi, tất cả tối sầm lại, sau khi dấu vết của khoản tiền ngừng ở đó. “Ngừng ngay!” Ai đó từ góc phòng quát lên, người mà hề nhìn thấy. Họ nghĩ là họ giết chết với dòng điện kia.

      biết là bất tỉnh trong bao lâu. Rồi tỉnh lại nhưng nhìn thấy gì cả; mồ hôi, các thứ thuốc và những tiếng gào thét làm cho trở nên mù lòa. Hay là do tấm vải bịt mắt ? Bây giờ nhớ rằng đó có thể là tấm vải bịt mắt, bởi vì bọn họ hình như sắp sửa dùng trò tra tấn ác độc mới. Có thể là chặt đứt phần thân thể. Và nằm đó, trần truồng.

      mũi tiêm nữa vào cánh tay. Đột nhiên tim đập rộn lên và da thịt nhoi nhói. Kẻ tra tấn trở lại với cái đồ chơi tay . Patrick lại nhìn được. Nào, ai giữ tiền? ta hỏi.

      Patrick uống ngụm xôđa. Ngưòi hộ lý tha thẩn gần đó, mỉm cười vẻ dễ chịu theo lối mà ta vẫn đối xử với mọi bệnh nhân. đột nhiên thấy muốn ói, mặc dù ăn rất ít. Đầu bẫng và quay cuồng, nhưng vẫn cố đứng vững để máu có thể lưu thông và có thể vẫn còn suy nghĩ được. tập trung nhìn vào chiếc tàu đánh cá xa xa phía chân trời.

      Họ làm cho ngất mấy lần, muốn được biết những cái tên. gào lên. Họ gắn cực điện vào bìu và nỗi đau tăng lên cách khủng khiếp, Thế rồi, lại ngất .

      Patrick thể nhớ nổi. tuyệt nhiên nhớ nổi giai đoạn cuối cùng của cuộc tra tấn. Thân thể nóng như thiêu. cận kề bên cái chết. gọi tên nàng, nhưng có phải chỉ là gọi thầm hay ? Giờ đây nàng ở đâu ?

      buông rơi lon xôđa và vội đưa tay ôm choàng lấy người hộ lý.

      *

      **

      Stephano đợi cho đến giờ sáng trước khi rời khỏi nhà. Lão lái chiếc xe của vợ chạy dọc đoạn phố tối trước nhà, giơ tay vẫy chào hai tay nhân viên đặc biệt ngồi trong chiếc xe van đậu ở ngã tư. Lão lái chậm lại để họ có thể quay xe và bám theo. Cho tới lúc lão vượt qua cầu Arlington Memorial ít nhất cũng có hai chiếc xe “hộ tống” phía sau.

      Đoàn xe này băng qua những phố vắng ngắt tới Georgetown. Stephano có cái lợi thế là biết bản thân mình đâu. Lão quặt phải đột ngột từ phố K vào phố Wisconsin và rẽ vào phố M. Lão đậu xe bất hợp lệ cách nhanh nhẹn, và bộ nửa khúc phố tới khách sạn Holiday Inn.

      Lão dùng thang máy lên tầng ba, nơi Guy đợi trong căn hộ sang trọng. Lần đầu tiên trở về Mỹ sau nhiều tháng trời nhưng ta ngủ rất ít trong ba ngày qua. Stephano cũng nôn nóng kém.

      Có sáu cuộn băng, tất cả đều được dán tên và đặt gọn gàng bàn, cạnh cái máy ghi chạy bằng pin. "Các phòng kế bên đều trống ,” Guy vừa vừa chỉ tay về cả hai phía. “Bởi vậy, ông có thể nghe với lượng đủ lớn.”

      “Tôi nghĩ chắc là ghê sợ lắm,” Stephano , mắt liếc nhìn đống băng.

      “Khủng khiếp. Tôi bao giờ làm trò này nữa.”

      “Bây giờ có thể .”

      “Tốt quá. Tôi ở bên dưới trong trường hợp ông cần đến.”

      Guy ra khỏi phòng. Stephano gọi cú điện thoại, và phút sau đó, Benny Aricia gõ cửa. Họ gọi cà phê đen, và dành cả phần còn lại của đêm hôm đó để nghe những tiếng gào thét của Patrick trong cánh rừng ở Paragoay.

      Đó là giờ phút thư thái nhất của Benny.

      John Grisham

      Đồng Đạo


      Chương 8

      N ếu ngày hôm đó là ngày của Patrick báo chí cũng là chưa hết lời. Tờ nhật báo Bờ biển đăng gì trang nhất, ngoài những tin về Patrick.

      LANIGAN TỪ CÕI CHẾT TRỞ VỀ

      Đó là dòng tít lớn với những chữ in đậm. Bốn bài với dưới sáu tấm ảnh choán hết trang nhất tờ báo và còn tiếp tục ở các trang trong. cũng chiếm phần quan trọng trang nhất các báo ở New Orleans, thành phố quê hương , và ở Jackson, Mobile, Memphis, Birmingham, Baton Rouge, còn báo chí Atlanta cũng đăng những tấm ảnh của Patrick trước đây cùng với những bài trang nhất.

      Suốt cả buổi sáng, hai chiếc xe truyền hình luôn túc trực bên ngoài ngôi nhà của bà mẹ ở Gretna, vùng ngoại ô của New Orleans. Bà có gì để , và được bảo vệ bởi hai người đàn bà hăng hái ở cuối phố, thay phiên nhau canh chừng đám kền kền.

      Đám báo chí cũng tụ tập gần cửa trước ngôi nhà của Trudy ở Point Clear, nhưng bị Lance, ngồi dưới bóng cây với khẩu súng ngắn, buộc phải giữ khoảng cách nhất định. Trong chiếc áo đen bó chặt, quần đen và đôi giày cao cổ cũng đen, trông rất giống với tên lính đánh thuê. Thế nhưng, chỉ giữ bộ mặt cau có. Trudy trốn biệt trong nhà với Ashley Nicole, bé sáu tuổi này được mẹ đưa học ở trường.

      Họ kéo tới trước văn phòng hãng luật ở trung tâm thành phố và chờ đợi bên hè đường. Hai nhân viên bảo vệ lực lưỡng, mới được đưa tới đây, từ chối cho họ vào bên trong.

      Họ lảng vảng xung quanh văn phòng cảnh sát trưởng, và văn phòng của Cutter, cũng như bất kỳ chỗ nào khác mà họ thoáng đánh hơi thấy điều gì đó. người trong bọn họ nhận được tin báo và họ kéo lại phòng làm việc của viên thư ký tòa án kịp lúc để thấy Vitrano, trong bộ complê màu xám bảnh bao nhất, trao cho viên thư ký văn kiện mà ông ta là đơn kiện của Hãng đối với Patrick S.Lanigan. Đơn giản là Hãng muốn lấy lại phần tiền của mình, và Vitrano hoàn toàn sẵn sàng thảo luận vấn đề này với báo chí chừng nào mà ông ta còn thấy có người nghe mình.

      Đó quả là buổi sáng của những kiện tụng. Viên luật sư của Trudy tiết lộ cái tin giật gân là vào lúc mười giờ sáng, ông ta đến văn phòng thư ký tòa án ở Mobile để nộp lá đơn xin ly hôn. Ông ta làm công việc của mình cách đáng khâm phục. Dẫu rằng cả nghìn lần nộp những lá đơn xin ly hôn, nhưng đây là lần đầu tiên ông ta làm việc này trước nhóm phóng viên truyền hình. Cuối cùng, ông ta cũng miễn cưỡng đồng ý trả lời phỏng vấn. Lý do của vụ ly hôn là việc bị bỏ rơi, và lá đơn tố cáo mọi loại tội lỗi ghê tởm.

      Tin đồn lan nhanh về vụ kiện ngày hôm trước, trong đó công ty Northern Case Mutual kiện Trudy Lanigan để đòi lại hai triệu rưỡi đôla. Hồ sơ của tòa án bị soi mói để tìm kiếm các chi tiết. Các luật sư có liên quan bị dò hỏi. tiết lộ chỗ này, lời vô tình chỗ kia, và chẳng mấy chốc, cả chục phóng viên biết rằng Trudy được viết tấm séc nào nữa, dù chỉ là để trả tiền chợ, nếu được phép của tòa án.

      Hãng Monarch-Sierra muốn đòi lại bốn triệu đôla và tất nhiên là cả tiền lãi cùng chi phí cho các luật sư nữa. Các luật sư của hãng ở Biloxi vội vã cùng nhau khởi kiện hãng luật để đòi lại số tiền bảo hiểm phải chi ra và kiện Patrick về tội lừa đảo. Và như trở thành thông lệ, báo chí được rỉ tai, và hàng chục bản sao đơn kiện này được tung ra chỉ ít phút sau khi nó được nộp lên tòa án.

      có gì ngạc nhiên là Benny Aricia muốn lấy lại được chín mươi triệu đôla của ông ta từ tay Patrick. Luật sư mới của ông ta, tay rất khoa trương, lại có lập trường khác trong việc đối xử với báo chí. Tay luật sư này tổ chức cuộc họp báo vào lúc mười giờ sáng, và mời tất cả mọi người vào căn phòng họp rộng thênh thang của y để thảo luận về mọi khía cạnh tầm thường có liên quan tới sách của thân chủ của y trước khi y đệ đơn kiện. Thế rồi, y mời đám bạn bè mới trong giới báo chí cùng bộ tới tòa án để nộp đơn, vừa vừa liên hồi.

      Vụ bắt giữ Patrick Lanigan gây ra mớ công việc pháp lý ở vùng bờ biển này nhiều hơn bất kỳ vụ việc nào khác trong lịch sử gần đây.

      *

      **

      Trong lúc công việc ở Tòa án quận Harrison quay cuồng gần như phát rồ, mười bảy thành viên của hội thẩm đoàn lặng lẽ vào căn phòng có biển đề gì cả tầng hai của tòa nhà. Họ nhận được những cú điện thoại khẩn cấp trong đêm của chính ông ủy viên công tố quận T.L.Parrish. Họ biết nội dung của cuộc họp này. Họ uống cà phê và ngồi vào những chiếc ghế được dành riêng cho mình quanh chiếc bàn dài. Họ sốt ruột, thậm chí là nôn nóng muốn được lọt ngay vào giữa cơn bão.

      Parrish chào hỏi và xin lỗi về cuộc họp khẩn cấp này, rồi quay ra hoan nghênh cảnh sát trưởng Sweeney và tay điều tra viên chính của ông ta, Ted Grimshaw, cùng nhân viên đặc biệt Joshua Cutter. “Có vẻ là chúng ta đột nhiên đứng trước vụ giết người mới tinh,” ông ta vừa vừa mở tờ báo buổi sáng. “Tôi tin rằng tất cả quý vị đều đọc bài này.” Tất cả cùng gật đầu.

      lại chậm rãi dọc theo bức tường, với cặp hồ sơ trong tay, Parrish thuật lại những điểm chính: Lai lịch Patrick; việc hãng luật của đại diện cho Benny Aricia; cái chết giờ được biết là giả mạo của Patrick; đám tang của ; hầu hết các chi tiết mà họ đọc thấy trong tờ báo mà Parrish ném bàn.

      Ông ta để mọi người chuyền nhau xem những bức ảnh chụp chiếc Blazer cháy rụi của Patrick, cảnh trường sáng hôm sau khi còn chiếc xe ở đó nữa, cảnh đám cây cỏ cháy nham nhở. Và hoàn toàn đột ngột, Parrish chìa ra những tấm ảnh màu cỡ 18/24 chụp thi thể của nạn nhân duy nhất trong chiếc Blazer.

      "Tất nhiên, chúng ta từng nghĩ đó là Patrick Lanigan,” ông ta với nụ cười. “Giờ đây, chúng ta biết là mình nhầm.”

      có cái gì ở cái khối đen thui đó có thể gợi ý rằng đó là thi hài của con người. phân biệt được phần thân thể nào, ngoại trừ mẩu xương nhợt nhạt nhô ra mà Parrish trịnh trọng giải thích là phần khung xương chậu. “Xương chậu của con người,” ông ta nhấn mạnh để ngừa trường hợp các hội thẩm của ông ta nhầm lẫn và tưởng rằng có lẽ Patrick giết chết con lợn hay con gì đó.

      Các hội thẩm đều hiểu , chủ yếu là vì thấy gì mấy từ những tấm ảnh kia. có máu me be bét gì cả. có gì để phải cảm thấy ghê sợ. Tất cả đều bị thiêu rụi.

      “Tất nhiên, đây là vụ cháy xăng,” Parrish giải thích. “Chúng ta biết là Patrick đổ đầy bình xăng ở cách đó tám dặm, vậy là hai mươi galông xăng bùng nổ. tóm lại, nhân viên điều tra của chúng ta lưu ý rằng ngọn lửa có vẻ nóng và dữ dội cách khác thường.”

      “Có tìm thấy mảnh của bất kỳ thứ bao đựng gì đó trong xe ?” hội thẩm hỏi.

      . Những bao nilông luôn được dùng trong những đám cháy như thế này. Những bao đựng sữa hoặc những bao chống đóng băng có vẻ được đám thủ phạm loại này ưa chuộng. Chúng để lại dấu vết nào. Chúng ta luôn thấy điều đó, dù rằng là hiếm hoi trong vụ cháy xe.”

      “Các thi thể cũng luôn luôn ở tình trạng tồi tệ như thế này ư ?” hội thẩm khác hỏi.

      Parrish đáp nhanh, “, thực . thẳng là tôi chưa bao giờ nhìn thấy cái xác bị đốt cháy đến thế này. Chúng tôi hẳn cố gắng khai quật, nhưng, như quý vị có thể biết, thi hài này bị hỏa thiêu.”

      “Có mong manh biết đó là ai ?” Ronny Burker, công nhân ở bến tàu, hỏi.

      “Chúng tôi có nghĩ đến người, nhưng mới chỉ là phỏng đoán.”

      Còn những câu hỏi về điều này điều khác, có ý nghĩa gì mà chỉ là những tò mò với hy vọng được biết thêm điều gì đó từ cuộc họp này mà báo chí tới. Họ nhất trí biểu quyết truy tố Patrick về tội giết người, hành vi phạm tội xảy ra trong khi thực hành vi tội phạm khác, cụ thể là tội đánh cắp. Có thể trừng phạt với án tử hình, bằng cách tiêm thuốc độc, tại nhà tù bang ở Parchman.

      Chỉ trong vòng chưa đầy hai mươi tư giờ, Patrick bị truy tố với án tử hình, bị đưa ra tòa đòi ly hôn, bị kiện về chín mươi triệu đôla bởi Aricia, bị kiện về ba mươi triệu đôla bởi chính các cổ đông trong hãng luật của và bị kiện về bốn triệu đôla cùng mười triệu đôla tiền phạt bởi hãng bảo hiểm Monarch-Sierra.

      biết tất cả, nhờ CNN.

      Các công tố viên, T.L.Parrish và Maurice Mast, lại lần nữa đứng trước các ống kính máy thu hình và cùng nhau tuyên bố, mặc dù Liên bang có liên quan gì tới vụ truy tố này, rằng các công dân lương thiện của quận Harrison, qua hội thẩm đoàn của mình, nhanh chóng đưa ra những lời buộc tội đối với Patrick Lanigan, kẻ giết người. Họ lảng tránh những câu hỏi mà họ thể trả lời, chộp lấy những câu mà họ có thể, và ngụ ý cách ràng rằng còn có thêm những lời buộc tội khác.

      Khi đám truyền hình bỏ , hai người lặng lẽ có cuộc gặp với Karl Huskey, trong ba vị thẩm phán của quận Harrison, và cũng là người bạn gần gũi của Patrick, trước khi “biến ”. Các vụ kiện tụng thường phải được phân bổ cách ngẫu nhiên, thế nhưng Huskey, cũng như các thẩm phán khác, biết cách phải thao túng tay thư ký tiếp nhận khiếu kiện như thế nào để có thể thụ lý hoặc thụ lý vụ án cụ thể. Lúc này, Huskey muốn thụ lý vụ Patrick.

      *

      **

      Trong lúc mình ăn miếng xanđuých ở trong bếp, Lance chợt thấy cái gì đó vụt qua ở đằng sân sau, gần bể bơi. Gã chộp lấy khẩu súng ngắn, nhàng ra khỏi nhà, quành sau đám bụi cây trước hiên, và phát ra tay săn ảnh ngồi chồm hỗm bên căn phòng thay quần áo với ba cái máy ảnh to tướng lủng lẳng trước ngực. Lance, hờm sẵn súng trong tay, rón rén tiến lại cách sau lưng người kia chừng chưa đầy mét. áp tới, kề khẩu súng vào gần đầu chàng với cái nòng súng chĩa lên trời và bóp cò.

      Tay săn ảnh ngã sấp mặt về đằng trước, kêu váng, và đè nghiến lên mấy cái máy ảnh. Lance đá túi bụi vào chỗ giữa hai đùi nạn nhân của gã, và vẫn tiếp tục đá khi tay kia xoay ngửa người lên và sau cùng cũng nhận ra được kẻ tấn công.

      Lance giật lấy ba cái máy ảnh và quẳng chúng xuống nước. Trudy đứng ở trong nhà nhìn ra, sợ hãi. Lance quát ả gọi cho cảnh sát.

      John Grisham

      Đồng Đạo


      Chương 9

      B ây giờ tôi nạo bỏ lớp da chết,” ngưòi bác sĩ nhàng thăm dò vết thương ngực Patrick với dụng cụ có đầu nhọn. “Tôi nghĩ rằng nên cần tới chút thuốc giảm đau.”

      , xin cảm ơn,” Patrick . ngồi giường, trần truồng, trong lúc bác sĩ, hai y tá và Luis, chàng hộ lý người Puéctô Ricô, bận rộn xung quanh.

      đau đấy, Patrick,” người bác sĩ .

      “Tôi trải qua những thứ khủng khiếp hơn. Vả lại, ông còn làm tôi đau vào đâu được ?” vừa hỏi vừa nâng cánh tay trái lên. Đầy những vết tím bầm do tay bác sĩ người Braxin kia hành hạ . Toàn thân đầy những vết bầm và những vết sẹo. “Còn thuốc thôi ”

      “Cũng được. Tùy ý .”

      Patrick ngả người ra và nắm chặt lấy hai bên thành giường. Các y tá và Luis giữ hai cổ chân trong khi người bác sĩ bắt đầu nạo lớp da bị bỏng độ ba ngực . Với lưỡi dao mổ, ông ta tách lớp da chết ra khỏi vết thương và cắt bỏ nó .

      Patrick nghiến răng và nhắm mắt lại.

      mũi tiêm chứ hả, Patrick ?” Người bác sĩ hỏi.

      ,” gằn giọng.

      Thêm những đường dao. Thêm những lớp da chết.

      “Những vết thương này lành lại rất tốt, Patrick. Tôi có ý nghĩ rằng rốt cuộc có lẽ cũng cần đến việc ghép da đâu.”

      “Tốt quá,” và lại nghiến chặt hai hàm răng.

      Bốn vết bỏng là khá nghiêm trọng đủ để xếp vào độ ba; hai ở ngực, bên đùi trái và ở bắp chân phải. Những vết dây trói nghiến các cổ tay, khuỷu tay và cổ chân vẫn còn tấy và được bôi kín bằng thuốc mỡ.

      Người bác sĩ kết thúc công việc sau khoảng nửa giờ, và có lời khuyên rằng tốt nhất là nên nằm bất động, quần áo hay băng bó gì, ít nhất là trong lúc này. Ông ta bôi lên chút mỡ kháng sinh, và lần nữa đưa ra đề nghị dùng thuốc giảm đau. Patrick cũng lại lần nữa từ chối.

      Người bác sĩ cùng hai y tá ra, và Luis cũng bước theo vài bước đủ để tiễn họ. Sau đó, ta đóng cửa lại và kéo những tấm rèm xuống. Từ bên dưới vạt áo choàng trắng, ta lấy ra chiếc máy ảnh hiệu Kodak có đèn chớp, loại dùng lần.

      “Bắt đầu ở đó,” Patrick , tay chỉ về phía cuối giường. “Chụp lấy toàn thân, kể cả mặt tôi nhé.” Luis giơ chiếc máy ảnh lên đầu, loay hoay, lùi vào sát tường, rồi nhấn nút. Đèn nhoáng lên.

      “Lại , vẫn từ đó,” Patrick chỉ đạo.

      Luis làm theo. Thoạt đầu, ta muốn dính vào việc này, rằng phải xin ý kiến sếp của mình. Tuy nhiên, sống vùng biên giới Paragoay, Patrick chỉ hoàn thiện được vốn tiếng Bồ Đào Nha, mà còn cũng học được tương đối khá tiếng Tây Ban Nha. có thể hiểu gần như mọi điều mà Luis còn Luis khó khăn hơn trong việc hiểu Patrick.

      Ngôn ngữ của đồng tiền thắng thế, với việc sau cùng Luis hiểu ra rằng ta được đề nghị làm công việc của người thợ ảnh để đổi lấy năm trăm đôla. ta đồng ý mua ba chiếc máy ảnh loại dùng lần, chụp gần trăm kiểu, mang phim rửa hôm sau lấy, giấu chúng ở xa bệnh viện cho tới khi có cầu tiếp theo.

      Patrick có năm trăm đôla trong người, nhưng thuyết phục được Luis rằng người lương thiện, bất chấp những gì mà ta có thể nghe được về , và rằng gửi trả số tiền đó ngay khi nào về được tới nhà.

      Luis phải là thợ ảnh, nhưng cái trong tay ta cũng lại chẳng phải là chiếc máy ảnh ghê gớm gì. Patrick điều khiển từng kiểu chụp. Có những kiểu cận cảnh chụp các vết bỏng nghiêm trọng ngực và đùi , có những kiểu toàn cảnh lấy từ mọi góc độ. Họ làm việc rất nhanh chóng để khỏi bị bắt gặp. gần tới giờ thăm bệnh của các nữ y tá với những biểu theo dõi và những tiếng líu lo ngớt.

      Luis rời bệnh viện vào giờ nghỉ ăn trưa và quẳng những cuốn phim vào hiệu ảnh.

      Tại Rio, Osmar thuyết phục được nữ thư ký lương thấp tại hãng luật của Eva nhận nghìn đôla tiền mặt để đổi lấy tất cả những lời bàn tán có trong nội bộ hãng. có gì nhiều. Các cổ đông dường như hoàn toàn im lặng. Tuy nhiên, các lưu trữ về liên lạc điện thoại cho thấy có hai cú điện thoại gọi từ số máy ở Zurich tới Hãng. Đó là khách sạn, Guy xác định từ Oasinhtơn, nhưng có thêm được thông tin gì khác. Những người Thụy Sĩ rất kín đáo.

      Các cổ đông của Hãng còn kiên nhẫn được với mất tăm mất tích của nàng. bàn tán thầm của họ nhanh chóng biến thành các cuộc họp hàng ngày về việc phải làm gì. Nàng có gọi lần trong ngày đầu tiên, lần trong ngày thứ hai, thế rồi im bặt. thể nào kiểm chứng được về người khách hàng bí mà nàng bay để gặp. Trong khi đó, các khách hàng đàng hoàng của nàng đưa ra những đòi hỏi và những đe dọa. Nàng lỡ hẹn, lỡ các cuộc gặp và lỡ các thời hạn.

      Sau cùng, họ quyết định tạm thời đưa nàng ra khỏi danh sách nhân viên của Hãng và xử trí sau khi nàng trở về.

      Osmar và người của ta hù dọa cha của Eva đến mức ông già tội nghiệp thể nào ngủ được. Họ giám sát ngay ngoài hành lang căn hộ của ông, bám theo ông đường và dọc theo hè phố đông đúc của Ipanema. có những ý định bắt cóc ông, hành hạ ông chút và bắt ông phải , thế nhưng ông cảnh giác và bao giờ để mình bị dồn vào chỗ vắng vẻ.

      Cho tới lần thứ ba mò tới phòng ngủ của Trudy, sau cùng Lance thấy là cửa chốt. Gã nhàng bước vào với viên Valium nữa và chai nước khoáng ưa thích của ả ta, loại nhập khẩu từ Ailen, giá bốn đôla chai, ngồi xuống bên giường và lời, chìa viên thuốc ra. Ả ta bỏ nó vào miệng, lần thứ hai trong vòng giờ, và uống nước.

      Chiếc xe cảnh sát chở theo tay săn ảnh khốn khổ rời cách đó giờ. Hai viên cảnh sát còn ở lại thêm chừng hai mươi phút, hỏi han vài câu, chẳng sốt sắng muốn buộc tội gì bởi vì vụ việc liên quan đến tài sản tư nhân, báo chí được cầu tránh xa, và dù sao chăng nữa tạp chí của tay kia lại là tờ báo đứng đắn ở tuốt luốt mạn miền Bắc. Đám cảnh sát này có vẻ như thông cảm, thậm chí còn kính trọng cái cách mà Lance xử lý. Họ được cho biết tên viên luật sư của Trudy trong thành phố, ngừa trường hợp có những tố cáo. Lance đe dọa đưa ra những tố cáo của chính gã nếu gã bị lôi ra tòa.

      Trudy cáu cẳn sau khi họ bỏ . Ả ta ném những cái gối từ chiếc xôpha vào lò sưởi trong khi người vú em ôm đứa chạy ra ngoài. Ả buông ra những lời tục tằn với Lance bởi vì gã là đối tượng ở gần nhất. Tất cả chẳng qua chỉ là vì quá nhiều chuyện - tin tức về Patrick, vụ kiện của hãng bảo hiểm, lệnh cấm của tòa án, đám chim ăn xác thối chầu chực ngoài kia, và rồi vụ Lance hành hung tay săn ảnh ngoài bể bơi.

      Nhưng lúc này Trudy yên lặng. Lance cũng uống viên Valium, và thở phào nhõm khi thấy ả bình tĩnh lại. Gã muốn động vào ả, vuốt ve cái đầu gốỉ và lời âu yếm gì đó, thế nhưng gã biết kiểu đó bao giờ có tác dụng trong những trường hợp như thế này. cử chỉ đúng là ả lại gắt lên. Rồi nguôi , nhưng là theo cái cách của chính ả mà thôi.

      Trudy ngả người giường, mắt nhắm lại, vắt tay ngang trán. Căn phòng mờ tối, cũng giống như cả phần còn lại của ngôi nhà do những rèm cửa được kéo kín. Có cả trăm người lảng vảng ngoài kia, chụp ảnh và quay những thước phim để sử dụng cùng những câu chuyện đáng ghét về Patrick. Vào tầm trưa, ả nhìn thấy ngôi nhà của mình Chương trình thời truyền hình của địa phương, với mụ đàn bà ngu ngốc mặt nom như quả cam và những cái răng to tướng về Patrick thế này, Patrick thế kia và về lá đơn ly hôn mà vợ của Patrick đưa ra tòa ngay trong buổi sáng hôm đó.

      Vợ của Patrick! Cái ý nghĩ đó làm cho Trudy thể chịu nổi. Ả còn là vợ của gần bốn năm rưỡi nay. Ả chôn cất chồng đâu vào đấy, rồi cố quên trong lúc chờ đợi khoản tiền bảo hiểm. Nhận xong tiền chỉ còn là ký ức mờ nhạt.

      Khoảnh khắc đau đớn duy nhất đến khi ả ngồi xuống với Ashley Nicole để thông báo với đứa trẻ mới có hai tuổi đầu rằng cha nó còn nữa, rằng cha nó tới chốn thiên đường, nơi mà nhất định là cha nó có được hạnh phúc hơn. Đứa trẻ sững ra lúc và rồi lập tức quên khuấy. ai được phép nhắc đến tên Patrick trước mặt Ashley. Mẹ nó giải thích là để bảo vệ cho nó. Con bé nhớ tới cha, vậy xin đừng buộc nó phải nhớ.

      Ngoài chuyện đó ra, Trucỉy mang cái gánh nặng góa phụ với lòng kiên cường đáng kể. Ả mua sắm ở New Orleans, đặt mua những thực phẩm tốt từ California, đổ mồ hôi hai giờ ngày trong phòng tập thể dục, lui tới những thẩm mỹ viện đắt giá để chăm sóc cho gương mặt và thân thể mình. Trudy cũng thuê vú em cho đứa trẻ để có thể cùng Lance đây đó. Họ thích vùng Caribê, nhất là hòn đảo St.Barts với những bãi tắm truồng của nó, nơi họ có thể cởi hết ra và vênh váo với đám người Pháp.

      Nôen ở New York, tại khách sạn Plaza. Tháng Giêng lại ở Vail với đám người đẹp và giàu có. Tháng Năm có thể là Paris và Viên. Họ thèm muốn chiếc máy bay phản lực riêng giống như số con người tuyệt vời mà họ gặp trong cái giới ăn chơi này. chiếc Lear cũ có thể mua được với giá triệu đôla, nhưng giờ còn thể nào tính đến chuyện đó.

      Lance là gã nghĩ về điều này, và bất kỳ khi nào gã trở nên nghiêm túc về chuyện làm ăn là Trudy lại lo ngại. Ả biết gã buôn lậu ma túy, nhưng chỉ là mấy thứ nhảm nhí từ Mêhicô và nguy hiểm cho lắm. Họ cần phải có tiền, và thỉnh thoảng ả cũng muốn ra khỏi nhà.

      Trudy ghét Patrick, lẫn cả cái người chết kia. Ả chỉ ghét cái ta chết, rằng sống lại và trở về làm đảo lộn mọi thứ. Ả gặp lần đầu tiên trong bữa tiệc ở New Orleans, đúng vào thời gian mà ả hờn giận Lance và muốn tìm người chồng, nhất là người có tiền và có triển vọng. Lúc đó, ả hai mươi bảy, trải qua bốn năm hôn nhân tồi tệ và muốn có ổn định. ta ba mươi ba, còn độc thân và sẵn sàng cho đời sống gia đình. vừa mới nhận chỗ làm việc tại hãng tử tế ở Biloxi, nơi ả sống lúc đó. Sau bốn tháng tình ái liên miên, họ cưới nhau ở Giamaica. Ba tuần sau tuần trăng mật, Lance lẻn vào căn hộ mới của họ và qua đêm ở đó trong khi Patrick công chuyện vắng.

      Trudy thể để mất chỗ tiền đó, chắc chắn là thế. Viên luật sư của ả cần phải làm việc gì đó, tìm ra kẽ hở pháp lý nào đó để ả có thể giữ lại được tiền. Đó chính là việc mà ông ta được trả công để làm. Tất nhiên là cái hãng bảo hiểm kia thể lấy ngôi nhà, đồ đạc, xe cộ và quần áo, các tài khoản nhà băng, cái xuồng và những thứ xa xỉ mà ả mua bằng đồng tiền ấy. Đơn giản là điều đó công bằng. Patrick chết. Ả chôn cất góa phụ từ hơn bốn năm nay. Điều đó phải có giá của nó.

      Việc còn sống phải là lỗi của ả.

      “Em biết , chúng ta phải giết ,” Lance trong khung cảnh nửa sáng nửa tối. Gã chuyển sang ngồi cái ghế đệm đặt giữa giường và cửa sổ, chân duỗi dài ra.

      Trudy nhúc nhích, hề có vẻ ngần ngại gì, nhưng suy tính trong giây trước khi lên tiếng, “Đừng có ngu ngốc.” Ả với vẻ mấy quả quyết.

      còn lựa chọn nào khác, em biết đấy.”

      “Chúng ta đủ rắc rối rồi.”

      Ngoài hơi thở đều đều, tay ả vẫn để nguyên trán, mắt nhắm, hoàn toàn bất động, và lòng vui mừng rằng Lance nêu vấn đề. Tất nhiên, chính ả cũng nghĩ tới điều này ngay chỉ ít phút sau khi được biết rằng Patrick trở về. Ả dượt dượt lại nhiều kịch bản khác nhau, tất cả đều chỉ dẫn đến cùng kết luận thể nào khác: để giữ lại được tiền, Patrick phải chết lần nữa. Rốt cuộc đó là tiền bảo hiểm cho sinh mạng của .

      thể giết ; đó là điều trớ trêu. Thế nhưng Lance khác. có nhiều mốỉ quen biết ám muội với thế giới ngầm.

      “Em muốn giữ lại được tiền, phải nào?" Gã hỏi.

      “Lúc này em thể nghĩ tới chuyện đó, Lance. Có thể là lúc nào khác.” Ả thể tỏ ra sốt sắng, nếu Lance lập tức bị kích động. Như thường lệ, ả thao túng gã, từ từ đưa gã vào mưu ma quỷ để khi gã nhận ra quá muộn.

      thể chờ đợi quá lâu đâu em. Mẹ kiếp, cái hãng bảo hiểm kia bắt đầu siết cổ chúng ta rồi.”

      “Nào, Lance.”

      còn cách nào khác. Em muốn giữ được ngôi nhà này, tiền bạc, mọi thứ chúng ta có, vậy ta phải chết.”

      Ả im lặng hồi lâu, khoan khoái với những lời nghe được. Cho dù chỉ có nửa cái đầu và nhiều khiếm khuyết khác, Lance là gã đàn ông duy nhất mà ả thực đem lòng . Gã đủ tàn bạo để lo chuyện Patrick, thế nhưng liệu gã có đủ thông minh để khỏi bị tóm ?

      Tên của tay nhân viên đặc biệt đó là Brent Myers, từ văn phòng Biloxi, do Cutter phái đến để tiếp xúc với đối tượng của họ. ta tự giới thiệu và chìa tấm thẻ ra trước mặt Patrick, người khó mà kịp nhìn gì đó trong khi tay còn với cái điều khiển TV. “Rất hân hạnh,” vừa vừa kéo mền phủ lên chiếc quần cộc.

      “Tôi từ văn phòng ở Biloxi tới,” Myers , cố tỏ ra dễ chịu.

      “Chỗ đó ở đâu nhỉ ?” Patrick hỏi, mặt lạnh như tiền.

      “Chà, tôi nghĩ là chúng ta cần làm quen. Chúng ta còn phải gặp nhau nhiều trong vài tháng tới.”

      “Đừng có chắc như vậy.”

      “ Ông có luật sư riêng ?”

      “Chưa.”

      “Ông có ý định thuê ?”

      “Đó tuyệt nhiên phải là việc của ông.”

      Myers hiển nhiên thể đối đáp lại được với luật sư từng trải như Lanigan. ta tì tay xuống đầu giường và nhìn chằm chặp vào , vẻ hăm dọa. “Bác sĩ là ông có thể sẵn sàng cho việc di chuyển trong hai ngày nữa.”

      “Ra vậy. Tôi sẵn sàng rồi.”

      có cả cuộc liên hoan đợi ông ở Biloxi đấy.”

      “Tôi có thấy,” Patrick và hất hàm về phía chiếc TV.

      “Tôi cho là ông muốn trả lời vài câu hỏi.”

      Patrick xì mũi khinh bỉ trước cái gợi ý lố bịch đó.

      “Tôi nghĩ là vậy,” Myers , và bước bước về phía cửa. “Dù sao chăng nữa tôi cũng hộ tống ông trở về.” ta ném lại tấm danh thiếp lên mặt giường. “Đây là số máy ở khách sạn của tôi, nếu như ông có muốn chuyện."

      “Đừng có chờ máy.”

      John Grisham

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Đồng Đạo


      Chương 10

      S andy McDermott đọc rất chăm chú những bài viết về vụ tìm ra người bạn cũ từ hồi ở trường luật của mình. Sandy và Patrick học và chơi với nhau suốt ba năm ở Tulane. Họ giúp việc cho cùng viên thẩm phán, sau khi tốt nghiệp, và có nhiều giờ ngồi với nhau trong cái quán ưa thích của họ ở phố Charles để bàn tính kế hoạch tiến sâu vào thế giới pháp lý. Họ cùng nhau xây dựng hãng luật — hãng nhưng hùng mạnh của những luật sư đắt giá với phẩm hạnh hoàn hảo. Họ trở nên giàu có, và hiến mười giờ tháng cho những khách hàng thể có tiền để trả. Tất cả đều được tính toán.

      Cuộc đời can thiệp vào kế hoạch của họ. Sandy nhận chân phụ tá công tố viên Liên bang, chủ yếu là bởi đồng lương cao và lại mới cưới vợ. Patrick mất tăm mất tích trong cái hãng có tới hai trăm luật sư ở trung tâm New Orleans. Hôn nhân cũng đến với bởi làm việc tới tám mươi giờ tuần.

      Kế hoạch về hãng hoàn hảo ấy kéo dài cho đến khi họ bước vào tuổi ba mươi. Bất kỳ khi nào có thể, họ lại cố gắng gặp nhau - trong bữa ăn trưa vội vàng hay cùng uống chút gì đó, dù rằng các cuộc gặp mặt và các cú điện thoại ngày thưa theo năm tháng. Thế rồi, Patrick bỏ kiếm cuộc sống yên ổn hơn ở Biloxi, và họ chuyện được với nhau nổi lần, từ lâu rồi.

      vụ vớ bở lớn của Sandy trong nghề thày cãi diễn ra khi bạn của người em họ bị thương dàn khoan dầu ở ngoài khơi vùng Vịnh, và trở nên tàn tật. Sandy vay mười nghìn đôla, tiến hành vụ làm ăn riêng, kiện Exxon và thu được gần ba triệu đôla, trong đó giữ lại phần ba cho mình. Vậy là vào cuộc. có Patrick, gây dựng hãng luật với ba luật sư, chuyên về những thương tật và chết chóc ngoài khơi.

      Khi Patrick chết, Sandy ngồi xuống bên cuốn lịch và nhận ra rằng chín tháng qua mình hề trò chuyện với bạn. Tất nhiên là Sandy thấy áy náy về chuyện đó, thế nhưng lại cũng là người có đầu óc thực tế. Giống như hầu hết những người bạn học khác, đơn giản là họ theo những con đường riêng của mình.

      có mặt bên Trudy suốt lễ tang, và chung tay khiêng quan tài ra mộ.

      Khi khoản tiền kia biến mất sáu tuần lễ sau đó, và những lời xầm xì bắt đầu, Sandy cười phá lên với mình và cầu mong cho bạn may mắn. Chạy , Patrick, chạy , nghĩ vậy bao lần trong bốn năm qua, và luôn luôn với nụ cười.

      Văn phòng của Sandy ở ngay phố Poydras, trong tòa nhà đẹp thời thế kỷ XIX mà mua được sau vụ khiếu kiện. Sandy cho thuê tầng hai và tầng ba, giữ tầng trệt cho bản thân mình và hai cộng , ba người giúp việc cùng dăm bảy thư ký.

      Sandy rất bận khi thư ký bước vào với bộ mặt bực dọc và , “Có quý đến để gặp ông.”

      ta có hẹn ?” Sandy hỏi và đưa mắt nhìn tấm lịch công việc trong ngày, trong tuần và trong tháng đặt ở mép bàn.

      . ta là chuyện gấp. ta chịu . Chuỵện về Patrick Lanigan.”

      nhìn thư ký với vẻ dò hỏi. “ ta tự giới thiệu là luật sư,” thư ký tiếp.

      ta từ đâu tới ?”

      “Braxin.”

      “Braxin à ?”

      “Vâng.”

      “Trông có giống người Braxin ?"

      “Tôi đoán là đúng.”

      “Đưa ta vào.”

      Sandy đón nàng ở cửa và chào hỏi nồng nhiệt. Eva tên nàng là Leah, và gì thêm.

      “Tôi nghe được tên họ của ,” Sandy , mặt vẫn tươi cười.

      ‘Tôi dùng họ,” nàng đáp. “Chưa đúng hơn.”

      Hẳn là điều riêng có ở Braxin, Sandy nghĩ. Giống như Pelé, tay cầu thủ bóng đá. Chỉ có độc tên mà có họ.

      Sandy đưa nàng tới chiếc ghế ở góc phòng và gọi cà phê. Nàng hơi cúi người, từ từ ngồi xuống. liếc nhanh cặp chân nàng. Nàng ăn mặc bình thường, có gì gây chú ý. ngồi đối diện nàng, ngang qua chiếc bàn dùng uống cà phê, và chú ý tới cặp mắt nàng - cặp mắt đẹp, phớt nâu, nhưng đầy vẻ mệt mỏi. Mái tóc đen dài của nàng buông xuống quá vai.

      Patrick luôn có con mắt sành sỏi. Trudy xứng đôi, nhưng nàng này chắc hẳn có thể làm người đường phải dừng lại.

      “Tôi tới đây thay mặt cho Patrick,” nàng , thoáng chút ngập ngừng.

      ta bảo đến ư ?" Sandy hỏi.

      “Vâng, đúng thế.”

      Nàng chậm rãi, lời lẽ mềm mại và giọng rất .

      học ở Mỹ à ?” hỏi.

      “Vâng. Tôi có bằng luật của trường Georgetown. "

      Điều đó giải thích cho thứ tiếng kiểu Mỹ gần như hoàn hảo của nàng.

      “Và hành nghề ở đây chứ ?”

      “Trong hãng luật ở Rio. Công việc của tôi là thương mại quốc tế.”

      Nàng vẫn chưa nở nụ cười nào và điều đó làm cho Sandy phiền lòng. người khách từ xa đến. Mà khách lại là xinh đẹp, có đầu óc, và cặp chân tuyệt vời. muốn nàng được thư giãn với bầu khí nồng ấm trong văn phòng của mình. Dù sao chăng nữa đây cũng là New Orleans.

      “Đó là nơi gặp Patrick à ?”

      “Vâng, ở Rio.”

      có liên lạc với ta kể từ … ”

      . Kể từ khi ấy bị người ta bắt ” Thiếu chút nữa nàng thêm rằng nàng lo lắng đến tuyệt vọng về , nhưng có lẽ vậy phải là thích hợp. Nàng muốn bộc lộ nhiều ở đây; bộc lộ gì về mối quan hệ của nàng với Patrick. Sandy McDermott có thể là đáng tin cậy, nhưng phải chuyển thông tin cho ta với nhũng liều lượng thích hợp.

      thoáng tạm ngừng trong khi cả hai người đều nhìn chỗ khác, và linh tính mách bảo Sandy rằng còn nhiều Chương nữa mà ta bao giờ đọc dược trong câu chuyện này. Thế nhưng, à phải, những câu hỏi ! ta đánh cắp số tiền đó bằng cách nào? Làm sao tới được Braxin ? quen biết với nàng như thế nào ? Và cái câu hỏi lớn: Chỗ tiền đó ở đâu ?

      “Vậy tôi được giúp gì đây?” Sandy hỏi.

      “Tôi muốn thuê ông, cho Patrick.”

      “Sẵn sàng.”

      “Lòng tin là điều cần thiết.”

      “Luôn là thế.”

      “Chuyện này khác.”

      Đúng thế. Khác ở chỗ nó liên quan tới chín mưdi triệu đôla.

      " Tôi bảo đảm với rằng bất kỳ điều gì và Patrick với tôi được giữ kín tuyệt đối,” Sandy với cái cười trấn an và nàng cũng cố đáp lại bằng nụ cười rất .

      “Có thể ông bị bức bách để tiết lộ những bí mật của khách hàng,” nàng .

      “Tôi lo ngại về điều đó. Tôi có thể tự bảo vệ mình.”

      “Ông có thể bị đe dọa.”

      “Trước đây tôi từng bị đe dọa.”

      “Ông có thể bị theo dõi.”

      “Bởi ai vậy ?”

      “Những kẻ rất tàn bạo.”

      “Ai cơ ?”

      “Những kẻ săn lùng Patrick.”

      “Tôi nghĩ là họ bắt được ấy rồi."

      “Đúng, nhưng tiền chưa.”

      ‘Tôi hiểu.” Vậy là tiền vẫn ở đâu đó: có gì đáng ngạc nhiên, về điều này Sandy, cũng như bất kỳ ai khác, đều hiểu rằng Patrick thể nào tiêu hết số tiền đó trong vẻn vẹn có bốn năm trời. Nhưng mà còn lại bao nhiêu ?

      “Tiền ở đâu ?” Sandy uớm hỏi, hề chờ đợi câu trả lời.

      “Ông thể hỏi câu hỏi đó được ?”

      tôi vừa hỏi.”

      Leah mỉm cười, và nhanh chóng tiếp tục. “Chúng ta hãy dàn xếp số chi tiết. Tiền phải trả cho ông là bao nhiêu ?”

      “Định thuê tôi vào việc gì ?”

      “Biện hộ cho Patrick.”

      “Về những tội gì ? Theo như báo chí, phải mất cả sư đoàn các luật sư để làm việc đó”.

      trăm nghìn đôla ?”

      “Đủ cho những bước khởi đầu. Tôi phải làm cả về mảng dân lẫn hình phải ?”

      “Tất cả.”

      “Chỉ mình tôi sao ?”

      “Phải. ấy muốn luật sư nào khác.”

      “Tôi rất xúc động,” Sandy cách lòng. Có đến hàng tá luật sư mà lúc này Patrick có thể nghĩ đến, những luật sư có tiếng tăm hơn và nhiều kinh nghiệm về các án tử hình hơn, những luật sư quen biết lớn ở vùng bờ biển, những luật sư trong các hãng lớn hơn với nguồn tài lực hùng hậu hơn, và hẳn là nghi ngờ gì, còn cả những luật sư từng là bạn bè gần gũi hơn so với Sandy trong tám năm qua.

      “Được, tôi nhận lời,” Sandy quả quyết. “Patrick là bạn cũ, biết đấy.”

      “Tôi biết.”

      ta biết đến mức nào ? Sandy thầm nghĩ. Phải chăng nàng chỉ là luật sư?

      “Tôi muốn chuyển tiền đến trong ngày hôm nay,” nàng . “Nếu như ông có thể cho tôi những chỉ dẫn về việc này.”

      ‘Tất nhiên. Tôi chuẩn bị hợp đồng cho các dịch vụ pháp lý.”

      “Còn vài vấn đề khác mà Patrick lo ngại. là về dư luận. ấy muốn ông gì với báo chí hết. bao giờ. lời. họp báo gì cả trừ phi chính ấy tán thành. Thậm chí cả cái câu bình luận nữa.”

      có vấn đề gì.”

      “Ông được viết sách về chuyện này sau khi vụ việc chấm dứt.”

      Sandy thực cười phá lên, nhưng nàng thấy có gì đáng cười. “Tôi nghĩ đến chuyện đó.”

      ấy muốn điều đó được ghi vào hợp đồng.”

      Sandy bặt tiếng cười và ghi lại vào sổ. “Còn gì nữa ?”

      “Còn, ông có thể tính tới việc văn phòng và nhà ở của ông bị nghe trộm. Ông cần thuê chuyên gia về theo dõi để bảo vệ cho ông. Patrick sẵn sàng trả tiền cho việc này.”

      “Xong."

      “Và tốt nhất là chúng ta gặp lại nhau ở đây nữa. Có những người muốn tìm kiếm tôi, bởi vì họ nghĩ là tôi có thể dẫn họ tới chỗ tiền kia. Do vậy, chúng ta gặp nhau ở những nơi khác.”

      có gì để Sandy có thể về chuyện này. muốn giúp đỡ, muốn che chở, muốn hỏi nàng xem nàng đâu và trốn thế nào, thế nhưng có vẻ như mọi việc đều hoàn toàn nằm dưới kiểm soát của Leah.

      Nàng nhìn đồng hồ. “Có chuyến bay Miami sau ba giờ nữa. Tôi có hai vé hạng nhất. Chúng ta có thể chuyện máy bay.”

      “Chà, tôi phải đâu vậy ?”

      “Ông bay tiếp San Juan, để gặp Patrick. Tôi dàn xếp.”

      “Còn ?”

      “Tôi hướng khác.”

      Sandy gọi thêm cà phê và bánh ngọt trong khi họ chờ đợi hoàn tất những chỉ dẫn chuyển tiền. Thư ký hủy mọi cuộc hẹn và mọi xuất trước tòa của Sandy trong ba ngày tới. Vợ mang túi hành lý của đến văn phòng.

      phụ tá chở họ ra sân bay, và đường Sandy chợt nhận ra rằng nàng hề có hành lý gì ngoài chiếc túi da màu nâu cũ nhưng còn rất đẹp.

      ngụ tại đâu ?” Sandy hỏi trong lúc họ uống côca trong phòng ăn ở sân bay.

      “Chỗ này chỗ kia,” nàng đáp, mắt nhìn ra cửa sổ.

      "Tôi liên hệ với như thế nào ?”

      “Chúng ta tính chuyện đó sau.”

      Họ ngồi cạnh nhau ở hàng ghế thứ ba trong khoang hạng nhất, và trong hai mươi phút đầu tiên sau khi cất cánh, nàng hề gì, mắt dán vào tờ tạp chí thời trang còn Sandy cố gắng đọc tập lời khai dày cộp. muốn chuyện, muốn xổ ra hàng chuỗi câu hỏi, những câu hỏi mà tất cả những người khác đều thốt ra.

      Thế nhưng, như có cả bức tường chắn giữa họ, bức tường khá dày và hề liên quan tới giới tính hay quen biết. Nàng có những câu trả lời, nhưng hoàn toàn muốn giữ kín và Sandy phải cố hết sức để có được lạnh lùng như của nàng.

      Lạc rang muối và bánh quy mặn được đưa tới. Họ từ chối ly sâmbanh kèm theo mà chỉ lấy mấy chai nước.

      " Vậy biết Patrick bao lâu rồi ?” Sandy dè dặt lên tiếng.

      “Ông hỏi làm gì vậy ?”

      “Xin lỗi. Nhưng mà có thể chút gì với tôi về những chuyện xảy ra với Patrick trong bốn năm qua ? Dù sao tôi cũng là người bạn cũ. Và là luật sư của ấy. thể cho tôi là tò mò được.”

      “Ông phải hỏi ấy thôi,” nàng , với chút ngọt ngào, và quay trở lại với tờ tạp chí. Sandy cố ngồi nhấm nháp mấy hạt lạc.

      Nàng chờ cho đến khi họ sắp hạ cánh xuống Miami mới lên tiếng. Nàng nhanh, và ràng là chuẩn bị chu đáo. “Tôi gặp lại ông trong ít ngày tới. Tôi phải liên tục di chuyển vì có những người muốn bám theo tôi. Patrick đưa ra cho ông những cầu và trong lúc này ấy và tôi liên hệ với nhau thông qua ông. Hãy để ý đến những gì bất thường. người lạ điện thoại. chiếc xe ở phía sau. Ai đó lảng vảng quanh văn phòng ông. khi ông được xác nhận là luật sư của ấy, ông thu hút những người tìm kiếm tôi.”

      “Họ là ai ?”

      “Patrick cho ông biết.”

      giữ tiền phải ?”

      “Tôi thể trả lời câu hỏi đó.”

      Sandy nhìn những đám mây đến gần hơn dưới cánh máy bay. Tất nhiên là khoản tiền đó sinh sôi. Patrick phải là thằng ngốc. ta hẳn cất tiền trong nhà băng ngoại quốc nào đó, nơi mà những bàn tay chuyên nghiệp xử lý nó. Có khả năng phải có lời ít ra là mười hai phần trăm năm.

      còn trao đổi gì nữa cho tới lúc máy bay hạ cánh. Họ nhanh chóng vào để Sandy còn kịp chuyến bay San Juan. Nàng bắt chặt tay , “Bảo với Patrick là tôi khỏe.”

      ấy hỏi ở đâu.”

      “Châu u.”

      nhìn theo bóng nàng mất hút vào trong đám đông hành khách và thầm ghen với người bạn cũ. Ngần ấy tiền. Và đẹp, đầy quyến rũ, lại có học.

      Tiếng loa gọi lên máy bay làm Sandy bừng tỉnh. ta lắc lắc cái đầu và tự hỏi làm sao mà mình lại đâm ghen ti với người đứng trước cái khả năng phải nằm tù trong mười năm tới để đợi đến lượt bị hành quyết và cả trăm luật sư đói khát nôn nóng muốn lột da để tìm kiếm số tiền kia.

      Ghen mới chả tị ! ngồi vào ghế, lại hạng nhất, và bắt đầu cảm thấy mức độ nghiêm trọng của việc đại diện cho Patrick.

      Eva ngồi tăcxi quay lại cái khách sạn sang trọng ở South Beach, nơi nàng ngủ đêm qua. Nàng ở đó trong vài ngày, tùy thuộc vào chuyện xảy ra ở Biloxi. Patrick bảo nàng phải luôn di chuyển, và ở lại nơi nào quá bốn ngày. Nàng thuê phòng dưới cái tên Leah Pires, và lúc này thẻ tín dụng loại sang được cấp cho nàng với cái tên đó. Địa chỉ của nàng là ở São Paulơ.

      Nàng nhanh chóng thay đồ và ra bãi biển. là tầm giữa chiều, bãi đông nghịt và điều đó rất phù hợp với nàng. Những bãi biển của nàng ở Rio cũng đông, nhưng luôn luôn có bạn bè ở đâu đó. Giờ đây, nàng là ngưòi lạ, đẹp vô danh trong bộ đồ tắm xíu tắm nắng. Nàng những muốn trở về nhà.

      John Grisham

      Đồng Đạo


      Chương 11

      S andy phải mất tiếng đồng hồ mới vượt được qua những bức tường rào của cái căn cứ hải quân kia. Tay khách hàng mới này của làm cho mọi chuyện thành khó khăn. Dường như có ai biết là đến. Sandy buộc phải dựa vào cái trò quen thuộc của đám luật sư: đe dọa về những khiếu kiện ngay lập tức, đe dọa về những cú điện thoại đáng ngại gọi tới các Thượng nghị sĩ và những người khác ở các cương vị cao, và những phàn nàn to tiếng, cáu giận về tất cả những kiểu vi phạm quyền công dân … đến được văn phòng bệnh viện vào lúc chập tối, và lo ngại gặp tuyến phòng thủ khác. Thế nhưng, lần này y tá đó chỉ ngay cho phòng Patrick.

      Phòng tối mò, chỉ có ánh sáng của cái TV treo cao ở góc phòng và bị tắt phần tiếng - trận bóng đá diễn ra ở Braxin. Hai người bạn học cũ bắt tay thân ái. Họ nhìn thấy nhau trong sáu năm qua. Patrick vẫn để tấm mền kéo tới tận cằm, che những vết thương. Trong khoảnh khắc, trận bóng đá kia dường như còn quan trọng hơn cả việc chuyện trò của họ.

      Nếu như Sandy hy vọng về cuộc tái ngộ nồng nhiệt phải nhanh chóng làm quen với cái gì đó bình thản hơn. Trong khi cố săm soi quá đáng, vẫn quan sát kỹ gương mặt Patrick. gương mặt gầy, gần như là hốc hác, với cái cằm mới, vuông vắn, cùng cái mũi nhọn hơn. có thể cho là ai khác đấy, nhưng trừ cặp mắt. Và giọng thể nào nhầm được.

      “Cảm ơn đến đây,” Patrick . Giọng rất , như thể là việc năng đòi hỏi rất nhiều nỗ lực và tư duy vậy.

      “Có gì đâu. biết đấy, tôi được có mấy lựa chọn. bạn của đầy sức thuyết phục.”

      Patrick nhắm mắt và mím môi lại. ngầm tạ ơn Chúa. Nàng vẫn ở ngoài đó và chưa sao cả.

      ấy trả bao nhiêu ?” hỏi.

      trăm nghìn.”

      “Tốt,” Patrick cộc lốc, và thêm gì nữa. phút im lặng kéo dài, và Sandy dần dần nhận ra rằng cuộc trao đổi của họ còn bị ngắt quãng bởi những khoảng im lặng như thế.

      ấy ổn cả,” . “ ấy là phụ nữ xinh đẹp, rất khôn ngoan và luôn làm chủ mọi tình thế. Nếu như muốn biết."

      "Cảm ơn."

      "Lần cuối gặp ấy là khi nào ?"

      " Vài tuần rồi. Tôi còn biết thời gian ra sao nữa."

      " ấy là vợ, bạn , nhân tình, điếm … ”

      "Luật sư."

      “Luật sư à ?” *

      "Phải, luật sư.” Sandy cảm thấy buồn cười. Patrick lại ngừng bặt, lời, cử động. Vài phút trôi qua, Sandy ngồi xuống cái ghế duy nhất trong phòng, chấp nhận chờ đợi. Patrick lại trôi vào thế giới khủng khiếp, nơi những con sói rình rập, và nếu muốn nằm đó và nhìn lên trần nhà cũng chẳng sao đối với Sandy. Họ còn nhiều thời gian để chuyện. Và thiếu gì chủ đề.

      vẫn còn sống, và ngay lúc này chuyện gì quan trọng hơn thế. Sandy buồn cười khi nhớ lại những hình ảnh về buổi tang lễ và mai táng kia, về cái quan tài được hạ xuống trong ngày lạnh giá và u ám, về lời cầu nguyện của vị linh mục cùng những tiếng sụt sùi được kìm lại của Trudy. là buồn cười khi nghĩ tới chuyện thằng cha Patrick này mình ngọn cây cách đó xa để nhìn họ khóc thương , như báo chí ra rả suốt ba ngày nay.

      Chừng mực nào đó đúng là nằm yên chỗ, rồi cuỗm chỗ tiền kia. Có người gục ngã khi họ tới tuổi bốn mươi. Cuộc khủng hoảng ở đoạn giữa này đưa họ tới người vợ mới, hoặc trở lại ghế nhà trường. Thế nhưng phải là với thằng bạn Patrick này.

      chào đón thời điểm đó bằng việc tự giết mình, thó chín mươi triệu đôla, rồi biến.

      Cái xác chết trong xe đột nhiên làm cho câu chuyện còn cười được nữa, và Sandy muốn bắt đầu. “Có cả ủy ban tiếp đón chờ đấy. Patrick”.

      “Ai là chủ tịch vậy ?”

      biết. Trudy đệ đơn xin ly hôn hai ngày trước đây, nhưng đó chỉ là chuyện nhất trong những rắc rối của thôi.”

      đúng đấy. Để tôi đoán xem nào, chắc là ta muốn được nửa số tiền.”

      ta muốn nhiều thứ. Hội thẩm đoàn truy tố về tội giết người. Bang chứ phải là Liên bang.”

      “Tôi có biết qua TV.”

      “Tốt. Nghĩa là biết về tất cả các khiếu kiện.”

      “Phải. CNN rất mẫn cán trong việc cập nhật tin tức cho tôi."

      thể trách cứ họ được, Patrick. Đó là câu chuyện lạ lùng.”

      “Cảm ơn.”

      “Khi nào muốn chuyện ?"

      Patrick xoay người và ngó ngang qua Sandy. có gì để nhìn ngoài bức tường trắng toát, thế nhưng phải là nhìn vào đó. “Họ tra tấn tôi, Sandy." , giọng trầm, và như muốn tắc nghẹn.

      “Ai ?"

      “Họ gắn dây khắp người tôi và tra điện cho tới khi tôi phải mở miệng.”

      Sandy đứng dậy và bước đến bên giường, đặt tay lên vai Patrick. “ với họ những gì?”

      “Tôi biết. Tôi thể nào nhớ được tất cả. Họ tiêm các loại thuốc. Đây, xem này.” nâng cánh tay trái lên để Sandy có thể kiểm tra các vết tím bầm.

      Sandy tìm thấy công tắc và bật ngọn đèn bàn để có thể nhìn được . “Lạy Chúa,” kêu lên.

      “Họ đeo riết về chỗ tiền kia,” Patrick . “Tôi ngất rồi tỉnh lại, để họ lại tra điện nhiều lần nữa. Sandy, tôi sợ rằng tôi với họ về ấy.”

      luật sư ấy ư ?”

      “Phải, luật sư. ấy tên với thế nào ?”

      “Leah.”

      “Được, tốt. Vậy tên ấy là Leah. Có thể là tôi với họ về Leah. Thực ra, tôi gần như chắc chắn rằng tôi .”

      với ai, Patrick ?”

      nhắm mắt lại và nhăn mặt với cơn đau ở chân. từ từ xoay người nằm ngửa ra và kéo tấm mền xuống ngang hông. “Nhìn này, Sandy,” vừa vừa huơ tay hai vết bỏng ngực. “Đây là bằng chứng.”

      Sandy nhích gần lại chút và xem xét - những vết tấy đỏ, bao quanh là phần da được gọt . " Ai làm chuyện này ?”

      "Tôi biết. nhóm người. Họ đứng chật cả căn phòng.”

      “Ở đâu ?"

      Patrick cảm thấy buồn cho bạn. ta nôn nóng muốn biết chuyện gì xảy ra, chứ phải là chỉ về cuộc tra tấn. Sandy, cũng như tất cả, nóng lòng muốn biết những chi tiết. Quả thực là câu chuyện ly kỳ, thế nhưng dám chắc là có thể kể được bao nhiêu. ai biết các chi tiết của vụ đâm xe và cái xác bị thiêu cháy trong đó. Thế nhưng, chỉ có thể kể với người luật sư, và là bạn của , về việc bị bắt và bị tra tấn. Hai ngày nay dùng tới thuốc, phải vật lộn với đau đớn và rất cố để tránh phải chịu thêm những mũi tiêm khác nữa. “Kéo ghế gần lại và ngồi xuống, Sandy. Và tắt đèn . ánh sáng làm tôi khó chịu.”

      Sandy lập tức làm theo. ngồi sát bên giường. “Đây là những chuyện mà họ làm đối với tôi, Sandy.” Patrick trong bóng tối lờ mờ. bắt đầu từ Ponta Porã, với việc tập chạy và chiếc xe bị xẹp lốp, và kể lại toàn bộ việc họ bắt được như thế nào.

      *

      **

      Ashley Nicole được hai mươi lăm tháng tuổi khi ngươi ta chôn cất cha bé. Nó còn quá để có thể nhớ được Patrick. Lance là người đàn ông duy nhất sống trong nhà, người đàn ông duy nhất mà con bé thấy ở gần gũi bên mẹ. Thỉnh thoảng, gã đưa con bé tới trường. Thỉnh thoảng, họ cùng ăn tối với nhau như gia đình.

      Sau tang lễ, Trudy cất biệt tất cả những tấm ảnh và những bằng chứng khác về liên quan của con bé với Patrick. Ashley Nicole còn bao giờ nghe thấy tên cha nữa.

      Thế nhưng ba ngày nay, khi các phóng viên chầu chực ở phố nhà họ, việc đứa con có những câu hỏi cũng là điều tự nhiên. Mẹ nó có vẻ là lạ. căng thẳng bao quanh ngôi nhà lên tới mức con bé sáu tuổi cũng cảm thấy là bình thường. Trudy chờ lúc Lance gặp luật sư rồi mới mang con bé vào trong giường chuyện.

      Người mẹ bắt đầu bằng việc thú nhận rằng qua đời chồng. Thực ra là ả từng có hai đám cưới nhưng cho rằng Ashley Nicole cần phải biết về người chồng đầu tiên, ít ra cho tới khi nó lớn hơn . Người chồng thứ hai chính là vấn đề tại.

      “Patrick và mẹ sống với nhau được bốn năm, thế rồi ông ấy làm việc rất xấu.”

      “Việc gì ?” Ashley Nicole hỏi, mắt mở to, tỏ ra lắng nghe hơn là Trudy mong muốn.

      “Ông ấy giết chết người, rồi làm cho có vẻ như vụ đâm xe, con biết đấy, vụ cháy lớn. Và lại cháy đúng chiếc xe của Patrick. Cảnh sát tìm thấy cái xác ở trong xe, và họ cho rằng đó là ông ấy. Mọi người đều tin như vậy. Patrick chết, bị cháy trong xe, và mẹ rất đau buồn. Ông ấy là chồng của mẹ. Mẹ rất ông ấy, thế mà đột nhiên ông ấy lại ra . Mẹ cùng mọi người chôn cất ông ấy ở nghĩa địa. Giờ đây, sau bốn năm trời, người ta tìm thấy Patrick trốn ở tận nơi chân trời góc bể. Hóa ra là ông ấy chạy trốn.”

      “Nhưng vì sao cơ chứ ?”

      “Bởi vì ông ấy đánh cắp khoản tiền của bạn bè, và bởi vì ông ấy là người rất xấu nên muốn giữ tất cả khoản tiền ấy cho riêng mình.”

      “ Ông ấy giết người và ăn cắp tiền.”

      “Đúng thế, con bé bỏng. Patrick phải là người tốt.”

      “Con lấy làm tiếc là mẹ cưới ông ấy.”

      “Phải. Nhưng này, con ạ, có điều con cần phải hiểu. Con đựợc sinh ra trong lúc Patrick và mẹ là vợ chồng.” Ả bỏ lửng câu và quan sát cặp mắt thơ ngây kia xem con bé có hiểu ý . ràng là . Ả nắm chặt tay Ashley Nicole và , “Patrick là cha con đấy.”

      Con bé nhìn chằm chằm vào mẹ, bối rối. “Nhưng con muốn ông ấy là … ”

      “Mẹ xin lỗi, con . Mẹ khi nào con lớn hơn, nhưng giờ đây Patrick sắp trở về, và điều quan trọng là con phải được biết.”

      “Còn Lance sao ? ông ấy có phải là cha con ?”

      . Lance và mẹ chỉ sống với nhau, thế thôi.” Trudy chưa bao giờ cho phép con bé coi Lance như cha nó. Và Lance, về phần gã, cũng chưa bao giờ tỏ ra có chút lưu tâm nào trong việc trở thành người cha. Trudy là người mẹ đơn độc. Ashley Nicole có cha. Đó là điều bình thường và có thể chấp nhận được.

      “Lance và mẹ là bạn với nhau từ lâu,” Trudy , giành phần chủ động và ngăn chặn hàng nghìn câu hỏi có thể có. “Bạn rất thân. Ông ấy rất con, nhưng phải là cha con. Mẹ lấy làm tiếc rằng Patrick mới là người sinh ra con, nhưng mẹ muốn con phải nghĩ đến ông ấy.”

      “Ông ấy có muốn gặp con ?”

      “Mẹ biết, nhưng mẹ đấu tranh để cho ông ấy đến gần con. Ông ấy là người xấu, con ạ. Ông ấy bỏ khi con mới có hai tuổi đầu. Ông ấy bỏ mẹ. Ông ấy ăn cắp khoản tiền và biến mất. Khi đó ông ấy lo cho mẹ con mình và bây giờ cũng lo cho mẹ con mình đâu. Ông ấy trở về nếu như bị họ bắt được. Bởi vậy đừng có nghĩ tới Patrick và việc ông ấy có thể làm gì.”

      Ashley Nicole bò tới cuối giường và thu mình trong lòng mẹ. Trudy ôm chặt và nựng con bé. “Rồi mọi chuyện ổn, con bé bỏng. Mẹ hứa như vậy đấy. Mẹ muốn với con chuyện này, nhưng với những người phóng viên ngoài kia và những thứ TV nữa, phải, mẹ nghĩ ra là tốt nhất.”

      “Vì sao mọi người lại kéo đến ngoài kia thế ?” Con bé hỏi, tụm chặt lấy hai cánh tay mẹ.

      “Mẹ biết. Mẹ muốn họ .”

      “Họ muốn gì hả ?”

      “Những tấm ảnh của con. Những tấm ảnh của mẹ. Những tấm ảnh mà họ có thể đưa lên mặt báo khi họ viết về Patrick và tất cả những chuyện xấu xa mà ông ấy làm.”

      “Nghĩa là vì Patrick mà họ kéo đến đây ?”

      “Phải, con ạ.”

      Con bé ngoảnh lại và nhìn thẳng vào mắt Trudy, rồi , “Con ghét Patrick lắm.”

      Trudy lắc lắc đầu như thể đó chỉ là những lời vớ vẩn của trẻ con, thế rồi chị ta ôm chặt con vào lòng, và mỉm cười.

      Lance sinh ra và lớn lên ở Point Cadet, cộng đồng ngư dân lâu đời nằm bán đảo chìa ra vịnh Biloxi. Đó là khu lao động, nơi mà những người nhập cư cặp bờ và những người đánh bắt tôm sinh sống. Gã lớn lên những đường phố của Point Cadet, và vẫn còn nhiều bạn bè ở đó, mà Cap là . Chính Cap là ngưòi cầm lái chiếc van chở đầy cần sa khi cảnh sát chống ma túy chặn xe lại. Họ đánh thức Lance, ngủ vùi giữa đống gai dầu với khẩu súng trong tay. Cap và Lance thuê chung luật sư và cùng chịu án tù như nhau ở tuổi mười chín.

      Cap mở quán rượu và cho những người thợ ở xưởng đóng đồ hộp vay nặng lãi. Lance ngồi uống với ở phía sau quán, ít ra là mỗi tháng lần, mặc dù Cap càng ngày càng ít gặp Lance, khi mà giờ đây Trudy trở nên giàu có và họ chuyển tới Mobile. Bạn gặp rắc rối. Cap đọc thấy báo, và chờ đợi Lance tới với bộ mặt ủ ê, tìm kiếm thông cảm.

      Chúng vừa uống bia vừa tới những chuyện đồn đại - ai được bao nhiêu ở các sòng bạc, nguồn ma túy mới nhất là chỗ nào, ai bị cơ quan phòng chống ma túy để ý - những chuyện tầm phào tẻ ngắt của những kẻ vô công rồi nghề nhưng vẫn mơ làm giàu ở vùng bờ biển này.

      Cap khinh bỉ Trudy, và trước đây thường nhạo báng Lance về việc cứ bám theo ả tới những nơi mà ả có thể đến. “Sao, con điếm ấy thế nào ?” hỏi.

      “Khỏe. Nhưng mày biết đấy, ả lo ngại từ khi người ta tóm được tay kia.”

      ả lo là đúng. Ả kiếm được bao nhiêu tiền bảo hiểm hả ?”

      vài triệu.”

      “Báo chí là hai triệu rưỡi. Tuy nhiên, với cái cách mà ả tiêu tiền tao nghĩ cũng chẳng còn lại được bao nhiêu.”

      “Cũng ổn.”

      “ Ổn cái đít tao đây này. Báo chí là ả bị công ty bảo hiểm kia khởi kiện.”

      " bọn này cũng có luật sư.”

      “Phải, mày tới đây vì mày có các luật sư đâu, phải nào ? Mày mò tới đây là vì mày cần giúp đỡ. Các luật sư thể làm được cái điều mà ả cần.”

      Lance cười và nhấp ngụm bia. Gã đốt điếu thuốc, việc mà gã dám làm khi có mặt Trudy. "Zeke đâu ?"

      "Tao đoán đúng mà,” Cap bực tức . “ ả gặp rắc rối, tiền của ả bị đe dọa, và do vậy ả bảo mày tới đây tìm Zeke hoặc tay đao búa nào khác mà chúng mày có thể mồi chài để làm chuyện ngu ngốc gì đó. Nó bị tóm. Mày bị tóm. Mày chịu đòn còn ả quên mày . Mày là thằng ngu, Lance, mày biết chứ.”

      “Phải, tao biết. Zeke đâu ?”

      "Trong tù.”

      “Ở đâu ?"

      "Texas. Bọn Liên bang túm được nó buôn lậu súng. Mày ngu lắm. Đừng làm chuyện này. Khi họ mang tay kia về đám cảnh sát bu xung quanh . Họ giam biệt ở đâu đó, ngay cả bà mẹ của cũng đừng hòng được gặp. Chuyện này dính đến tiền bạc lớn, Lance. Mày biết là họ phải bảo vệ cho đến khi gục và khai ra nơi giấu tiền. Mày toan chơi mày phải hạ nửa tá cảnh sát, và chết trước.”

      đâu, nếu biết cách chơi.”

      “Và tao cho rằng mày biết cách. Phải chăng nó là có thể, bởi vì mày chưa từng làm cái gì tương tự thế này hả ? Mày trở nên ngon lành từ bao giờ vậy ?”

      “Tao có thể tìm đúng người.”

      “Với giá bao nhiêu ?”

      “Bất chấp.”

      “Mày có năm chục nghìn ?"

      “Được.”

      Cap hít hơi sâu và liếc quanh quán. Thế rồi chồm tới hai khuỷu tay và nhìn thẳng vào mặt thằng bạn. “Để tao cho mày biết vì sao chuyện này là thể được, Lance. Mày biết là chưa bao giờ mày là thằng thông minh cả. Bọn đàn bà con luôn thích mày chỉ bởi cái vẻ duyên dáng bề ngoài, còn mày chưa bao giờ là người có đầu óc cả.”

      “Cảm ơn, ông bạn.”

      “Mọi người đều muốn tay kia phải sống. Nghĩ kỹ xem. Mọi người. Đám Liên bang. Đám luật sư. Đám cảnh sát. Thằng cha bị mất tiền nữa. Tất cả. Duy chỉ trừ cái con điếm cho mày sống cùng trong nhà. ả muốn phải chết. Nếu mày làm chuyện này, và cứ cho là mày hạ được , cảnh sát xộc thẳng tới chỗ ả. Dĩ nhiên, ả hoàn toàn vô tội bởi vì có mày hứng hết. Đó là trò cho những con rối. chết. ả giữ được tiền, thứ mà mày và tao đều biết, là mối quan tâm duy nhất của ả, và mày trở lại Parchman bởi vì mày có tiền án, nhớ chứ ? Cho cả phần còn lại của cuộc đời. Thậm chí, ả chẳng cả viết thư cho mày đâu.”

      “Với năm chục chúng ta có thể lo được chuyện này ?"

      “Chúng ta ?”

      “Phải. Tao và mày.”

      “Tao có thể cho mày cái tên nào, vậy thôi. Tao dây vào chuyện này. được đâu, và tao cũng chẳng được gì.”

      “Ai vậy ?”

      thằng cha từ New Orleans. Đôi lúc loanh quanh ở đây.”

      “Mày có thể làm cú phôn được ?”

      “Được, nhưng chỉ thế thôi đấy. Và nhớ là tao bảo mày đừng có dây vào chuyện này.”

      John Grisham

      Đồng Đạo


      Chương 12

      E va rời Miami chuyến bay New York, và từ đó nàng lên tiếp chiếc Concorde bay Paris. Bay bằng Concorde quả là hoang phí, nhưng biết làm sao khi mà giờ đây nàng phải tự coi mình là phụ nữ giàu có. Từ Paris Nice, rồi từ đó chạy xe băng ngang qua các vùng nông thôn tới thị trấn Aix ở Provence - hành trình mà nàng và Patrick gần năm về trước. Đó là lần duy nhất rời khỏi Braxin. sợ phải qua các biên giới, cho dù là với cuốn hộ chiếu giả hoàn hảo.

      Người Braxin thích mọi thuộc về nước Pháp, và hầu như tất cả những người có học đều biết tiếng Pháp và biết về văn hóa Pháp. Họ thuê phòng ở Villa Gallici, khách sạn xinh xắn ở ngoại ô thị trấn, và dành cả tuần lễ dạo chơi các đường phố, mua sắm, ăn uống và đôi lần mò tới tận những ngôi làng nằm giữa Aix và Avignon. Họ cũng dành nhiều thời gian với nhau ở trong phòng, giống như những đôi tân hôn. có lần sau khi uống khá nhiều rượu vang, Patrick gọi đó là tuần trăng mật của họ.

      Nàng tìm được căn phòng hơn ở cùng khách sạn đó, và sau giấc ngủ ngắn, nàng ra ngồi uống trà ngoài hiên trong chiếc áo tắm. Thế rồi, nàng khoác lên người bộ đồ jeans và vào trong phố, tới đường Cours Mirabeau, đại lộ chính của Aix. Nàng nhấm nháp ly vang đỏ trong quán cà phê đông nguời ngay hè phố và ngắm nhìn đám học sinh trung học qua lại từng đàn. Nàng phát ghen với những đôi tình nhân trẻ, dạo lang thang, tay trong tay, và có gì để phải lo ngại. Nàng và Patrick cũng từng di dạo như vậy, tay trong tay, vẫn cười , như thể là còn ai nhớ tới nữa vậy.

      Chính là ở Aix, trong cái tuần lễ duy nhất ấy khi họ được ở bên nhau mà bị ai quấy rầy, lần đầu tiên nàng nhận ra rằng ít ngủ đến thế nào. Bất kỳ lúc nào nàng tỉnh giấc, đều cũng thức, nằm im và nhìn nàng chằm chặp như thể nàng bị nguy hiểm rình rập. ngọn đèn bàn để sáng. Phòng tối khi nàng ngủ, thế nhưng ngọn đèn khi nàng tỉnh giấc. thường tắt đèn, dịu dàng ve vuốt nàng cho đến lúc nàng ngủ thiếp , rồi bản thân cũng ngủ chừng nửa tiếng trước khi lại bật đèn lên. dậy từ lâu trước lúc bình minh, và cho đến lúc nàng nhàng bước ra để thấy ngoài hiên đọc xong vài tờ báo hoặc dăm Chương của cuốn tiểu thuyết trinh thám.

      " bao giờ quá hai tiếng,” trả lời khi nàng hỏi về thời gian ngủ của . Hiếm khi ngủ trưa còn buổi tối, bao giờ lên giường sớm cả.

      mang vũ khí trong người và cũng nhòm ngó xung quanh. nghi ngờ quá mức đối với những người lạ. hiếm khi về cuộc sống trốn tránh của mình và ngoại trừ thói quen ngủ nghê ra dường như hoàn toàn bình thường dến mức nàng thường quên mất rằng trong những đối tượng bị truy nã ráo riết nhất thế giới.

      Mặc dù muốn về quá khứ, nhưng cũng có những khi còn cách nào tránh khỏi trong câu chuyện của họ. Dù sao việc họ ở bên nhau chỉ là do chạy trốn và sống cuộc đời khác. Đề tài ưa thích của là tuổi thơ ấu ở New Orleans; chứ phải là cuộc sống ở tuổi trưởng thành mà phải trốn tránh. duờng như bao giờ nhắc đến vợ, nhưng Eva biết đó là người phụ nữ mà Patrick rất khinh bỉ. Cuộc hôn nhân trở nên khốn nạn, và khi nó ngày xấu hơn còn cách nào chịu đựng nổi nữa, ngoài việc bỏ .

      cố chuyện về Ashley Nicole, thế nhưng ý nghĩ về con bé làm mắt đẫm lệ. Giọng khản lại, và lời xin lỗi. Nỗi đau quá lớn.

      Bởi vì quá khứ chưa khép hẳn lại nên cũng khó mà tính trước được tương lai. thể có những kế hoạch khi mà đâu đó phía sau vẫn có những kẻ rình rập. cho phép mình nghĩ tới tương lai khi mà quá khứ chưa được giải quyết.

      Nàng biết rằng những kẻ rình rập kia làm cho ngủ. Những kẻ rình rập thể nhìn thấy mà chỉ có thể cảm thấy.

      Hai năm về trước, họ gặp nhau trong phòng làm việc của nàng ở Rio, khi tự giới thiệu mình là nhà doanh nghiệp Canađa sống ở Braxin. là cần luật sư giỏi để cố vấn các vấn đề nhập khẩu và thuế. Trong vai đó, mặc bộ complê may rất đẹp, với chiếc sơmi trắng bong. Trông gọn ghẽ, nước da rám nắng và điệu bộ dễ mến. Tiếng Bồ Đào Nha của rất khá, dù rằng được như tiếng của nàng. muốn được chuyện bằng ngôn ngữ của nàng; nàng lại đòi bằng ngôn ngữ của , họ bữa ăn trưa để trao đổi công việc kéo dài trong ba giờ, lúc bằng thứ tiếng này lúc với thứ tiếng kia, và cả hai nhận ra rằng còn những bữa ăn chung khác nữa. Thế rồi bữa tối kéo dài, và cuộc dạo bãi biển ở Ipanema với cả hai cùng để chân trần.

      Chồng nàng là người đàn ông lớn tuổi, chết trong tai nạn máy bay ở Chilê. con cái. Patrick, hay Danilo, như tự gọi lúc ban đầu, tuyên bố rất vui mừng được ly hôn với ngưòi vợ đầu tiên của , người mà là vẫn sống ở Toronto, trong ngôi nhà của họ.

      Eva và Danilo gặp nhau vài lần tuần trong hai tháng đầu tiên, ở cái lúc cuộc tình bắt đầu chớm nở. Sau cùng, kể với nàng . Tất cả.

      Sau bữa ăn tối muộn trong căn hộ của nàng, và chai vang Pháp tuyệt hảo, Danilo đối mặt với quá khứ của và bộc bạch hết. liên tục cho tới tận tảng sáng và từ nhà doanh nghiệp đầy tự tin trở thành người đàn ông bị săn đuổi. người đàn ông sợ hãi, lo lắng, nhưng cực kỳ giàu có.

      suýt phát khóc vì ra được tất cả, nhưng cố kìm lại. Dù sao đây cũng là đất Braxin và đơn giản là những người đàn ông khóc. Đặc biệt là trước mặt những người phụ nữ xinh đẹp.

      Nàng vì thế. Nàng ôm lấy , hôn và khóc trong khi thể khóc, và hứa làm mọi việc có thể được để che giấu cho . với nàng điều bí mật thầm kín nhất, nguy hiểm nhất của , và nàng hứa luôn luôn giữ kín.

      Trong những tuần tiếp theo đó, cho nàng biết chỗ tiền kia ở đâu và dạy nàng cách di chuyển nó nhanh chóng khắp thế giới. Cùng nhau, họ tìm hiểu những thiên đường về thuế ở nước ngoài và tìm ra những khoản đầu tư an toàn.

      Cho đến khi họ gặp nhau ở Braxin được chừng hai năm. sống ở São Paulo, ngôi nhà đầu tiên của là ở đó, rồi Recife, Minas Gerais và dăm bảy nơi khác. từng làm việc hai tháng ở vùng sông Amazon, ngủ cái phà trong chiếc màn dày và đám muỗi bu đặc kín đến mức nhìn thấy được cả vầng trăng. làm công việc dọn dẹp những loài thú hoang dã bị giết chết bởi những người Achentina giàu có ở vùng Pantanal, khu bảo tồn thiên nhiên lớn cỡ bằng nước , thuộc các bang Mato Grosso và Mato Grosso de Sol. được thấy đất nước nàng nhiều hơn cả chính nàng; tới những nơi nàng chưa bao giờ được nghe tới. thận trọng chọn Ponta Porã làm nơi trú thân. Đó là thị trấn hẻo lánh, và cái đất nước có cả triệu nơi náu tuyệt vời này, Danilo xác định Ponta Porã là nơi an toàn nhất. Thêm vào đó, nó có lợi thế chiến thuật là nằm ngay biên giới với Paragoay, và có thể dễ dàng chạy sang bên đó nếu xuất mối đe dọa.

      Nàng tranh cãi về điều này. Nàng những muốn ở lại Rio, gần gũi bên nàng, thế nhưng nàng biết gì, về cuộc sống trốn tránh và miễn cưỡng chấp nhận quyết định của . hứa với nàng nhiều lần rằng ngày nào đó họ sống bên nhau. Thỉnh thoảng, họ gặp nhau tại căn hộ ở Curitiba; những tuần trăng mật ngắn ngủi bao giờ kéo dài quá vài ngày. Nàng thèm muốn hơn thế, nhưng chịu.

      Với tháng ngày trôi . Danilo - nàng chưa bao giờ gọi là Patrick - càng trở nên tin rằng bị tìm ra. Nàng tin như , nhất là với những biện pháp chu đáo mà thực để né tránh quá khứ. lo lắng nhiều hơn; thậm chí ngủ ít hơn nữa; chuyện nhiều hơn về việc nàng nên làm gì trong tình huống này, hay tình huống khác. thôi về tiền bạc. Những gì xảy ra trong quá khứ luôn ám ảnh .

      Nàng dự tính ở lại Aix trong vài ngày, theo dõi Chương trình quốc tế của CNN và đọc những gì nàng có thể tìm được những tờ báo Mỹ. Họ sắp chuyển Patrick , đưa trở về, tống giam và đệ lên tòa án mọi lời tố cáo độc địa chống lại . biết là bị bắt, thế nhưng bảo đảm với nàng là mọi việc ổn thỏa. đối phó; có thể xử lý được mọi chuyện chừng nào mà nàng hứa là đợi chờ .

      Có thể là nàng trở lại Zurich và thu xếp các công chuyện của nàng. Ngoài chuyện đó ra, nàng chưa biết làm gì cả. thể về nhà và điều này làm đầu óc nàng nặng trĩu. Nàng chuyện với cha ba lần, luôn luôn là gọi từ những buồng điện thoại trả tiền ngoài sân bay và luôn luôn cam đoan với ông là nàng sao. Nàng giải thích rằng lúc này, đơn thuần là nàng chưa thể về nhà.

      Nàng và Patrick liên lạc thông qua Sandy, nhưng còn phải nhiều tuần lễ nữa trôi qua trước khi nàng có thể nhìn thấy .

      *

      **

      gọi viên thuốc đầu tiên vào trước hai giờ sáng, sau khi tỉnh ngủ vì cơn đau như xé. Giống như lúc bị tra điện. Và những tiếng tàn nhẫn của những kẻ kia vẫn ám ảnh . “Chỗ tiền đó ở đâu, Patrick?” Những câu hỏi vang lên như dàn đồng ca của quỷ dữ. “Chỗ tiền đó ở đâu ?"

      Viên thuốc được hộ lý trực đêm mang đến nhưng ta lại quên mang theo nước lạnh. xin cái cốc, rồi nuốt chửng viên thuốc cùng với chỗ xôđa ấm còn thừa lại trong lon.

      Mười phút sau, có công hiệu gì. Người đầm đìa mồ hôi. Tấm vải trải giường ướt sũng. Mồ hôi mặn làm những vết thương nhói buốt. Mười phút nữa. bật TV lên.

      Những người bắt trói , hành hạ vẫn ở bên ngoài kia, tìm kiếm chỗ tiền đó, và nghi ngờ gì hoàn toàn biết ở đâu lúc này. cảm thấy an toàn hơn về ban ngày. Màn đêm và những cơn mê đưa họ trở lại. Ba mươi phút. gọi y tá, nhưng có ai trả lời.

      thiếp .

      Vào lúc sáu giờ, tỉnh giấc khi người bác sĩ vào, hôm nay nụ cười nào, và hoàn toàn với thái độ công việc khi kiểm tra những vết thương cách nhanh chóng, rồi tuyên bố “ sẵn sàng cho việc di chuyển. Họ có những bác sĩ giỏi đợi ở nơi sắp đến." Ông ta nguệch ngoạc vào biểu theo dõi và bỏ , thêm lời nào nữa.

      Ba mươi phút sau, nhân viên đặc biệt Brent Myers bước vào với nụ cười đanh ác và chìa tấm thẻ ra, như thể là ta cần phải tập dượt cái động tác đó vậy. “Xin chào." ta . thèm nhìn, Patrick hỏi, " Ông thể gõ cửa trước à ?"

      “Rồi, xin lỗi. Này, Patrick, tôi vừa mới chuyện với bác sĩ của ông. Tin vui đó, ông bạn, ông được ra viện rồi. Tôi được lệnh đưa ông trở về. Chúng ta lên đường vào sáng mai. Chính phủ dành cho ông chuyến bay đặc biệt đáp xuống Biloxi, chiếc máy bay quân . Chẳng nhẽ điều đó thú vị sao? Và tôi cùng ông.”

      “ Ông có thể ra được ?”

      “Tất nhiên. Hẹn gặp vào sáng sớm mai.”

      .”

      vụt ra khỏi phòng và đóng cửa lại. Tiếp đó là Luis, lặng lẽ đến với khay cà phê, nước quả và những miếng xoài. ta tuồn cái gói xuống dưới đệm của Patrick, và hỏi có cần gì nữa . , Patrick đáp, và nhàng cảm ơn ta.

      giờ sau, Sandy đến với hy vọng là có cả ngày dài để tìm hiểu về bốn năm qua cùng những câu trả lời cho vô số các câu hỏi được nêu ra. TV được tắt , những tấm rèm được cuộn lên, và căn phòng sáng dần khi ngày mới bắt đầu.

      "Tôi muốn trở về ngay lập tức,” Patrick . “Và mang theo những thứ này ” trao cái gói. Sandy ngồi cái ghế duy nhất trong phòng, lật xem những tấm ảnh chụp bạn mình trần trụi, hơi trầm ngâm.

      " Những tấm ảnh này được chụp khi nào vậy?" ta hỏi.

      “Ngày hôm qua." Sandy ghi điều này vào tập giấy màu vàng.

      “Ai chụp ?"

      “Louis, người hộ lý.”

      “Ai gây ra những thương tích này ?"

      “Ai giam giữ tôi, Sandy ?"

      “FBI.”

      “Vậy, tôi nghĩ chính là họ. Cái chính phủ của tôi săn lùng tôi, bắt giữ tôi, tra tấn tôi, và giờ đây lôi tôi trở về. Chính phủ, Sandy. FBI, Bộ Tư pháp, các giới chức địa phương — công tố viên và toàn bộ cái ủy ban đón tiếp tôi. Hãy nhìn xem họ làm gì tôi.”

      “Họ phải bị kiện về chuyện này,” Sandy .

      “Đòi bồi thường nhiều triệu. Và nhanh chóng. Kế hoạch là thế này: Tôi lên đường vào sáng mai chiếc máy bay quân nào đó, tới Biloxi. có thể hình dung ra cuộc đón tiếp mà tôi được nhận. Chúng ta phải lợi dụng điều đó.”

      “Lợi dụng ?”

      “Chính xác. Chúng ta phải đưa đơn kiện vào cuối chiều nay để câu chuyện này lên mặt báo vào sáng mai. Tiết lộ tin này cho báo chí. Cho họ xem hai trong số các tấm ảnh, hai tấm mà tôi đánh dấu ở mặt sau. "

      Sandy lúng túng nhặt ra hai tấm ảnh đó. là hình chụp cận cảnh các vết bỏng ngực Patrick, trong khi vẫn có thể thấy mặt . Tấm kia là vết bỏng độ ba đùi trái của . “ muốn tôi chuyển hai tấm này cho báo chí à ?"

      “Chỉ cho tờ Bờ biển. Đó là tờ tôi nghĩ tới nhiều nhất. Tám mươi phần trăm dân chúng ở quận Harrison, nơi mà tôi tin là xuất xứ của đoàn hội thẩm, đọc tờ đó."

      Sandy mỉm cười, rồi chặc lưỡi. “Đêm qua ngủ nhiều, phải ?"

      "Tôi ngủ bốn năm nay.”

      "Tuyệt vời.”

      đến mức, nhưng đó là trong số ít những lợi thế chiến thuật mà chúng ta có thể có đối với cái đám linh cẩu bâu quanh tôi. Chúng ta tung những thứ này ra, và có thể làm dịu tình hình chút. Hãy nghĩ xem, Sandy. FBl tra tấn đốỉ tượng tình nghi, công dân Mỹ.”

      “Tuyệt, đúng là tuyệt vời. Chúng ta chỉ kiện FBI có phải ?"

      “Phải, để cho vấn đề đơn giản. Tôi kiện FBI, kiện chính phủ, về những tổn thương thể xác và tinh thần vĩnh viễn do cuộc thẩm vấn và tra tấn dã man ở nơi trong rừng rậm Braxin."

      “Nghe có vẻ được lắm.”

      “Thậm chí còn được hơn nếu báo chí quay lưng lại phía chính phủ.”

      “Bao nhiêu ?"

      "Tôi quan tâm. Mười triệu cho những tổn hại thực , trăm triệu để trừng phạt.”

      Sandy vội vã ghi chép và lật tiếp sang trang bên. Thế rồi ta ngừng lại và nhìn đăm đăm vào mặt Patrick. " ra phải là FBI phải ?"

      “Đúng thế," Patrick . "Tôi bị trao cho FBI bởi lũ đồ tể nào đó , những kẻ từ lâu truy lùng tôi. Và chúng vẫn rình rập đâu đó.”

      “FBI có biết về họ ?”

      “Có.”

      Căn phòng trở nên yên lặng trong khi Sandy chờ đợi thêm nữa còn Patrick ngừng bặt. Có thể nghe thấy cả tiếng những y tá chuyện ngoài hành lang.

      Patrick chuvển tư thế nằm. Ba ngày nằm liệt, và giờ đây sẵn sàng để thay đổi tình thế. “ cần phải trở về ngay, Sandy. Chúng ta còn nhiều thời gian để chuyện sau. Tôi biết là có những điều muốn hỏi, hãy dành cho tôi chút thời gian.”

      “Được thôi.”

      “Khởi kiện càng ầm ĩ càng tốt. Sau này, chúng ta luôn luôn có thể sửa đổi đơn kiện để lôi những bị cáo vào đó."

      có vấn đề gì. Đây phải là lần đầu tiên tôi kiện đúng đối tượng.”

      “Đó là chuyện chiến lược. chút thông cảm có sao đâu.”

      Sandy cất xấp giấy ghi chép và những tấm ảnh vào trong cặp.

      “Cẩn thận đấy,” Patrick . “Ngay khi được xác nhận là luật sư của tôi đủ mọi hạng người lạ lùng và bẩn thỉu bu lấy đấy.”

      “Báo chí ư ?”

      hẳn thế. Tôi cất giấu rất nhiều tiền, Sandy. Có những người sẵn sàng bất chấp mọi thủ đoạn để tìm ra chỗ tiền đó.”

      “Còn lại được bao nhiêu ?"

      “Tất cả. Và thêm ít nữa.”

      “Có khi phải mất hết chỗ đó để cứu lấy .”

      “Tôi có kế hoạch rồi.”

      "Tôi tin là như vậy. Hẹn gặp ở Biloxi nhé.”

      John Grisham

      Đồng Đạo

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :