Âm Mưu Ngày Tận Thế - Sidney Sheldon

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825


      MƯU NGÀY TẬN THẾ

      [​IMG]
      Sidney Sheldon
      Dịch giả : Nguyễn Bá Long

      Nguyên bản tiếng DOOMSDAY CONSPIRACY, Nhà xuất bản Happer Collins, (1990)

      Nguồn: vnthuquan.net

      Sửa lỗi và tạo eBook: 4DHN




      Uetendort. Thụy Sĩ
      Chủ nhật, 14 tháng Mười, lúc 15 giờ 00​

      Các nhân chứng đứng rìa trường, nhìn trân trối trong im lặng, thể gì vì quá sửng sốt. Quang cảnh trước mắt họ kỳ dị, cơn ác mộng hoang sơ xuất xứ từ đâu đó sâu kín, tối tăm trong tiềm thức tập thể của người nguyên thủy. Mỗi nhân chứng có phản ứng khác nhau.
      Người thứ nhất ngất . Người thứ hai nôn ọe. phụ nữ run lên bần bật. người khác nghĩ: Mình sắp lên cơn đau tim mất. Vị tu sĩ già nắm lấy chuỗi hạt và đưa tay làm dấu.
      Hãy giúp con, thưa Cha. Hãy giúp tất cả chúng con. Hãy che chở cho chúng con trước hình của quỷ dữ. Sau cùng tất cả chúng con đều nhìn thấy bộ mặt của Satăng. Đó là ngày tận thế. Ngày phán xử đến.
      Trận chiến cuối cùng là đây... Trận chiến đấu cuối cùng... Trận chiến đấu cuối cùng giữa cái thiện và cái ác.
      piipp thích bài này.

    2. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825

      Chương 1



      Ngày thứ nhất.

      Thứ hai, 15 tháng Mười

      lại thấy mình trong cái quân y viện chật chội ở căn cứ Củ Chi, Việt Nam và Susan cúi người giường , trông đáng trong chiếc áo choàng trắng, thầm, "Tỉnh dậy nào, chàng thủy thủ. đâu có muốn chết!".

      Và khi nghe thấy giọng đầy quyến rũ của , gần như quên đau đớn của mình. thầm điều gì đó nữa bên tai , nhưng cái chuông nào đó réo vang, và thể nghe gì. đưa tay kéo lại gần nhưng bàn tay chỉ quờ vào khoảng .

      Chính tiếng chuông điện thoại làm Robert Bellamy tỉnh hẳn. miễn cưỡng mở mắt, muốn giấc mơ qua . Chiếc điện thoại bên cạnh giường vẫn réo dai dẳng. nhìn đồng hồ, 4 giờ sáng. chụp lấy máy, bực bội vì ngủ dở mắt, giấc mơ ngắt quãng.

      - Quỷ quái , có biết mới là mấy giờ hả?

      - Ông chỉ huy Bellamy phải ?

      - Phải.

      - Tôi có tin báo cho ông, ông chỉ huy. Ông được lệnh phải trình diện tướng Hilliard tại trụ sở Cục An ninh Quốc gia (NSA) ở Fort Meade vào đúng 6 giờ sáng. Ông nghe chưa, thưa ông chỉ huy?

      - Rồi. Và chưa. Phần lớn là chưa .

      Robert Bellamy chậm chạp đặt ống nghe xuống, trầm ngâm. Chuyện quái gì mà NSA đòi thế nhỉ?

      Và chuyện gì gấp gáp đến mức phải gặp vào lúc 6 giờ sáng? lại nằm xuống và nhắm mắt lại, cố tìm lại giấc mơ. Giấc mơ giống như . Tất nhiên biết điều gì khiến giấc mơ xuất . Susan vừa gọi điện cho tối hôm trước.

      - Robert...

      Như từ bao giờ vẫn vậy, giọng của luôn có tác động đến . run run thở mạnh.

      - Chào Susan.

      - Mọi chuyện bình thường cả chứ, Robert?

      - Tất nhiên. Tuyệt vời. Moneybags thế nào?

      - Thôi đừng, .

      - Thôi được. Thế Monte Banks thế nào?

      thể "chồng em". ta là chồng ấy, Susan.

      - ấy khỏe. Em chỉ muốn với là chúng ta sắp phải xa nhau thời gian. Em muốn phải lo lắng.

      đúng là ấy, đúng là Susan. cố giữ giọng bình tĩnh.

      - Lần này em đâu vậy?

      - Bọn em bay qua Brasil.

      chiếc Boeing 727 của Moneybags.

      - Monte có chút công việc ở đó mà.

      - ư? nghĩ là chồng em sở hữu cả quốc gia đó.

      - Thôi Robert. Xin .

      - Xin lỗi.

      giây im lặng.

      - Em mong tỏ ra dễ chịu hơn.

      - Nếu em có ở đây hẳn là thế.

      - Em muốn tìm được ai đó tuyệt vời, và hạnh phúc.

      - Susan, tìm được người tuyệt vời. - Cổ họng tắc nghẹn. - Và em biết chuyện gì xảy ra ? mất ấy.

      - Nếu cứ còn thế, em gọi nữa đâu.

      Đột nhiên, cảm thấy sợ hãi.

      - Đừng thế. Đừng, em?

      Với , là chiếc phao cứu sinh. thể chịu nổi ý nghĩ rằng bao giờ được chuyện với nữa. cố tỏ ra vui vẻ.

      - ra ngoài và kiếm tóc vàng khêu gợi để rồi cùng làm tình cho đến bã người ra thôi.

      - Em muốn kiếm được ai đó.

      - hứa với em đấy.

      - Em lo cho , em !

      - cần thiết. bình thường. - nghẹn lời với lời đối của chính mình. Giá mà biết . Nhưng thể nào mang chuyện của mình ra bàn với ai. Đặc biệt là Susan. thể chịu được ý nghĩ về buồn khổ của .

      - Từ Brasil, em gọi điện cho . - Susan .

      lúc im lặng. Họ thể rời nhau ra bởi vì có quá nhiều điều để , quá nhiều thứ tốt hơn là nên đến, được đến.

      - Robert, em phải đây.

      - Susan?

      - Dạ.

      - em. luôn luôn em!

      - Em biết. Em cũng , Robert.

      Và đó chính là điều mỉa mai cay đắng. Họ vẫn nhau đến thế.



      Hai người đẹp đôi, tất cả bạn bè họ đều như vậy. Điều gì làm đảo lộn tất cả?

      Robert Bellamy ra khỏi giường và ngang căn phòng khách vắng lặng với đôi chân trần. Căn phòng gợi nhớ vắng bóng của Susan. Quanh phòng là hàng chục tấm ảnh của Susan và , những hình ảnh đọng lại. Hai người câu cá ở vùng cao nguyên Scotland, trước tượng Phật đất Thái Lan, cỗ xe ngựa chạy trong mưa qua những khu vườn Borghese ở Rome. Và trong mỗi tấm ảnh, họ đều cười và ôm chặt lấy nhau, hai con người nhau nồng thắm.

      vào phòng bếp đặt bình cà phê. Đồng hồ chỉ 4 giờ 15.

      lưỡng lự giây lát, rồi nhấc điện thoại quay số. Sáu hồi chuông réo và sau cùng nghe thấy tiếng Đô đốc Whittaker ở đầu dây đằng kia.

      - Hello.

      - Thưa Đô đốc.

      - Gì vậy?

      - Đây là Robert. Tôi xin lỗi vì đánh thức ngài. Tôi vừa có cú điện thoại khá kỳ lạ từ Cục an ninh quốc gia.

      - NSA à? Họ muốn gì vậy?

      - Tôi biết. Tôi được lệnh trình diện tướng Hilliard vào lúc 6 giờ.

      thoáng im lặng trầm ngâm.

      - Có thể là người ta định chuyển sang đó.

      - thể thế được. Điều đó vô lý. Sao họ lại...

      - Robert, ràng là có chuyện gì đấy khẩn cấp.

      - Sao gọi lại cho tôi sau cuộc gặp nhỉ?

      - Tôi gọi. Cảm ơn ngài.

      Cuộc đối thoại chấm dứt. Robert nghĩ: lẽ ra mình nên làm phiền ông già. Đô đốc rời chức vụ đứng đầu Tình báo hải quân để nghỉ hưu từ hai năm trước đây. Bị buộc phải nghỉ hưu đúng hơn. Người ta bàn tán rằng để an ủi, Bộ Hải quân dành cho ông văn phòng ở đâu đó để ngồi chơi xơi nước với mấy thứ công việc vớ vẩn. Giờ đây, ông Đô đốc hề biết gì về những hoạt động tình báo nay. Nhưng ông là thầy của Robert. Ông là người gần gũi với Robert hơn bất kỳ ai thế gian này, tất nhiên là kể Susan. Mà Robert cần phải chuyện với ai đó. Với việc Susan ra , cảm thấy hoàn toàn mất thăng bằng và luôn tưởng tượng rằng ở nơi nào đó, trong thời gian và gian khác, và Susan vẫn cặp vợ chồng hạnh phúc, cười đùa vô tư và thương nhau. Hoặc có thể là , Robert mệt mỏi nghĩ. Có thể do mình biết khi nào nên dừng lại.

      Cà phê xong. Vị đắng ngắt. băn khoăn biết liệu có phải nó được nhập về từ Brasil hay nữa.

      mang theo ly cà phê vào phòng tắm và ngắm mình trong gương. nhìn vào người đàn ông ở độ tuổi bốn mươi, cao to và khỏe mạnh, khuôn mặt rắn rỏi, cái cằm khỏe, mái tóc đen và cặp mắt sẫm, sắc sảo, thông minh. ngực vết sẹo dài và sâu, kỷ niệm vụ máy bay rơi. Nhưng đó là ngày hôm qua. Đó là Susan. Còn lúc này là hôm nay. có Susan. cạo râu, tắm và rồi bước lại tủ quần áo. Mình mặc gì nhỉ, băn khoăn. Đồng phục Hải quân hay đồ dân ? Mà nào ai quan tâm đâu nhỉ? khoác lên người bộ complê màu tàn thuốc lá cùng với chiếc sơmi trắng và chiếc càvạt màu lục lam. biết rất ít về Cục An ninh quốc gia, chỉ biết cái Dinh Thự bí mật đó, như người ta đặt tên lóng cho nó, thay thế cho tất cả các cơ quan tình báo khác của nước Mỹ và là cơ quan bí mật nhất trong tất cả số đó. Họ muốn gì ở mình? Mình biết ngay thôi mà.


      Chương 2



      Cục An ninh quốc gia nằm mình kín đáo trong cánh rừng hoang rộng tám mươi hai mẫu ở Fort Meade, bang Maryland, với hai tòa nhà lớn gấp đôi khu trụ sở CIA ở Langley, bang Virginia. Cơ quan này được lập ra nhằm giúp đỡ kỹ thuật để bảo vệ các kênh thông tin của nước Mỹ và thu lượm các số liệu tình báo điện tử khắp thế giới, hoạt động khủng khiếp đến mức mỗi ngày nó sản sinh ra chừng bốn mươi tấn tài liệu.

      Khi Robert Bellamy đến cổng trời vẫn còn tối. cho xe đỗ sát bờ tường cao tới hai mét rưỡi, còn căng dây thép gai phía . bốt gác đặt ở đó với hai người bảo vệ có vũ trang. người lính đứng lại bên trong nhìn ra trong lúc người kia tiến đến bên chiếc xe.

      - Tôi có thể giúp gì cho ông?

      - Sĩ quan chỉ huy Bellamy tới gặp tướng Hilliard.

      - Xin ông cho xem giấy tờ, ông chỉ huy?

      Robert Bellamy móc ví và lấy tấm thẻ căn cước của có ghi Phòng 17 Tình báo hải quân. Người lính gác xem tấm thẻ cách cẩn thận và đưa trả lại cho .

      - Cảm ơn ông chỉ huy.

      ta gật đầu với người lính đứng trong bốt gác, và cánh cổng mở ra. Người lính gác phía trong nhấc điện thoại.

      - Sĩ quan chỉ huy Bellamy đường vào.

      phút sau, Robert Bellamy tiến đến trước chiếc cổng điện đóng kín bưng.

      người lính gác tiến đến bên chiếc xe.

      - Sĩ quan chỉ huy Bellamy phải ?

      - Đúng vậy.

      - Xin phép được xem giấy tờ của ông?

      toan phản đối nhưng rồi lại nghĩ. Thây kệ. Đây là lãnh địa của họ mà. lại móc ví ra và đưa tấm thẻ cho người lính.

      - Cảm ơn ông chỉ huy. - Người lính làm tín hiệu nào đó , và cánh cổng mở ra.

      Khi Robert Bellamy lái xe tiến vào, lại nhìn thấy bức tường bảo vệ thứ ba ở trước mặt. Lạy Chúa, nghĩ, mình ở trong vùng cấm rồi.

      người gác mặc quân phục khác bước lại bên chiếc xe. Khi Robert Bellamy đưa tay để lấy chiếc ví ra người gác nhìn biển số xe và :

      - Xin chạy thẳng tới tòa nhà điều hành, thưa ông chỉ huy. có người đón ông tại đó.

      - Cám ơn.

      Cánh cổng mở ra, và Robert cứ theo đường xe chạy, tới bên tòa nhà khổng lồ trắng toát. người đàn ông mặc đồ dân đứng đợi phía bên ngoài, run lên vì những cơn gió lạnh của tháng mười.

      - Ông chỉ huy, ông có thể để xe ở ngay đó. Chúng tôi lo sau. - ta gọi to.

      Robert Bellamy để chìa khóa lại trong xe và bước ra. Người đàn ông đứng đón chừng ba mươi tuổi, dáng cao, gầy, nước da mai mái.

      - Tôi là Harrison Keller. Tôi đưa ông đến phòng làm việc của tướng Hilliard.

      Họ vào phòng tiền sảnh lớn, trần nhà cao.

      người đàn ông mặc đồ dân ngồi sau chiếc bàn.

      - Sĩ quan chỉ huy Bellamy.

      Robert Bellamy quay người lại. nghe tiếng kêu tách của chiếc máy ảnh.

      - Cám ơn ngài.

      - Cái gì? - Robert Bellamy quay sang Keller.

      - Chỉ mất phút thôi. - Keller đoán chắc với .

      Sáu mươi giây sau, Robert Bellamy được trao cho tấm phù hiệu nhận dạng màu xanh trắng với ảnh của đó.

      - Xin ông đeo tấm phù hiệu này liên tục trong thời gian ông ở trong tòa nhà này, ông chỉ huy.

      - Được.

      Họ bắt đầu theo hành lang dài, sơn màu trắng, Robert Bellamy thấy những chiếc camêra bảo vệ được đặt cách nhau chừng sáu mét dọc theo cả hai bên hành lang.

      - Tòa nhà này có lớn lắm ?

      - Khoảng hơn hai trăm ngàn mét vuông, thưa ông chỉ huy...

      - Thế cơ à?

      - Dạ. Cái hành lang này là hành lang dài nhất thế giới - ba trăm hai mươi lăm mét. Chúng tôi hoàn toàn tự nhốt mình ở đây. Tại đây có trung tâm mua bán, tiệm cà phê, trạm bưu điện, tám Snackbar, bệnh viện kèm theo phòng mổ, phòng khám nha khoa, chi nhánh ngân hàng nhà nước của vùng Laurel, tiệm giặt là, tiệm giầy, hiệu cắt tóc và vài cửa hàng linh tinh khác nữa.

      cái nhà ở xa của mình, Robert nghĩ. cảm thấy chán nản cách kỳ lạ.

      Họ ngang qua khu vực rộng lớn đầy những máy tính điện tử. Robert dừng chân, kinh ngạc.

      - ấn tượng mạnh, phải ạ? Đó mới chỉ là trong số những phòng máy tính của chúng tôi. Hệ thống này gồm những máy giải mã và những máy tính trị giá 3 tỉ đôla.

      - Có tất cả bao nhiêu người làm việc ở đây?

      - Khoảng mười sáu ngàn.

      được dẫn vào chiếc thang máy, loại dành riêng, mà Keller sử dụng với chìa khóa. Họ lên tầng và bắt đầu theo lối khác dãy hành lang dài cho tới khi họ tới khu phòng làm việc ở phía cuối hành lang.

      - Ngay trong này thôi, ông chỉ huy.

      Họ bước vào phòng đợi lớn, với bốn bàn thư ký. Hai trong số thư ký đến làm việc. Harrison Keller gật đầu với trong hai người, và ta bấm cái nút. Cánh cửa dẫn vào căn phòng phía trong bật mở.

      - Xin mời vào, thưa quý vị. Tướng quân đợi các ông.

      - lối này. - Harrison Keller .

      Robert Bellamy lặng lẽ theo ta. thấy mình bước vào căn phòng rộng lớn, trần nhà và tường đều được bọc lớp cách dầy. Căn phòng đầy đủ tiện nghi, với nhiều những bức ảnh và vật kỷ niệm có tính chất cá nhân. ràng là người đàn ông ngồi sau chiếc bàn kia ở đây khá lâu rồi.

      Tướng Mark Hilliard, phó giám đốc NSA, có vẻ chừng giữa tuổi 50, dáng rất cao, khuôn mặt nổi bật với cặp mắt giá lạnh, sắt đá, tư thế đĩnh đạc. Ông tướng mặc bộ complê màu xám, chiếc sơmi trắng và càvạt xám. Mình đoán đúng, Robert nghĩ.

      Harrison Keller cất tiếng:

      - Báo cáo tướng Hilliard, đây là sĩ quan chỉ huy Bellamy.

      - Cảm ơn ông ghé qua, ông sĩ quan.

      Cứ như là lời mời đến dự bữa tiệc trà vậy.

      Hai người đàn ông bắt tay nhau.

      - Mời ngồi. Tôi xin cược là ông muốn dùng ly cà phê.

      Ông ta đọc được ý nghĩ người khác.

      - Vâng, thưa ngài.

      - Còn Harrison?

      - , cảm ơn ngài. - ta ngồi xuống chiếc ghế dựa ở góc phòng.

      nút bấm được ấn xuống, cánh cửa mở ra, người phương Đông mặc đồng phục bước vào với khay cà phê và bánh nướng Đan Mạch. Robert để ý thấy ta đeo phù hiệu nhận dạng. tệ.

      Cà phê được rót ra. Mùi thơm ngào ngạt.

      - Ông uống thế nào nhỉ? - Tướng Hilliard hỏi.

      - Uống đen ạ. - Ly cà phê ngon.

      Hai người đàn ông ngồi đối diện nhau, những chiếc ghế da mềm.

      - Ngài giám đốc cầu tôi gặp ông.

      Ngài giám đốc, Edward Sanderson. nhân vật huyền thoại trong nghề gián điệp. nghệ sĩ rối, bậc thầy, tài ba và nhẫn tâm, nổi danh với vỉệc tổ chức hàng chục cuộc đảo chính táo bạo khắp thế giới ít khi người ta nhìn thấy ông xuất trước công chúng mà chỉ thầm về ông ta ở chốn riêng tư.

      - Ông ở phòng 17 ngành tình báo hải quân bao lâu rồi, ông sĩ quan? - Tướng Hilliard hỏi.

      - Mười lăm năm. Robert úp mở. dám đánh cược cả tháng lương rằng ông tướng có thể chính xác ngày gia nhập ONI.

      - Trước đó, tôi tin là ông chỉ huy phi đội máy bay của Hải quân ở Việt Nam.

      - Thưa ngài, vâng.

      Ông bị bắn rơi. Họ nghĩ là ông có thể qua khỏi.
      Tay bác sĩ : "Hãy quên ta . ta qua được được đâu". muốn chết cho rảnh. đau đớn thể chịu nổi. Và rồi Susan cúi xuống bên : "Mở mắt ra nào, chàng thủy thủ đâu có muốn chết". bắt hai mắt mình phải mở ra và qua lờ mờ trong đau đớn, nhìn thấy người phụ nữ đẹp nhất mà từng thấy đời. có khuôn mặt trái xoan mềm mại, mái tóc đen dầy, đôi mắt nâu long lanh và nụ cười ấm lòng. cố mở miệng , nhưng điều đó quá sức.

      Tướng Hilliard điều gì đó.

      Robert Bellamy kéo đầu óc mình trở về với tại.

      - Ngài gì, thưa tướng quân?

      - Chúng ta có rắc rối, ông sĩ quan. Chúng tôi cần giúp đỡ của ông.

      - Chuyện gì vậy, thưa ngài?

      Ông tướng đứng dậy và bắt đầu lại lại.

      - Điều tôi sắp với ông là vấn đề rất nhạy cảm. Nó còn mức tối mật.

      - , thưa ngài.

      - Ngày hôm qua, ở vùng núi Alps, Thụy Sĩ, quả bóng thám thời tiết của NATO đâm vào núi. Có vài dụng cụ thí nghiệm quân tối mật ở quả cầu đó.

      Robert thấy mình bỗng phân vân, hiểu tất cả những chuyện này dẫn tới đâu.

      - Chính phủ Thụy Sĩ chuyển tất cả những dụng cụ này khỏi quả cầu đó, nhưng đáng tiếc là hình như có số người chứng kiến vụ tai nạn. Điều có tính quan trọng sống còn là ai trong số họ được với bất kỳ ai khác về những gì họ trông thấy. Bởi nó có thể cung cấp những thông tin quý giá cho số nước nhất định. Ông nghe tôi đấy chứ?

      - Thưa ngài, tôi nghĩ là như vậy. Ông muốn tôi chuyện với các nhân chứng và cảnh cáo họ bàn tán về những gì họ trông thấy.

      - hoàn toàn như vậy, ông sĩ quan.

      - Vậy tôi hiểu?

      - Tôi muốn ông đơn thuần tìm ra những nhân chứng này. Những người khác với họ về im lặng cần thiết kia.

      - Tôi hiểu. Tất cả những nhân chứng này đều ở Thụy Sĩ ư?

      Tướng Hilliard dừng lại trước mặt Robert.

      - Đó chính là khó khăn của chúng ta, ông sĩ quan ạ, ông biết đấy, chúng ta hề biết họ là ai. Hay họ ở đâu.

      Robert nghĩ là bỏ qua điều gì đó.

      - Xin ngài lại?

      - Chúng ta chỉ có thông tin duy nhất là các nhân chứng chiếc xe buýt du lịch theo tuyến. Họ ngẫu nhiên qua trường khi quả bóng thám bị nạn gần làng tên là... ông ta quay sang Harrison Keller.

      - Uetendort.

      Viên tướng quay lại phía Robert.

      - Khách xuống xe trong ít phút để xem vụ tai nạn và rồi lại tiếp tục . Khi chuyến du lịch kết thúc, những người khách này lại tản tứ phương.

      Robert chậm rãi :

      - Thưa tướng quân Hilliard, có phải ngài rằng hề có hồ sơ gì về việc những người này là ai hoặc họ đâu ư?

      - Đúng thế.

      - Và ngài muốn tôi sang đó tìm họ?

      - Đúng thế. Ông được người ta tin cậy tiến cử. Tôi nghe ông có thể lưu loát dăm bảy thứ ngôn ngữ, và ông có tiểu sử hoạt động tuyệt vời. Ngài giám đốc thu xếp để ông được tạm thời chuyển sang NSA.

      - Khủng khiếp ! Tôi cho là tôi làm việc với chính phủ Thụy Sĩ về chuyện này?

      - , ông làm việc mình thôi.

      - mình? Thế nhưng...

      - Chúng ta được kéo bất kỳ ai khác vào sứ mệnh này. Tôi sao hết được tầm quan trọng của những gì có trong quả cầu đó, ông sĩ quan ạ. Vấn đề là thời gian. Tôi muốn ông báo cáo với tôi về kết quả mỗi ngày của công việc ông làm.

      Viên tướng viết con số lên tấm các và đưa nó cho Robert.

      - Có thể gọi tôi ở số máy này, ngày cũng như đêm. chiếc máy bay đợi để đưa ông tới Zurich. Ông được đưa về chỗ ở để thu xếp hành lý cần thiết, và rồi ông được đưa ra sân bay.

      Quá nhiều cho lời "Cảm ơn ông ghé qua". Robert muốn hỏi " có người cho mấy con cá vàng của tôi ăn trong thời gian tôi vắng chứ?" nhưng có cảm giác rằng câu trả lời là "ông có con cá vàng nào cả"

      - Ông sĩ quan, trong công việc của ông bên ONI, tôi cho là ông có những quan hệ tình báo ở nước ngoài?

      - Thưa ngài, vâng. Tôi có vài người bạn có thể có ích.

      - Ông được tiếp xúc với bất kỳ ai trong số họ. Ông được phép có bất kỳ tiếp xúc nào cả. còn nghi ngờ là những nhân chứng mà ông tìm kiếm là công dân của nhiều nước khác nhau. - Viên tướng quay sang Harrison Keller.

      Keller bước đến bên chiếc tủ hồ sơ ở góc phòng và mở ra. ta lấy phong bì lớn, chuyển cho Robert.

      - Có năm mươi ngàn đôla trong này bằng số đồng tiền châu Âu khác nhau và hai mươi ngàn đôla Mỹ. Ông cũng thấy dăm bộ giấy tờ giả được chuyển đến vào lúc cần thiết.

      Tướng Hilliard giơ ra tấm các bọc nhựa màu đen bóng và dầy cộp với vạch trắng đó.

      - Còn đây là chiếc thẻ tín dụng.

      - Tôi cho là tôi cần đến nó, thưa tướng quân. Số tiền mặt là đủ, và tôi còn chiếc thẻ tín dụng của ONI rồi.

      - Cầm lấy.

      - Tốt thôi. - Robert xem xét tấm thẻ. Nó được đảm bảo bởi nhà băng mà chưa bao giờ được nghe thấy tên. Phía dưới tấm thẻ có số điện thoại.

      - có cái tên nào thẻ cả. - Robert .

      - Nó tương đương với tấm ngân phiếu trắng đấy. Nó đòi hỏi nhận diện nào. Hãy cầu họ gọi điện đến số máy thẻ khi ông mua thứ gì đó. Điều quan trọng là ông phải luôn luôn giữ nó trong người.

      - Vâng.

      - Và này, ông sĩ quan?

      - Dạ, thưa ngài.

      - Ông phải tìm được những nhân chứng đó. Tất cả bọn họ. Tôi thông báo với giám đốc rằng ông bắt đầu nhận nhiệm vụ này.

      Cuộc gặp gỡ kết thúc.

      Harrison Keller tiễn Robert ra phòng ngoài. lính thủy đánh bộ mặc quân phục ngồi ở đó. ta đứng dậy khi hai người bước vào phòng.

      - Đây là đại úy Dougherty. ấy đưa ông ra sân bay. Chúc may mắn.

      - Cảm ơn.

      Hai người bắt tay nhau. Keller quay và bước trở vào văn phòng của tướng Hilliard.

      - Ông sẵn sàng chưa, thưa ông sĩ quan chỉ huy? - Đại úy Dougherty hỏi.

      - Rồi.

      Mà sẵn sàng gì mới được cơ chứ? Trong qụá khứ, giải quyết nhiều nhiệm vụ tình báo phức tạp, nhưng chưa bao giờ có chuyện điên rồ như thế này. Người ta muốn tìm kiếm số lượng những nhân chứng được biết là ai và biết là người nước nào. Xác suất được thua trong chuyện này ra sao đây? Robert phân vân. Mình cảm thấy giống như Nữ hoàng Trắng trong Xuyên qua lớp kính vậy. Sao có lúc tôi tin là có tới sáu điều thể được trước bữa ăn sáng. Ồ, đây là cả sáu điều đó cộng lại.

      - Tôi được lệnh đưa ông thẳng về chỗ ở và rồi ra căn cứ quân Andrews, - đại úy Dougherty . - Có chiếc máy bay đợi.

      Robert lắc đầu.

      - Tôi phải ghé vào cơ quan tôi trước .

      Dougherty lưỡng lự.

      - Cũng được. Tôi cùng với ông đến đó và đợi ông.

      Dường như thấy họ tin vậy. Bởi vì biết có quả bóng thám bị nạn ư? Điều đó vô lý. trao lại tấm phù hiệu của mình tại bàn đón tiếp và bước ra ngoài trời giá lạnh, rạng sáng. Chiếc xe của còn đó.

      Thay vào chỗ đó là chiếc xe sang trọng dài thượt.

      - Chiếc xe của ông được bảo quản, thưa ông chỉ huy, - đại úy Dougherty với . - Chúng ta chiếc xe này.

      quan tâm chu đáo về tất cả đến mức Robert cảm thấy hơi khó chịu.

      - Được .

      Và họ lên đường tới Cục Tình báo hải quân. Mặt trời buổi sớm mờ nhạt biến mất sau những đám mây mưa. ngày xấu. Theo nhiều nghĩa chứ hẳn chỉ là , Robert nghĩ.

    3. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825

      Chương 3



      Ottawa, Canada, 24 giờ 00

      Mật danh của ông ta là Janus. Ông ta trình bày trước mười hai người trong căn phòng được bảo vệ cẩn mật nằm trong khu vực quân .

      - Như tất cả các ông được thông báo, Chiến dịch Ngày Tận Thế được bắt đầu. Có số các nhân chứng phải được tìm ra cách nhanh chóng và lặng lẽ nhất ở chừng mức có thể. Chúng ta thể tính chuyện tìm kiếm họ thông qua các kênh an ninh chính quy do nguy cơ bị tiết lộ.

      - Chúng ta dùng ai vậy? - Người Nga. Nóng nảy. To lớn.

      - Tên ta là Robert Bellamy, sĩ quan chỉ huy.

      - ta được lựa chọn như thế nào vậy? - Người Đức. Vẻ quý tộc. Tàn nhẫn.

      - Viên sĩ quan này được chọn sau khi máy tính tìm kiếm cách kỹ càng trong các hồ sơ của CIA, FIA, và nửa tá cơ quan tình báo khác.

      - Xin cho tôi được hỏi về những phẩm chất của ta? - Người Nhật Bản. Lịch . Quỷ quyệt.

      - Sĩ quan chỉ huy Bellamy là sĩ quan nghiệp vụ được sáu thứ tiếng cách thành thạo và có lý lịch mẫu mực. ta liên tiếp tỏ ra hết sức năng lực. ta còn ai thân thích sống.

      - ta biết gì về tính cấp bách của vụ này ? - Người . Trưởng giả. Nguy hiểm.

      - ta biết. Chúng ta hoàn toàn có thể mong đợi rằng ta rất nhanh chóng tìm thấy tất cả các nhân chứng.

      - ta có biết mục đích của sứ mệnh mình làm ? - Người Pháp. Ưa tranh luận. Bướng bỉnh.

      - .

      - Và khi ta tìm thấy các nhân chứng sao? - Người Trung Quốc thông minh. Kiên nhẫn.

      - ta được khen thưởng xứng đáng.


      Chương 4



      Trụ sở cục Tình báo hải quân chiếm toàn bộ tầng năm của khu Ngũ Giác Đài rộng lớn, tầng nhà lọt thỏm giữa cái khu trụ sở làm việc lớn nhất thế giới, với tổng cộng mười bảy dặm hành lang và hai mươi chín nghìn nhân viên quân và dân .

      Nội thất của trụ sở Cục phản ánh truyền thống biển của nó. Bàn làm việc và tủ hồ sơ hoặc mang màu xanh ôliu, của thời chiến tranh thế giới thứ hai, hoặc màu xám của tàu chiến, trong thời kỳ chiến tranh Việt nam. Tường và trần nhà được sơn màu da bò hoặc màu kem. Hồi đầu, Robert thể chịu nổi cách trang trí nội thất kiểu Spartan này, nhưng từ lâu nay, trở nên quen thuộc với nó.

      Lúc này, khi bước vào tòa nhà và tiến lại bàn thường trực, người lính gác quen thuộc ngồi sau bàn :

      - Xin chào ông sĩ quan chỉ huy. Tôi có thể xem giấy ra vào của ông được ạ?

      Robert làm việc ở đây 7 năm, nhưng thủ tục này chưa bao giờ thay đổi. xuất trình giấy tờ theo đúng bổn phận của mình.

      - Cám ơn ông chỉ huy.

      đường tới phòng làm việc của mình, Robert nghĩ tới đại úy Dougherty đợi trong khu đậu xe phía cổng vào lối bờ sông. ta chờ để đưa ra chuyến bay tới Thụy Sĩ, bắt đầu cuộc săn vô vọng.

      Khi Robert tới phòng làm việc của mình, thư ký Barbara của ở đó.

      - Xin chào ông chỉ huy. Ông phó giám đốc muốn gặp ông tại phòng làm việc của ông ấy.

      - Ông ấy có thể đợi. Hãy liên lạc với Đô đốc Whittaker cho tôi.

      - Thưa ông, vâng.

      phút sau, Robert chuyện với Đô đốc.

      - Tôi cho là kết thúc cuộc gặp của rồi phải , Robert?

      - Cách đây chỉ vài phút.

      - Chuyện thế nào?

      - Cũng thú vị. Ngài có rảnh để đến ăn sáng với tôi , thưa Đô đốc? - cố giữ giọng bình thường. hề có chút lưỡng lự nào.

      - Được. Chúng ta gặp nhau ở đó chứ?

      - Vâng. Tôi để sẵn cho ngài tấm giấy ra vào dùng cho khách.

      - Rất tốt. Tôi đến trong vòng giờ.

      Robert gác máy và nghĩ. Việc mình phải để giấy ra vào dùng cho khách cho ngài Đô đốc: là điều mỉa mai. Chỉ mới cách đây vài năm, ông còn là ông già đáng kính đây, phụ trách Tình báo hải quân. Ông nghĩ gì về chuyện đó nhỉ?

      Robert bấm nút gọi thư ký của máy liên lạc nội bộ:

      - Dạ, thưa ông chỉ huy?

      - Tôi chờ Đô đốc Whittaker. Thu xếp giấy ra vào cho ông.

      - Tôi lo việc đó ngay ạ.

      Bây giờ đến lúc phải trình diện lão phó giám đốc. Lão Dustin Thornton khốn kiếp.



      Chương 5



      Lustin Thornton "bẩn thỉu", phó giám đốc Cục Tình báo hải quân, nổi tiếng là trong những vận động viên điền kinh xuất sắc nhất trong số những người tốt nghiệp trường Annapolis. Thornton có được cái vị trí cao nay là nhờ trận bóng bầu dục.

      chính xác là trận đấu giữa Lục quân và Hải quân. Thornton, sinh viên sắp tốt nghiệp của Annapolis, với dáng người cao to lừng lững, giữ chân hậu vệ trong trận đấu quan trọng nhất trong năm của Hải quân. Vào đầu hiệp thứ tư, Lục quân dẫn 13-0, hai lần được phạt sau gôn và sắp đến lúc đổi sân, số mệnh can thiệp và thay đổi cuộc đời Thornton. ta chặn được đường chuyền của Lục quân, xoay người và lướt qua đội hình của đối phương để giành cú phạt tiếp gôn. Hải quân để lỡ cơ hội ghi điểm nhưng nhanh chóng có được bàn thắng. Sau cú phát bóng sau đó, Lục quân để lỡ cơ hội đầu tiên và phạm lỗi bên sân Hải quân. Tỉ số trận đấu lúc đó là Lục quân 13, Hải quân 9, và thời gian trôi mau.

      Khi trận đấu bắt đầu trở lại, quả bóng được chuyền cho Thornton và ta bị chèn ngã bởi cầu thủ Lục quân. Phải mất lúc lâu ta mới đứng dậy được. Viên bác sĩ chạy vào sân. Thornton giận dữ xô ông ta ra.

      Chỉ còn ít giây nữa, các cầu thủ la hét gọi đường chuyền biên. Thornton được được bóng ở ngay vạch năm mét năm mươi của ta và dẫn bóng lên với tốc độ và sức mạnh dường như gì cản nổi. ta lao qua đội hình đối phương như chiếc xe tăng, quật ngã tất cả những kẻ thiếu may mắn ngáng đường. Chỉ còn hai giây nữa, Thornton vượt qua đường biên ngang với bàn thắng quyết định, và lần đầu tiên trong bốn năm trời, Hải quân có trận thắng Lục quân. Nhưng bản thân điều đó có mấy tác động đến cuộc đời của Thornton. Điều làm cho trận đấu này trở nên có ý nghĩa là việc Willard Stone và con là Eleanor ngồi trong khu dành riêng cho những nhân vật quan trọng. Khi đám đông khán giả đứng cả dậy, reo hò chúc mừng người hùng của Hải quân Eleanor quay sang cha và thào : "Con muốn gặp ta".

      Eleanor Stone là phụ nữ đầy ham muốn. ả có khuôn mặt thô, thân hình nở nang và những đòi hỏi thể nào thỏa mãn được. Ngắm nhìn Dustin Thornton lừng lững sân, cố hình dung xem ta như thế nào ở giường. Giá mà cái kia của ta cũng to như thân thể... phải thất vọng.

      Sáu tháng sau, Eleanor và Dustin Thornton làm đám cưới. Đó là điểm khởi đầu. Dustin Thornton làm cho bố vợ và được đưa vào thế giới huyền bí mà ta nằm mơ cũng thấy.

      Willard Stone, bố vợ của Thornton, là người đàn ông kỳ lạ. tỉ phú với những mối liên hệ chính trị đầy thế lực và quá khứ được che phủ trong bức màn bí mật. Ông ta là nhân vật trong bóng tối có thể giật dây mọi chuyện tại các thủ đô khắp thế giới. Khi đó, ông ta ở tuổi 60, người đàn ông thận trọng mà mỗi cử chỉ đều chính xác và hợp lý, con người sắc sảo với cặp mắt sụp xuống bao giờ để lộ điều gì. Willard Stone tin rằng nên phung phí những lời và tình cảm, và để đạt được mục đích ông ta sẵn sàng tàn nhẫn.

      Những lời đồn đại về Willard Stone huyền bí. Ông ta được cho là hạ sát đối thủ cạnh tranh ở Malaysia và có cuộc tình nồng cháy với người vợ của vị tiểu vương. Người ta rằng chính ông ta trợ giúp cho cuộc cách mạng thành công ở Nigiêria. Chính phủ có dăm bảy phán quyết chống lại ông ta, nhưng chúng luôn luôn bị bỏ rơi nửa chừng cách bí hiểm. Rồi chuyện về các vụ hối lộ các thượng nghị sĩ bị mua chuộc, các bí mật kinh doanh bị đánh cắp, và những nhân chứng bị mất tích...

      Stone là cố vấn cho các tổng thống và các quốc vương. Ông ta là thế lực trần trụi và thô thiển.

      trong số rất nhiều những tài sản của ông ta là dinh thự rộng lớn, biệt lập vùng núi bang Colorado, nơi hàng năm, các nhà khoa học, các ông chủ công nghiệp, và các nhà lãnh đạo thế giới tụ họp với những cuộc bàn bạc bí mật. Lính gác có vũ trang ngăn chặn tất cả những vị khách được mời.

      Willard Stone chỉ tán thành cuộc hôn nhân của con , mà còn khuyến khích nó. Thằng con rể mới của ông trông sáng sủa, đầy tham vọng và quan trọng nhất là có vẻ dễ bảo.

      Mười hai năm sau cuộc hôn nhân đó, Stone thu xếp để Dustin được bổ nhiệm làm đại sứ tại Nam Triều Tiên. Mấy năm sau, Tổng thống bổ nhiệm ông ta làm đại sứ tại Liên Hiệp Quốc. Khi Đô đốc Ralph Whittaker đột ngột bị đẩy khỏi chức vụ quyền giám đốc Cục Tình báo hải quân, Thornton ngồi vào vị trí này.

      Ngay hôm đó, Willard Stone hứa:

      - Tao có những kế hoạch lớn cho mày, Dustin. Những kế hoạch vĩ đại. - Và ông ta phác ra những nét lớn.

      Hai năm trước, Robert có cuộc gặp đầu tiên vớỉ vị quyền giám đốc mới của ONI.

      - Ngồi xuống, ông sĩ quan. - vẻ thân tình trong giọng của Dustin Thornton. - Qua hồ sơ về ông, tôi biết ông là tay vô tổ chức, đại loại là như vậy.

      Lão muốn chuyện quái quỷ gì vậy nhỉ? Robert băn khoăn. quyết định phải giữ mồm giữ miệng.

      Thornton ngước mắt lên.

      - Tôi biết Đô đốc Whittaker điều hành cái Cục này như thế nào thời ông ta phục trách, nhưng kể từ bây giờ trở , chúng ta làm việc theo đúng nguyên tắc. Tôi muốn mọi mệnh lệnh của tôi phải được thực đúng tới từng chữ. Tôi chưa hả?

      Giêsu, Robert, nghĩ chúng ta gặp chuyện gì ở đây thế nhỉ?

      - Tôi chưa hả, ông sĩ quan?

      - .

      Ông muốn mệnh lệnh của ông phải được thực đúng tới từng chữ. phân vân hiểu người ta có muốn đứng nghiêm chào hay . Tất cả là vậy thôi.

      Nhưng đâu phải là tất cả.

      tháng sau, Robert được phái Đông Đức để đón nhà khoa học muốn đào tẩu. Đó là nhiệm vụ đầy nguy hiểm bởi lẽ Stasi cơ quan cảnh sát mật Đông Đức, biết về vụ đào tẩu được dự kiến này và theo dõi nhà khoa học cách chặt chẽ.

      Bất chấp điều đó, Robert mang được nhà khoa học qua khỏi biên giới, tới địa chỉ an toàn. Khi thu xếp để đưa ông ta về Washington nhận được cú điện của Dustin Thornton rằng tình hình thay đổi và phải chấm dứt nhiệm vụ ngay.

      - Chúng ta thể cứ quẳng ông ta ở đây được, - Robert phản đối. - Họ giết ông ta mất.

      - Đó là việc của lão ta, - Thornton đáp. - Nhiệm vụ của ông là trở về ngay.

      Kệ xác ông, Robert nghĩ, tôi bỏ rơi ông ấy. gọi cho người bạn ở MI6, Cơ quan Tình báo , và phân trần với ta về tình thế của mình.

      - Nếu như quay về Đông Đức, - Robert , - họ cắt cổ ông ấy. nhận ông ta chứ?

      - Ồ bạn cũ, tôi xem có thể làm gì được.

      - Mang ông ta lại.

      Và nhà khoa học kia được dành cho nơi náu ở nước . Dustin Thornton bao giờ tha thứ cho Robert về việc chấp hành chỉ thị của . Có thù địch giữa hai người kể từ đó.

      Thornton mang chuyện này bàn với bố vợ.

      - Những khẩu đại bác kiểm soát được như Bellamy là rất nguy hiểm, - Willard Stone cảnh cáo. - Họ là mối nguy hiểm về mặt an ninh. Những người như thế hãy nên loại bỏ . Hãy nhớ như vậy và Thornton ghi nhớ.

      Lúc này, bước dọc theo hành lang đến phòng làm việc của Dustin Thornton, Robert thể nghĩ tới những khác biệt giữa và Whittaker. Trong cái nghề như nghề của , tin cậy là yếu tố đầu tiên. tin Dustin Thornton.

      ***

      Thornton ngồi ở bàn làm việc khi Robert bước vào.

      - Ông muốn gặp tôi phải ?

      - Phải. Ngồi xuống, ông sĩ quan. - Mối quan hệ giữa họ chưa bao giờ đạt đến giai đoạn có thể gọi tên nhau.

      - Tôi được báo là ông tạm thời chuyển sang Cục An ninh quốc gia. Khi ông trở lại, tôi có ...

      - Tôi trở lại. Đây là sứ mạng cuối cùng của tôi.
      - Cái gì?

      - Tôi thôi việc.

      Sau này nghĩ lại, Robert biết chính xác chờ đợi phản ứng như thế nào nữa. Có vài khả năng, Dustin Thornton có thể tỏ ra ngạc nhiên, hoặc có thể tranh luận, hoặc tức giận hay tỏ ra nhõm... Thay vì thế, ông ta chỉ nhìn Robert và gật đầu.

      - Ra vậy đấy hả?

      Khi Robert trở lại phòng mình, với thư ký.

      - Tôi chuẩn bị xa thời gian. Tôi lên đường trong vòng giờ nữa.

      - Có chỗ nào để có thể kiếm ông được ạ?

      Robert nhớ đến mệnh lệnh của tướng Hilliard.

      - .

      - Còn mấy cuộc gặp mà ông ...

      - Hủy . - nhìn đồng hồ. đến lúc gặp Đô đốc Whittaker.

      ***

      Họ ăn sáng trong khu vườn trung tâm của Ngũ Giác Đài tại tiệm cà phê Ground Zero (Mặt bằng Số ). Nó được gọi như vậy là bởi lẽ có người cho rằng Ngũ Giác Đài là nơi diễn ra đòn tấn công hạt nhân đầu tiên chống lại nước Mỹ. Robert thu xếp để họ ngồi được ở chiếc bàn trong góc, nơi có thể có chút riêng tư. Đô đốc Whittaker đến rất đúng giờ và trong khi nhìn ông đến bên bàn thấy dường như ông có vẻ già hơn và bé hơn , như thế là tình trạng chờ nghỉ hưu làm cho ông già quắt người lại vậy. Ông vẫn là người đàn ông có vẻ ngoài dễ gây ấn tượng, dáng dấp khỏe mạnh, cái mũi La Mã, hai gò má cao và tóc lốm đốm bạc.

      Robert từng phục vụ dưới quyền đô đốc trong chiến tranh Việt nam và sau này ở Cục Tình báo hải quân, và rất tôn trọng ông. Còn hơn cả tôn trọng nữa. Robert thừa nhận với chính mình. Đô đốc Whittaker là người thay cho cha .

      Vị đô đốc ngồi xuống.

      - Chào Robert. Ồ, có phải họ chuyển qua bên NSA ?

      Robert gật đầu.

      - Vâng, tạm thời.

      phục vụ đến và hai người xem thực đơn.

      - Tôi quên mất là đồ ăn ở đây tồi tệ thế nào rồi, - Đô đốc Whittaker vừa vừa mỉm cười. Ông nhìn quanh phòng, vẻ mặt đầy nỗi luyến tiếc được ra thành lời.

      Ông ấy mong muốn được trở lại chốn này. Robert nghĩ, lạy Chúa.

      Họ gọi món ăn. Khi phục vụ ra ngoài tầm nghe, Robert :

      - Thưa Đô đốc, tướng Hillard phái tôi chuyến dài ba nghìn dặm rất khẩn cấp để tìm cho được số nhân chứng nhìn thấy vụ tai nạn khinh khí cầu. Tôi thấy rất lạ. Và có điều gì đó thậm chí còn lạ hơn nữa. "Vấn đề là thời gian", đó là nguyên văn lời tướng Hilliard, ấy thế mà tôi được lệnh được dùng tới bất kỳ cơ sở tình báo nào của tôi ở nước ngoài vào vụ này.

      Đô đốc Whittaker có vẻ lúng túng.

      - Tôi cho rằng ông ta có những lý do của mình.

      - Tôi thể nào hình dung ra những lý do đó là cái gì nữa. - Robert .

      Đô đốc Whittaker chăm chú nhìn Robert. Sĩ quan chỉ huy Bellamy phục vụ dưới quyền ông ở Việt nam và là phi công giỏi nhất phi đoàn. Con trai của đô đốc, Edward, là người phụ trách ném bom của Robert, và trong cái ngày khủng khiếp mà máy bay của họ bị bắn hạ, Edward chết. Robert may mắn lắm mới còn sống. Đô đốc tới quân y viện thăm .

      " ta chắc qua khỏi được", các bác sĩ với ông như vậy. Robert nằm đó trong nỗi đau đớn cùng cực cực, thầm, "Cháu xin lỗi về Edward... Cháu có lỗi".

      Đô đốc Whittaker nắm chặt tay Robert. "Bác biết là cháu làm tất cả những gì có thể làm được. Giờ đây, cháu phải bình phục lại, rồi cháu khỏe".

      Ông rất mong Robert sống được. Trong tâm trí Đô đốc, Robert là con trai ông, đứa con trai thay cho chỗ của Edward. Và Robert qua khỏi.

      - Robert này.

      - Dạ, thưa Đô đốc!

      - Tôi hy vọng là thành công trong chuyến Thụy Sĩ này.

      - Tôi cũng vậy. Đây là sứ mạng cuối cùng của tôi.

      - vẫn quyết tâm thôi việc à?

      Vị Đô đốc là người duy nhất mà Robert có thể tin cậy.

      - Tôi chán ngấy rồi.

      - Với Thornton ấy à?

      - chỉ ta. Tôi nữa. Tôi chán chuyện can thiệp vào cuộc đời của những người khác. Tôi chán những lời dối trá và lừa lọc cùng với những lời hứa suông bao giờ được có ý thực cả. Tôi chán chuyện lôi kéo người khác và để bị người khác lôi kéo. Tôi chán những cuộc chơi, nguy hiểm và những phản bội. Nó làm mất của tôi mọi thứ.

      - có ý định làm gì ?

      - Tôi kiếm việc gì đó có ích cho cuộc đời tôi, việc tích cực gì đó.

      - Nếu họ để cho sao?

      - Họ lựa chọn nào khác, phải vậy ? - Robert .


      Chương 6



      Chiếc xe hơi sang trọng đợi ở khu đậu xe cạnh cổng vào lối bờ sông.

      - Ông sẵn sàng chưa, thưa ông sĩ quan chỉ huy? - Đại úy Dougherty hỏi.

      Sẵn sàng như bao giờ tôi cũng vậy, Robert nghĩ.

      ***

      Đại úy Dougherty đưa Robert trở về nhà để có thể thu xếp hành lý. Robert hề biết phải bao lâu. Cái nhiệm vụ thể thực được này mất bao nhiêu thời gian nhỉ? sắp xếp số quần áo đủ dùng trong tuần và, ở phút cuối cùng, bỏ thêm vào tấm ảnh của Susan lồng trong khung kính. nhìn đăm đăm vào gương mặt quý hồi lâu và nghĩ liệu có phải vui vẻ ở Brasil . nghĩ, mình hy vọng là . Mình hy vọng là ấy nhưng ngày tệ hại nhất. Và ngay lập tức cảm thấy xấu hổ với chính mình.

      Khi đến căn cứ quân Andrews, máy bay đợi . Đó là chiếc C20A, máy bay phản lực của quân.

      Đại úy Dougherty chìa tay ra.

      - Chúc ông may mắn.

      - Cám ơn. Mình cần tới nó.

      Robert leo lên máy bay. Tổ lái có mặt đông đủ, kết thúc việc kiểm tra trước chuyến bay. Có phi công, phi công phụ, hoa tiêu dẫn đường bay, và người phục vụ, tất cả đều mặc quân phục quân. Robert rất quen thuộc với chiếc máy bay này. Nó chứa đầy những thiết bị điện tử. Phía bên ngoài, gần đuôi, có ăng-ten tần số cao trông giống như chiếc cần câu lớn. Trong khoang máy bay, có mười hai chiếc điện thoại màu đỏ treo vách và chiếc điện thoại thường, màu trắng. Các liên lạc bằng ra-đa đều được mã hóa và ra-đa của máy bay hoạt động tần số quân . Phần lớn màu trong khoang máy bay là màu xanh da trời của quân và trong khoang ngồi là những chiếc ghế dựa rất tiện dụng.

      Robert thấy rằng là người khách duy nhất.

      Người lái chính chào .

      - Xin được đón tiếp ông, thưa ông sĩ quan chỉ huy. Nếu như ông cài dây an toàn vào là chúng ta được phép cất cánh.

      Robert làm theo và ngả người ghế trong khi chiếc máy bay chạy dọc theo đường băng. phút sau, thấy cái cảm giác quen thuộc của tình trạng tăng trọng lượng khi máy bay lao lên trung.

      thôi lái từ vụ bị rơi kia, khi được thông báo rằng bao giờ có thể lái được nữa. Còn bay nữa, Robert nghĩ, họ mình sống nổi ấy chứ. điều kỳ diệu - , đó là nhờ Susan...

      Việt nam. được đưa đến đó với cấp bậc thượng úy, biên chế hàng mẫu hạm Ranger với cương vị sĩ quan tác chiến, chịu trách nhiệm huấn luyện phi công tiêm kích và vạch kế hoạch cho chiến lược tiến công. chỉ huy phi đội cường kích Kẻ xâm nhập A- 6A và có rất ít thời gian nghỉ ngơi sau những căng thẳng của cuộc chiến. trong số ít những kỳ nghỉ phép, đến thăm Bangkok, chừng tuần lễ, và trong thời gian, đó thậm chí thèm ngủ nghê gì. Thành phố ấy giống như vương quốc Disney được tạo ra cho những khoái lạc của giống đực. Trong giờ đầu tiên ở thành phố này, gặp Thái Lan xinh đẹp, và ta ở suốt bên cả quãng thời gian và dạy vài câu tiếng Thái. thấy thứ ngôn ngữ đó mềm mại và ngọt ngào.

      Arun sawasdi. Chào buổi sáng.

      Khưn na chak nai? Bạn từ đâu đến?

      Khun kamrant chain pai? Bạn đâu bây giờ thế?

      cũng dạy số câu khác nữa, nhưng với nghĩa của chúng là thế nào, và khi lại khúc khích cười.

      Khi Robert trở về tàu Ranger, Bangkok dường như chỉ còn là giấc mơ xa xôi. Chiến tranh mới là thực và là nỗi khủng khiếp. Ai đó cho xem số nhưng tờ truyền đơn mà lính thủy đánh bộ Mỹ rải ở Bắc Việt nam. Truyền đơn viết:

      "Các công dân thân mến,
      Lính thủy quân lục chiến Mỹ chiến đấu bên cạnh các lực lượng Nam Việt nam tại Đức Phổ[1] nhằm tạo cho nhân dân Việt nam cơ hội sống cuộc sống tự do, hạnh phúc, phải chịu đói khát và đau khổ. Nhưng nhiều người Việt nam phải trả giá bằng tính mạng của họ, và nhà cửa của họ bị hủy hoại bởi lẽ họ giúp đỡ cho Việt Cộng.


      Những làng xóm ở Hải Môn, Hải Tân, Sa Đình, Tạ Bình và nhiều nơi khác bị hủy diệt vì lý do đó. Chúng tôi ngần ngại trước mọi làng xóm nào tiếp tay cho Việt Cộng, những kẻ bất lực trước việc ngăn chặn sức mạnh phối hợp của Chính phủ Việt nam[2] và đồng minh. lựa chọn thuộc về các bạn. Nếu các bạn từ chối để Việt Cộng dùng làng xóm thôn ấp của các bạn như chiến trường của họ, nhà cửa và sinh mạng của các bạn được an toàn".

      Chúng ta cứu vớt những người dân khốn khổ, cứ cho là thế, Robert nung nấu nghĩ ngợi.

      Và tất cả những gì chúng ta hủy diệt là đất nước của họ.

      ***

      Hàng mẫu hạm Ranger được trang bị tất cả những kỹ thuật hoàn hảo nhất có thể nhồi nhét được cho nó. Chiếc tàu là căn cứ của 16 máy bay, 40 sĩ quan và 350 binh sĩ. Lịch bay được đưa ra ba hoặc bốn giờ trước chuyến xuất kích đầu tiên trong ngày.

      Trong phòng kế hoạch chiến đấu của trung tâm tình báo con tàu, các thông tin mới nhất và các bức ảnh do thám được trao cho những người điều khiển vũ khí để rồi đến lượt họ lập lịch trình bay của chính họ.

      Giêsu, sáng nay họ trao cho chúng ta thắng cảnh, Edward Whittaker, người phụ trách vũ khí của Robert, kêu lên.

      Edward Whittaker trông giống cha như đúc nhưng có tính cách hoàn toàn khác. Trong khi ngài đô đốc là nhân vật khủng khiếp, nghiêm túc và khổ hạnh con trai ông là thanh niên thực dụng, nồng nhiệt và dễ mến. ta có được cương vị của mình "giống như bao nhiêu người khác". Đồng đội còn để ý đến chuyện Edward là con trai người chỉ huy của họ song rất rằng, đó là người phụ trách vũ khí xuất sắc nhất trong phi đoàn. ta và Robert trở thành cặp bạn thân.

      - Chúng ta bay tới đâu vậy? - Robert hỏi.

      Vì những tội lỗi của chúng ta, ta chọn phải Khu Sáu. Đó là phi vụ nguy hiểm nhất trong tất cả. Điều đó có nghĩa là phải bay theo hướng bắc tới Hà Nội, Hải Phòng và khu vực châu thổ sông Hồng, nơi có lưới lửa phòng dày đặc nhất. Thời gian mười hai năm xâm chiếm Việt nam là thời kỳ chiến tranh dài lâu nhất từ trước đến nay đối với nước Mỹ. Robert Bellamy mắc phải những vấn đề nghiêm trọng.

      Những phi đội F-4 của họ bị tiêu hao. Bất chấp là những máy bay của nó ưu việt hơn hẳn những chiếc MiG[3] của Nga, Hải quân Mỹ phải mất chiếc F-4 để có thể bắn hạ được hai chiếc MiG. Đó là tỉ lệ thể chấp nhận được.

      Robert được triệu tập đến Phòng chỉ huy của Đô đốc Ralph Whittaker.

      - Thưa Đô đốc, ngài cho gọi tôi ạ?

      - nổi tiếng là phi công cừ khôi. Tôi cần giúp đỡ của .

      - Thưa ngài, chuyện gì ạ?

      - Chúng ta bị tiêu hủy bởi kẻ thù khôn ngoan. Tôi cho làm báo cáo phân tích kỹ lưỡng. có vấn đề gì đối với những máy bay của chúng ta. Vấn đề là việc huấn luyện những người sử dụng chúng. hiểu chứ?

      - Thưa ngài, vâng.

      - Tôi muốn chọn lấy nhóm và dạy dỗ lại họ về chiến thuật và cách sử dụng vũ khí...

      Nhóm mới này được gọi là Top Gun, và trước khi họ kết thúc, tỉ lệ kia mới thay đổi từ 2-1 xuống 12-1. Cứ hai chiếc F-4 bị mất là 24 chiếc MiG bị bắn hạ. Mất tám tuần huấn luyện căng thẳng để hoàn thành nhiệm vụ này và sau cùng Bellamy trở về với chiếc tàu của mình. Đô đốc Whittaker đón tiếp .

      - thành quả tuyệt hảo, chàng sĩ quan ạ.

      - Cám ơn Đô đốc.

      Bây giờ chúng ta hãy trở lại với công việc.

      - Tôi sẵn sàng, thưa ngài.

      Robert bay ba mươi tư phi vụ ném bom từ tàu Ranger hề có cố gì.

      Phi vụ thứ ba mươi lăm của là tới Khu Sáu.

      Họ bay qua bầu trời Hà Nội và hướng về phía tây bắc, tới vùng trời Phú Thọ, Yên Bái. Lưới lửa phòng mỗi lúc dầy đặc thêm. Edward Whittaker ngồi phía bên phải Robert chăm chú nhìn vào màn hình ra-đa, lắng nghe những thanh trầm trầm đáng lo ngại của ra-đa cảnh giới của đối phương quét bầu trời.

      Bầu trời phía trước mặt họ giống như bầu trời nước Mỹ ngày quốc khánh, điểm những cụm khói trắng của đạn phòng hạng phía dưới thấp, những cụm khói xám sẫm của đạn pháo 55mm, những đám khói đen của đạn pháo 100mm và những đường đạn đỏ rực của súng máy hạng nặng.

      - Chúng ta tiến đến mục tiêu đấy, - Edward . Giọng của ta qua cáp nghe có vẻ xa xôi đến kỳ lạ.

      - rồi.

      Chiếc A- 6A Kẻ xâm nhập bay với tốc độ 800km giờ, và với vận tốc đó, thậm chí với cả nặng nề của lượng bom mang theo, nó vẫn rất cơ động và đối phương khó có thể truy đuổi.

      Robert với tay và bật công tắc sử dụng vũ khí. tá bom loại 500 bảng lúc này sẵn sàng được phóng ra. hướng thẳng đến mục tiêu.

      giọng trong radio của vang lên.

      - Romeo - con quỷ đằng sau đấy.

      Robert ngoái lại nhìn. chiếc MiG từ phía mặt trời bay lại phía . Robert lật nghiêng và bay chéo xuống. Chiếc MiG bám theo. Nó bắn quả tên lửa. Robert liếc mắt nhìn bảng đồng hồ. Quả tên lửa lao đến rất nhanh. Cách ba trăm mét... hai trăm mét trăm rươi mét...

      - Đồ khốn! - Edward quát lên. - Chúng ta còn chờ gì nữa.

      Robert đợi đến giây cuối cùng, rồi phóng ra đám nhiễu kim loại và đổi hướng bay vọt lên cao, để mặc quả tên lửa lao theo đám nhiễu nổ tung cách vô hại xuống phía mặt đất bên dưới.

      - Ơn Chúa, - Edward . - Và cảm ơn cả cậu nữa, bạn ạ.

      Robert tiếp tục bay lên và đột ngột vòng lại phía sau chiếc MiG. Tay phi công kia bắt đầu động tác lẩn tránh quá muộn. Robert phóng ra quả Sidewinder và nhìn theo nó chui tọt vào đuôi chiếc MIG rồi nổ tung. giây sau, bầu trời bị phủ bởi trận mưa những mảnh kim loại.

      giọng vang lên trong cáp nghe.

      - Khá lắm, Romeo.

      Lúc này chiếc máy bay ở phía bên kia mục tiêu.

      - Nào, ta bắt đầu, - Edward . ta ấn cái nút đỏ rồi nhìn những trái bom lao xuống mục tiêu.

      Phi vụ hoàn thành. Robert hướng máy bay bay về phía tàu mẹ.

      Đúng lúc đó, họ thấy tiếng động khác thường.

      Chiếc cường kích vốn nhanh nhẹn và ngoan ngoãn là thế bỗng trở nên nặng trịch.

      - Chúng ta dính đạn rồi. - Edward kêu lên.

      Cả hai chiếc đèn tín hiệu báo cháy đều lòe đỏ.

      Chiếc máy bay lảo đảo và còn tuân theo điều khiển.

      giọng vang lên trong radio:

      - Romeo này, đây là Tiger. có muốn chúng tôi che chắn cho ?

      Robert đưa ra quyết định chớp nhoáng.

      - , cứ tiếp tục đến mục tiêu của . Tôi cố lết về căn cứ.

      Chiếc máy bay bay chậm lại và càng trở nên khó điều khiển hơn.

      - Nhanh lên, Edward hồi hộp , chúng ta muộn giờ ăn trưa mất.

      Robert nhìn đồng hồ đo độ cao. Chiếc kim tụt xuống nhanh chóng. mở máy liên lạc chính.

      - Romeo gọi căn cứ. Chúng tôi bị đạn.

      - Căn cứ gọi Romeo. Tình hình xấu lắm ?

      - Tôi . Tôi nghĩ là tôi có thể bay về nhà được.

      - Giữ máy. - giây sau, giọng kia trở lại. - Tín hiệu của là Chalie trở về.

      Điều đó có nghĩa là họ được phép hạ cánh xuống hàng mẫu hạm ngay lập tức.

      - .

      - Chúc may mắn.

      Chiếc máy bay sắp bị lật. Robert cố lấy lại thăng bằng, cố lấy thêm độ cao.

      - Nào, bạn thân mến, bạn có thể làm được mà. - Khuôn mặt Robert căng thẳng. Họ mất độ cao quá nhiều. - Chúng ta còn bao lâu nữa hả?

      Edward nhìn bản đồ bay.

      - Bảy phút.

      - Tôi cho cậu ăn bữa trưa nóng sốt đấy.

      Robert cố hết sức để giữ chiếc máy bay bay thẳng với tất cả tài nghệ của mình, sử dụng van dầu và bánh lái. Độ cao vẫn tiếp tục tụt xuống tới mức báo động. Nhưng sau cùng, ở phía trước mặt, Robert nhìn thấy mặt nước biển lấp lóa của vịnh Bắc bộ.

      - Chúng ta về đến nhà rồi, bạn ạ. - Robert - Chỉ vài dặm nữa thôi.

      Khủng khiếp . ngờ và biết từ đâu, hai chiếc MIG ầm ầm lao xuống. Những loạt đạn bắt đầu xuyên vào thân Kẻ xâm nhập A-6A.

      - Eddie. Nhảy dù ! - quay sang nhìn. Edward sụp người chiếc dây an toàn, nửa bên phải bị xé nát, máu phun đầy khoang lái.

      - . - thét lên.

      giây sau, Robert chợt cảm thấy đau điếng ở ngực. Ngay lập tức, bộ đồ bay của ướt đẫm máu.

      Chiếc máy bay bắt đầu rơi theo hình xoắn ốc.

      cảm thấy mình ngất . Với chút sức lực cuối cùng tháo dây an toàn và quay sang nhìn Edward lần cuối cùng.

      - Tớ xin lỗi, - thầm, rồi ngất và cho tới sau này cũng thể nhớ được bật dù và rơi xuống mặt nước như thế nào. tín hiệu cấp cứu được phát chiếc trực thăng Vua biển SH-3A từ chiếc tàu U.S.S Yorktown bay vòng tròn, tìm cách cứu lên. Ở phía xa, đội bay nhìn thấy những chiếc tàu chiến Trung Quốc cỡ lao đến, nhưng quá muộn.

      Khi họ mang được Robert lên trực thăng, nhân viên y tế thoáng nhìn thân thể dập nát của "Lạy Chúa, thậm chí ta về được tới bệnh viện nữa".

      Họ tiêm cho Robert liều thuốc giảm đau, băng chặt lồng ngực lại và chở về bệnh viện dã chiến số 12 ở căn cứ Củ Chi.

      Bệnh viện 12 phục vụ cho các căn cứ Củ Chi, Tây Ninh và Dầu Tiếng có bốn trăm giường bệnh rải rác trong hơn chục khu điều trị với những chiếc nhà tôn tháo lắp được, nối liền với nhau bằng những hành lang và tạo thành khu liên hợp hình chữ U. Bệnh viện này có hai bộ phận cấp cứu, cho những ca phẫu thuật và cho những ca bỏng, mà cả hai luôn luôn trong tình trạng quá tải. Khi Robert được đưa vào máu giọt thành vệt sàn.

      bác sĩ phẫu thuật với vẻ khó chịu cắt những lớp băng quanh lồng ngực Robert, xem xét, và uể oải :

      - ta thể qua được. Đưa ta lại phòng lạnh . - Và viên bác sĩ bước .

      Robert nửa mê nửa tỉnh, thoáng nghe thấy lời viên bác sĩ. Vậy đấy, nghĩ, kiểu chết tẻ ngắt.

      - muốn chết phải , chàng thủy thủ? Mở mắt ra . Nào.

      mở mắt và lờ mờ nhìn thấy bóng áo trắng và khuôn mặt phụ nữ. ta còn thêm gì nữa, nhưng thể nghe được lời . Khu điều trị quá ồn ào, đầy những tiếng la thét và rên rỉ của bệnh nhân, tiếng các bác sĩ quát lên những mệnh lệnh, và tiếng chân các y tá cuống cuồng chạy vòng quanh chăm sóc những thân thể đầy thương tích nằm đó.

      Suốt 48 tiếng đồng hồ sau đó, Robert luôn trong tình trạng đau đớn và mê sảng. Chỉ mãi sau này mới biết rằng y tá đó, Susan Ward, thuyết phục được bác sĩ mổ và tiếp máu cho .

      Để giành lại sống cho , họ đặt bốn đường truyền máu vào cái thân thể nhàu nát của và liên tiếp truyền máu đồng thời qua cả bốn đường.

      Khi ca mổ kết thúc, viên bác sĩ trưởng kíp mổ thở dài:

      - Chúng ta phí thời gian. Khả năng ta qua được quá mười phần trăm.

      Thế nhưng viên bác sĩ biết Robert Bellamy. Và ông ta càng biết Susan Ward. Robert thấy dường như bất kỳ lúc nào mở mắt ra, Susan cũng ngồi bên, cầm tay , vuốt ve trán , chăm sóc và mong sống. mê sảng phần lớn thời gian và lúc nào Susan cũng lặng lẽ bên trong đêm đơn độc, nghe những lời lảm nhảm của .

      "Góc bổ nhào sai, thể lao cắm đầu vuông góc xuống mục tiêu hoặc ném bom xuống sông...

      Bảo họ chuyển góc bổ nhào chếch vài độ mục tiêu. Bảo họ..."

      lẩm bẩm.

      - Em bảo họ, - Susan dịu dàng .

      Người Robert ướt đẫm mồ hôi. lau cho .

      "Các phải bỏ cả năm cái kẹp an toàn nếu ghế lái bật ra được... Kiểm tra lại chúng ..."

      - Được rồi. Bây giờ ngủ .

      "Các chốt hãm các giá treo bị trục trặc... Có Chúa mới biết được là bom rơi xuống những đâu..."

      Susan phần lớn thể hiểu nổi bệnh nhân của gì cả.

      Susan Ward là trưởng nhóm y tá phục vụ phòng mổ cấp cứu. sinh ra ở thị trấn thuộc bang Idaho và lớn lên cùng với cậu bé nhà , Frank Prescott, con trai ông thị trưởng. Mọi người trong thị trấn đều cho rằng ngày nào đó họ lấy nhau.

      Susan có cậu em trai, Michael, mà rất quý. Vào dịp sinh nhật lần thứ mười tám, cậu ta nhập ngũ rồi được gửi sang Việt nam, và ngày nào Susan cũng viết thư cho cậu. Ba tháng sau ngày cậu đăng lính, gia đình Susan nhận được bức điện tín và biết nó gì trước khi họ giở ra.

      Khi Frank Prescott nghe tin, ta lao sang.

      - Tôi rất lấy làm buồn, Susan. Tôi rất thích Michael.

      Và rồi ta mắc lỗi khi cất lời.

      - Chúng ta hãy cưới ngay thôi.

      Susan nhìn ta và quả quyết.

      - . Tôi còn phải làm việc quan trọng đối với cuộc đời của tôi.

      - Hãy vì chúa. Em còn việc gì quan trọng hơn việc làm vợ tôi hả?

      Câu trả lời là Việt nam.

      Susan nhập học trường y tá.

      ở Việt nam được mười tháng, làm việc biết mệt mỏi, khi Robert Bellamy được đưa đến và cầm chắc cái chết. Cứu chữa có chọn lọc là thực tiễn chung tại bệnh viện cấp cứu tiền phương.

      Các bác sĩ thường kiểm tra hai hoặc ba bệnh nhân lượt và đưa ra những phán quyết vắn tắt về việc cố cứu lấy ai trong số họ. Vì những lý do mà chính cũng , Susan chỉ nhìn thân thể bằm dập của Robert Bellamy và hiểu rằng thể để chết được. Có phải đó chính là cậu em trai mà muốn cứu sống hay ? Hay còn là điều gì nữa. kiệt sức và quá mệt mỏi với công việc, nhưng thay cho việc nghỉ ngơi, dành mọi thời gian rỗi để chăm sóc .

      Susan xem xét lý lịch bệnh nhân của . phi công và huấn luyện viên cừ khôi, huân chương Chữ thập Hải quân. Nơi sinh của là Harvey, bang Illinois, thành phố công nghiệp ở phía nam Chicago. gia nhập Hải quân sau khi tốt nghiệp cao đẳng và huấn luyện ở Pensacola. chưa có vợ.

      Mỗi ngày, trong khi Robert Bellamy bình phục, mấp mé giữa làn ranh giới mỏng manh của sống và cái chết, Susan đều thầm bên tai .

      - Cố lên, chàng thủy thủ. Em đợi đấy.

      đêm, sáu ngày sau khi được mang vào bệnh viện, khi lảm nhảm trong cơn mê sảng, đột nhiên Robert ngồi thẳng dậy giường, nhìn Susan, và cách ràng:

      - phải là giấc mơ. Đúng .

      Susan cảm thấy tim nẩy lên.

      - Vâng, - khẽ khàng. - là em mà.

      - Tôi nghĩ là tôi nằm mê. Tôi nghĩ là tôi lên thiên đường và Chúa sai đến với tôi đấy.

      nhìn vào mắt Robert và đầy vẻ nghiêm túc.

      - Nếu để chết, thà là em giết .

      đưa mắt nhìn quanh phòng điều trị.

      - Tôi... ở đâu thế này?

      - Bệnh viện dã chiến số 12 tại Củ Chi.

      - Tôi ở đây bao lâu rồi?

      - Sáu ngày.

      - Eddie, cậu ấy...

      - Em buồn.

      - Tôi phải với ngài Đô đốc.

      cầm lấy tay và dịu dàng :

      - Ông ấy biết rồi. Ông ấy đến đây thăm .

      Robert ứa nước mắt.

      - Tôi căm ghét cuộc chiến tranh khốn nạn này. thể nào lên được.

      ***

      Từ thời điểm đó trở , hồi phục của Robert làm cho các bác sĩ ngạc nhiên.

      - Chúng ta sắp chuyển ta khỏi đây được rồi, - họ với Susan. Và cảm thấy choáng váng.

      Robert hề biết cách chính xác là Susan từ khi nào. Có thể là lúc thay băng cho thầm khi họ nghe tiếng bom rơi gần đó. "Họ chơi bài ca của chúng ta đấy".

      Hoặc có thể là khi họ bảo Robert rằng đủ sức để được đưa về bệnh viện Walter Reed ở Washington nằm dưỡng bệnh, và Susan :

      - nghĩ là em ở lại đây và để cho y tá khác được chăm sóc cái thân thể tuyệt vời này ư? Ồ, . Em xoay xở mọi cách để được cùng với !

      Họ cưới nhau hai tuần sau đó. Robert phải mất năm mới bình phục hoàn toàn, và suốt thời gian đó Susan chăm sóc cho mọi nhu cầu của , ngày và đêm. chưa bao giờ gặp ai giống như và cũng chưa bao giờ có thể tưởng tượng mình lại ai đến như vậy. lòng trắc nhạy cảm ở , tình nồng nàn và sức sống mãnh liệt của . vẻ đẹp và tính hài hước của .

      Vào lần kỷ niệm ngày cưới đầu tiên, với "Em là người phụ nữ đẹp nhất, tuyệt vời nhất, thân thương nhất đời này. trái đất này có ai có nồng ấm, hóm hỉnh và thông minh như em".

      Và Susan ôm lấy chặt, thầm bằng cái giọng mũi nhưng trong trẻo của : " cũng vậy em biết".

      Họ chia xẻ với nhau chỉ tình . Họ ham muốn cũng như tôn trọng nhau. Tất cả bạn bè đều như ghen tị và mừng cho họ. Bất kỳ khi nào đó chuyện về đám cưới hạnh phúc, Robert và Susan luôn luôn là tấm gương họ nêu ra. Họ hợp nhau về mọi mặt, thực đôi bạn tinh thần.

      Susan còn la người đàn bà gợi tình nhất mà Robert từng biết và chỉ cần lời , đụng chạm là họ có thể làm cho nhau bừng bừng ham muốn. buổi tối, họ dự tính đến bữa tiệc trịnh trọng, Robert hơi bị trễ. đứng dưới vòi tắm hoa sen Susan bước vào phòng tắm với bộ váy áo hở vai, trông đáng .

      - Lạy Chúa, trông em khêu gợi quá, - Robert . - tệ là chúng ta mất hết giờ rồi.

      - Ôi đừng lo về điều đó, - Susan nhoẻn cười.

      Rồi giây sau, tụt váy ra và ôm chầm lấy Robert trong làn nước.

      Họ bao giờ đến được cái bữa tiệc kia.

      Susan cảm nhận được những nhu cầu của Robert thậm chí còn trước cả chính , và lo liệu cho tất cả những thứ đó. Robert cũng chu đáo với ngang như vậy. Susan thường thấy những thư tình bàn trang điểm hoặc trong giầy khi chuẩn bị mặc quần áo. Hoa và những món quà được gửi đến vào những ngày lễ này nọ.

      Và cái chính là tiếng cười mà họ chia sẻ. Tiếng cười tuyệt vời.

      ***

      Tiếng viên phi công chợt vang lên trong hệ thống liên lạc nội bộ.

      - Thưa ông chỉ huy, mười phút nữa chúng ta hạ cánh xuống Zurich.

      Những ý nghĩ của Robert Bellamy vụt trở lại với tại, tới nhiệm vụ của . Trong 15 năm ở Tình báo Hải quân, đă từng có hàng chục trường hợp đầy thách thức, nhưng vụ này hẳn là vụ kỳ dị nhất. đường tới Thụy Sĩ để tìm kiếm những nhân chứng vô danh chiếc xe bus, những người như biến mất vào khí rồi vậy.

      Cứ cho đây là việc phải tìm cái kim trong đống cỏ khô chăng nữa thậm chí mình cũng biết cái đống rơm đó nằm tại chỗ nào. Sherlock Holmes ở đâu khi mà mình cần đến ông ấy nhỉ?

      - Xin ông thắt dây lưng an toàn vào cho?

      Chiếc C20A lướt những khoảng rừng tối, và giây sau, hạ cánh xuống đường băng được đánh dấu bằng những ngọn đèn hiệu hạ cánh của sân bay, hướng tới tòa nhà của bộ phận điều hành chung, tránh xa khu ga chính. Vẫn còn những vũng nước đọng sân do những trận mưa trước đó, nhưng bầu trời đêm trong trẻo.

      - Thời tiết điên rồ, - Viên phi công nhận xét. - Chủ nhật trời nắng, mưa suốt ngày hôm nay và đêm lại quang đãng. Ở đây ông cần đến đồng hồ đâu. Cái mà ông cần là phong vũ biểu. Tôi thu xếp cho ông chiếc ô tô chứ, ông chỉ huy?

      - , cảm ơn.

      Từ phút này trở , phải hoàn toàn tự mình làm mọi việc. Robert chờ cho chiếc máy bay chạy xa, rồi lên chiếc xe bus chạy về khách sạn trong sân bay. Ở đó, chìm vào giấc ngủ hề mơ mộng gì.

    4. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825

      Chương 7



      Ngày thứ hai.

      8 giờ 00.

      Sáng hôm sau, Robert đến trước nhân viên ngồi sau chiếc bàn làm việc của hãng cho thuê ô tô châu Âu.

      - Xin chào, - ta bằng tiếng Đức.

      Đó là lời nhắc nhở rằng ở trong vùng tiếng Đức đất Thụy Sĩ.

      - Xin chào, - đáp lại cũng bằng tiếng Đức. - có xe cho thuê ?

      - Thưa ông, có. Ông cần nó trong bao lâu?

      câu hỏi hay. giờ ư? Hay có thể là năm hoặc hai năm?

      - Tôi .

      - Ông có định mang trả chiếc xe tại đây ?

      - Có thể là như vậy.

      Tay nhân viên lạ lùng nhìn .

      - Rất tốt. Xin ông điền vào các mẫu giấy tờ này cho?

      Robert trả tiền thuê xe bằng cái thẻ tín dụng đặc biệt màu đen mà tướng Hilliard đưa cho . Tay nhân viên xem xét tấm thẻ, lúng túng, và :

      - Xin lỗi chút.

      - ta biến mất vào căn phòng và khi trở ra, Robert hỏi, - Có gì rắc rối hả?

      - , thưa ông. có gì cả.

      Đó là chiếc Opel Omega màu xám. Robert lái xe ra con đường cao tốc của sân bay và chạy vào thành phố. rất thích Thụy Sĩ. Đây là trong những đất nước đẹp nhất thế giới. Nhiều năm về trước, từng trượt tuyết ở đây, liên hệ với Espionage Abreilung - Cơ quan tình báo của Thụy Sĩ. Trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai, cơ quan này được tổ chức thành 3 bộ phận: D, P và I, mỗi bộ phận phụ trách riêng rẽ các địa bàn Đức, Pháp và Italia.

      nay, mục tiêu chính yếu của nó gắn liền với việc phát triển các hoạt động gián điệp được tiến hành trong các tổ chức khác nhau của Liên Hiệp Quốc ở Geneva.

      Robert có bạn hữu trong cơ quan tình báo Thụy Sĩ, nhưng nhớ lời dặn của tướng Hilliard, " được liên hệ với bất kỳ ai trong số họ".

      Quãng đường vào thành phố mất hai mươi lăm phút. Robert đến đầu mối giao thông Dubendorf rồi cho xe hướng về phía khách sạn Doler Grand. Nó vẫn đúng như còn nhớ: lâu đài kiểu Thụy Sĩ lớn quá cỡ nhìn ra hồ Zurich với những tháp gây ấn tượng mạnh, bao bọc bởi cây cỏ. đậu xe và bước vào tiền sảnh. Phía bên trái là bàn tiếp tân.

      - Xin chào.

      - Xin chào. Tôi muốn có phòng cho đêm, được chứ?

      Họ trao đổi bằng tiếng Đức.

      - Vâng. Ông thanh toán thế nào ạ?

      - Bằng thẻ tín dụng của tôi. - Vẫn chiếc thẻ tín dụng có màu trắng đen mà tướng Hilliard đưa cho . Robert hỏi xin tấm bản đồ Thụy Sĩ và sau đó được đưa tới căn phòng đầy đủ tiện nghi trong khu phòng mới của khách sạn. Căn phòng có ban công nhìn ra hồ. Robert đứng đó, hít thở khí trời mùa thu mát lành và nghĩ tới nhiệm vụ trước mắt .

      có gì để mà tiếp tục cả. dấu vết chết tiệt nào. Tất cả, các dữ liệu cho bài toán đều hoàn toàn được biết. Tên của cái hãng du lịch kia. Số lượng những du khách kia. Tên tuổi và địa chỉ nào đó của họ. "Có phải tất cả các nhân chứng đều ở Thụy Sĩ ? - "Đó chính là khó khăn của chúng ta. Chúng ta hề biết họ là ai, hay họ ở đâu. Và như vậy chỉ tìm được vài nhân chứng đó cũng quá khó. "Ông phải tìm được tất cả các nhân chứng đó? Thông tin duy nhất mà có được là địa điểm và thời gian: Uetendort, Chủ nhật, ngày 14 tháng Mười".

      cần có sợi rơm, cái gì đó để mà bám vào. Nếu nhớ chính xác tất cả những xe du lịch theo tuyến trong thời gian ngày, chỉ xuất phát từ hai thành phố lớn Zurich và Geneva. Robert mở ngăn kéo và lấy ra cuốn danh bạ điện thoại dầy cộp. Mình tìm vần M, để cầu may thôi, Robert nghĩ.

      Có tới gần chục hãng du lịch được đăng ký: Sunshine Tours, Swisstour, Tour Service, Touralpino, Tourisma Reisen... phải kiểm tra từng hãng . ghi lại địa chỉ của tất cả các hãng đó và lái xe tới những văn phòng của vài hãng gần đấy nhất.

      Có hai nhân viên ở sau dãy bàn dài để tiếp du khách. Khi trong hai người rảnh việc, Robert cất tiếng:

      - Xin lỗi. Vợ tôi là trong số khách theo tuyến của các chủ nhật tuần trước, và ấy để quên chiếc ví xe. Tôi nghĩ là ấy hồi hộp bởi vì nhìn thấy quả bóng thám bị tai nạn ở gần Uetendort.

      Tay nhân viên chau mày.

      - Hẳn là ông nhầm rồi. Tuyến của chúng tôi hề tới gần Uetendort.

      - Ồ xin lỗi. - Vậy là .

      Nơi dừng chân thứ hai có vẻ có kết quả hơn.

      - Tuyến du lịch của các Uetendort nhỉ?

      - Ồ có ạ - Người nhân viên mỉm cười. - Các tuyến của chúng tôi đến khắp nơi đất Thụy Sĩ. Những thắng cảnh đẹp nhất. Chúng tôi có Zermatt - tuyến đặc biệt. Cũng có tuyến du lịch tốc hành Glacier và Palm. Tuyến Vòng tròn lớn khởi hành trong...

      - Có phải các chuyến hôm chủ nhật mà xe dừng lại để xem cái khinh khí cầu bị đâm vào núi đó ? Tôi hiểu là vợ tôi trở về khách sạn muộn và...

      Người nhân viên sau bàn với vẻ đầy công phẫn:

      - Chúng tôi rất tự hào với thực tế là các chuyến du lịch theo tuyến chúng tôi là bao giờ trễ cả. Chúng tôi dừng ngoài chương trình.

      Vậy là trong những xe của các dừng lại để xem cái khinh khí cầu đó phải ?

      - Chắc chắn là .

      - Cảm ơn. - Vậy là hai.

      Văn phòng thứ ba mà Robert ghé đến đặt tại Bahnhofplatz, và tấm biển bên ngoài đề Sunshine Tours.

      Robert bước đến bên chiếc bàn tiếp khách.

      - Xin chào... Tôi muốn hỏi về trong số những xe tuyến của các . Tôi có nghe quả bóng thám bị tai nạn ở gần Uetendort và người lái xe của các dừng lại nửa giờ cho du khách xem.

      - , . ta chỉ dừng lại mười lăm phút thôi. Chúng tôi có những lịch trình rất nghiêm ngặt.

      Trúng rồi.

      - Ông là ông quan tâm đến chuyện gì trong việc này nhỉ? - Nhân viên Hãng du lịch hỏi khi thấy khách im lặng.

      Robert móc ra trong những tấm các được trao cho .

      - Tôi là phóng viên, - Robert cách sốt sắng. - Và tôi viết cho Tạp chí Du lịch và thanh thản về hiệu quả của xe bus ở Thụy Sĩ, so sánh với các nước khác. Tôi biết liệu tôi có thể phỏng vấn người lái xe của các được ?

      - Đó bài báo thú vị đấy. Rất thú vị là đằng khác. Người Thụy Sĩ chúng tôi tự hào về hiệu quả làm việc của mình.

      - Và niềm tự hào đó là xứng đáng, - Robert quả quyết với ta.

      - Liệu tên Hãng chúng tôi có được nhắc đến ?

      - ở vị trí nổi bật đấy.

      Tay nhân viên mỉm cười.

      - Ồ vậy tôi thấy có gì bất lợi cả.

      - Tôi có thể chuyện với ta ngay bây giờ được ?

      - Hôm nay là ngày nghỉ của ông ta. - ta viết cái tên lên mẩu giấy.

      Robert Bellamy đọc ngược dòng chữ Hans Beckerman.

      Tay nhân viên viết thêm địa chỉ.

      - Ông ta ở Kapel. Đó là làng , cách Zurich chừng 40 kilômét. Lúc này ông có thể tìm thấy ông ta ở nhà.

      Robert Bellamy cầm lấy mẩu giấy.

      - Rất cám ơn . Nhân tiện, - Robert , - để chúng tôi có đầy đủ các dữ kiện cho câu chuyện, có biết số lượng vé bán ra cho chuyến đó ?

      - Tất nhiên. Chúng tôi lưu hồ sơ về tất cả các chuyến du lịch. Xin đợi phút. - ta nhấc cái cặp phía dưới bàn và giở trang ra.

      - À, đây rồi. Chủ nhật, Hans Beckerman. Có 7 hành khách. ta lái chiếc Iveco ngày hôm đó, chiếc xe bus .

      Bảy người khách vô danh và người lái xe. Robert cố cầu may.

      - có tên những du khách đó ?

      - Thưa ông, người ta từ ngoài đường bước vào, mua vé và lên đường. Chúng tôi cầu thứ giấy tờ gì.

      Tuyệt .

      - lần nữa, cảm ơn nhé. - Robert ra phía ngoài cửa.

      Tay nhân viên với theo:

      - Tôi mong ông gửi cho chúng tôi bản của bài báo nhé.

      - Chắc chắn rồi. - Robert đáp.

      ***

      Chi tiết đầu tiên của vấn đề là chiếc xe bus, và Robert lái xe đến Talstrasse, nơi những chiếc xe bus khởi hành, thầm mong nó có thể để lộ dấu vết nào đó. Chiếc xe Iveco sơn màu nâu và trắng bạc, vừa đủ để có thể vượt những con đường dốc của dãy núi Alps, với mười bốn ghế ngồi dành cho khách. Bảy người đó là ai, và họ biến đường nào?

      Robert ngồi vào xe của mình. xem bản đồ và đánh dấu đường . đường Lavessneralle ra khỏi thành phố, tới vùng Albis, nơi bắt đầu dãy núi Alps, và hướng tới làng Kapel. chạy theo hướng nam, ngang qua dẫy đồi bao quanh Zurich và bắt đầu leo lên dây Alps huyền diệu. lái xe chạy qua Adliswil, Langnau và Hausen và bao nhiêu làng mạc vô danh khác với những ngôi nhà làm bằng gỗ và quang cảnh đẹp như tranh. Gần tiếng sau, tới Kapel. Ngôi làng này có tiệm ăn, nhà thờ, bưu điện và khoảng hơn chục ngôi nhà nằm rải rác quanh những quả đồi. Robert đỗ xe và bước vào tiệm ăn. hầu bàn lau chùi cái bàn gần cửa ra vào.

      - Xin chào . có biết nhà ông Beckerman ở đâu ? - bằng tiếng Đức.

      - Dạ. - chỉ tay dọc theo con đường. - Phía cuối kia kìa.

      - Cảm ơn.

      Robert rẽ phải chỗ cái nhà thờ và chạy đến ngôi nhà hai tầng xây bằng đá vẻ khiêm nhường, với mái ngói. ra khỏi xe và bước đến trước cửa. nhìn thấy chuông, đành phải gõ cửa.

      người phụ nữ to lớn với hàng ria mép mờ mờ ra mở cửa.

      - Có gì vậy?

      - Xin lỗi vì làm phiền chị. Ông Beckerman có nhà ạ?

      Chị ta nhìn có vẻ nghi ngờ.

      - Ông muốn gì ở ông ấy hả?

      Robert trao cho chị ta nụ cười quyến rũ.

      - Chị hẳn phải là vợ của ông Beckerman. - móc cái thẻ phóng viên ra. - Tôi làm bài tạp chí về những người lái xe bus Thụy Sĩ, và chồng chị được giới thiệu với tạp chí của tôi là trong những người lái xe an toàn nhất nước.

      Gương mặt chị ta sáng lên và cách đầy tự hào:

      - Hans của tôi là người lái xe tuyệt vời.

      - Chị Beckerman, đó là điều mà mọi người đều với tôi. Tôi muốn được phỏng vấn ông ấy.

      - Phỏng vấn Hans của tôi cho tờ tạp chí ư? - Chị ta đỏ bừng mặt. - Điều đó thú vị. Xin mời vào.

      Chị ta dẫn Robert vào căn phòng khách và gọn gàng ngăn nắp.

      - Xin chờ ở đây. Tôi gọi Hans.

      Ngôi nhà có trần thấp nhưng sáng sủa, sàn nhà bằng gỗ màu sẫm, đồ đạc bằng gỗ trong nhà khá giản dị. Có cái lò sưởi bằng đá và những tấm rèm treo các cửa sổ.

      Robert đứng đó ngẫm nghĩ. Đây chỉ là đầu mối tốt nhất mà còn là đầu mối duy nhất của .

      "Người ta từ ngoài đường bước vào, mua vé và lên đường Chúng tôi cầu thứ giấy tờ gì..."

      Từ đây mình còn chưa biết đâu, Robert nhăn nhó nghĩ. Nếu ở đây ổn, mình luôn luôn có thể cho đăng lời rao:

      "Xin mời bảy du khách chiếc xe bus nhìn thấy vụ tai nạn khinh khí cầu hôm chủ nhật đến phòng khách sạn của tôi vào lúc mười hai giờ trưa mai. có bữa điểm tâm".

      người đàn ông mảnh khảnh và hói đầu xuất . Nước da ông mai mái và ông ta để bộ ria mép dầy, đen rất hợp với toàn bộ vẻ ngoài của mình.

      - Xin chào ông.

      - Tôi là Smith. Xin chào ông. - Giọng Robert đầy nhiệt tình. - Tôi rất mong ngóng được gặp ông, ông Beckerman.

      - Vợ tôi là ông viết câu chuyện về những người lái xe bus chúng tôi. - Ông ta với giọng Đức nặng trịch.

      Robert nở nụ cười với vẻ tranh thủ tình cảm.

      - Đúng thế. Tờ tạp chí của tôi rất quan tâm đến hồ sơ lái xe an toàn tuyệt vời của ông và...

      - Thôi . - Beckerman thô lỗ cắt ngang. - Ông quan tâm tới cái vụ tai nạn chiều hôm qua, phải thế ư?

      Robert làm ra vẻ lúng túng.

      - thực là, vâng, tôi cũng muốn bàn cả chuyện đó nữa.

      - Vậy sao ông thẳng ra hả? Ngồi xuống.

      - Cảm ơn. - Robert ngồi xuống chiếc văng.

      Beckerman :

      - Tôi lấy làm tiếc là thể mời ông uống chút, nhưng quả là chúng tôi còn trữ sẵn rượu trong nhà. - Ông ta đập đập tay vào bụng. - Loét dạ dày. Thậm chí các thầy thuốc thể cho tôi thuốc giảm đau được. Tôi phản ứng với tất cả các loại đó. - Ông ta ngồi xuống phía đối diện với Robert. - Nhưng mà ông đến đây để về sức khỏe của tôi có phải , hả? Ông muốn biết gì nào?

      - Tôi muốn chuyện với ông về những người khách chiếc xe của ông hôm chủ nhật, mà ông dừng lại gần Uetendort nơi quả bóng thám đâm vào núi ấy.

      Hans Beckerman nhìn chòng chọc.

      - Bóng thám nào? Ông chuyện gì vậy?

      - Quả bóng mà...

      - Ông con tàu gian ấy ư?

      Đến lượt Robert kinh ngạc.

      - Tàu... gian?

      - Phải, cái đĩa bay.

      Phải mất giây để những lời này được cảm nhận hết. Robert thấy ớn lạnh cách đột ngột.

      - Có phải ông với tôi là ông nhìn thấy cái đĩa bay ?

      - Phải. Với những xác chết trong đó.

      "Ngày hôm qua, ở vùng núi Alps, Thụy Sĩ, quả bóng thám thời tiết của NATO đâm vào núi, có vài dụng cụ thí nghiệm quân tối mật quả cầu đó".

      Robert phải rất cố gắng để giữ vẻ bình tĩnh.

      - Ông Beckerman, ông có chắc chắn cái mà ông nhìn thấy là đĩa bay hả?

      - Tất nhiên. Cái mà họ gọi là vật thể bay lạ.

      - Và có những người chết ở trong đó?

      - phải là người, phải. Những sinh vật. Rất khó mô tả họ. - Ông ta hơi rùng mình. - Họ rất với những đôi mắt to, rất lạ. Họ mặc những bộ quần áo có màu kim loại bạc. Trông rất sợ.

      Robert lắng nghe, đầu óc rối bời.

      - Những hành khách của ông có trông thấy ?

      - Ồ có. Tất cả chúng tôi đều trông thấy. Tôi dừng ở đó có tới mười lăm phút ấy. Họ muốn chúng tôi dừng lại lâu hơn, nhưng hãng luôn rất nghiêm ngặt về lịch trình.

      Robert biết câu hỏi là vô ích thậm chí trước cả lúc ra.

      - Ông Beckerman, ông có biết tên của hành khác nào trong số đó ?

      - Thưa ông, tôi là người lái xe. Hành khách mua vé ở Zurich và chúng tôi đưa họ về phía tây nam đến Interlaken và rồi theo hướng tây-bắc tới Bern. Họ có thể hoặc là xuống Bern, hoặc trở về Zurich. ai cho biết tên cả.

      - Ông có cách nào để nhận diện bất kỳ ai trong số họ à? - Robert cách tuyệt vọng.

      Người lái xe bus ngẫm nghĩ giây lát.

      - Ồ tôi có thể với ông là chuyến đó có trẻ em. Toàn đàn ông.

      - Chỉ có đàn ông thôi hả?

      Beckerman ngẫm nghĩ.

      - , phải thế. Cũng có phụ nữ.

      Kinh khủng. Điều đó thu hẹp thêm khả năng tìm kiếm, Robert nghĩ. Câu hỏi tiếp theo: Quái quỷ thế nào mà mình lại nhận cái nhiệm vụ này cơ chứ?

      - Ông Beckerman, ông nhóm du khách lên chiếc xe bus của ông ở Zurich và rồi khi chuyến kết thúc đơn thuần là họ tản có phải vậy ?

      - Đúng thế, ông Smith.

      Vậy là thậm chí có cả cái đống cỏ khô.

      - Ông có nhớ bất kỳ điều gì về số hành khách ? Bất kỳ điều gì họ hoặc làm?

      Beckerman lắc đầu.

      - Thưa ông, để ý đến họ làm gì, miễn là được trả tiền thôi chứ. Trừ phi họ gây rắc rối gì. Như cái ông người Đức đó.

      Robert ngồi im phăng phắc. nhàng hỏi:

      - Người Đức nào?

      - Tất cả những hành khách khác đều hứng thú xem cái vật thể bay lạ kia và những sinh vật chết trong đó, thế mà cái lão già này cứ phàn nàn đòi chúng tôi phải nhanh lên để đến Bern vì lão ta phải chuẩn bị bài giảng gì đó cho trường đại học vào buổi sáng...

      Mọi bắt đầu đây.

      - Ông có còn nhớ gì khác về ông ta ?

      - .

      - gì cả ư?

      - Ông ta mặc cái áo choàng màu đen.

      Tuyệt.

      - Ông Beckerman này, tôi muốn nhờ ông việc. Ông có thể chở tôi đến Uetendort được ?

      - Hôm nay là ngày nghỉ của tôi. Tôi bận với...

      - Tôi rất vui lòng được trả công ông mà.

      - Thế hả?

      - Hai trăm đồng mác.

      - Tôi ...

      - Tôi trả bốn trăm mác.

      Beckerman nghĩ chút.

      - Sao lại nhỉ? chơi hôm nay cũng đẹp trời đấy chứ?

      Họ về phía nam, qua Luzern và những làng đẹp như tranh vẽ ở Immensee và Meggen. Phong cảnh đẹp đến ngợp thở, nhưng đầu óc Robert còn mải với những chuyện khác.

      Họ chạy qua Engelberg, với tu viện cổ Benedictine, và Brunig, con đèo dẫn tới vùng Interlaken. Xe họ băng qua Leissigen và Faulensse, với hồ lớn xanh thẳm điểm những cánh buồm trắng xóa.

      - Còn bao xa nữa? - Robert hỏi.

      - Sắp tới rồi, - Hans Beckerman hứa.

      Sau khi chạy được gần giờ họ tới Spiez.

      Hans Beckerman :

      - Bây giờ còn xa nữa. Chỉ qua Thun là tới.

      Robert cảm thấy tim mình bắt đầu đập nhanh hơn.

      - sắp được chứng kiến thứ gì đó vượt khỏi sức tưởng tượng, những người khách xa lạ từ những hành tinh khác. Họ chạy qua Thun, ngôi làng , và ít phút sau khi họ đến gần cánh rừng gần xa lộ, Hans Beckerman đưa tay chỉ và :

      - Kia, kìa.

      Robert đạp phanh và dừng lại bên đường.

      - Bên kia kìa. Sau những cái cây đó.

      Robert thấy cái cảm giác hồi hộp mỗi lúc tăng.

      - Được. Chúng ta hãy nhìn xem.

      chiếc xe vận tải chạy qua. Khi nó khỏi, Robert và Hans Beckerman sang đường. Robert theo người lái xe bus ngược lên đoạn dốc dẫn tới cánh rừng.

      Con đường hoàn toàn khuất khỏi tầm mắt. Lúc họ bước tới quãng trống, Beckerman lớn tiếng :

      - Đúng chỗ này đây.

      Nằm mặt đất phía trước họ là những mảnh vụn nát của quả bóng thám .


      Chương 8



      Mình quá già trong nghề này mất rồi, Robert mệt mỏi nghĩ. Mình thực mê muội vì câu chuyện đĩa bay của .

      Hans Beckerman nhìn đăm đăm vào cái thứ nằm mặt đất, vẻ bối rối lên gương mặt ông ta.

      - Mẹ kiếp, phải nó.

      Robert thở dài.

      - phải nó, có phải ?

      Beckerman lắc đầu.

      - Nó ở đây ngày hôm qua mà.

      - Có thể là những người bé màu xanh của ông chở nó rồi đấy.

      - , . Họ chết cả rồi. - Beckerman khăng khăng.

      Chết. Điều đó là lời kết luận chính xác cho cái sứ mệnh của mình. Đầu mối duy nhất của mình là thằng điên nhìn thấy những con tàu gian.

      Robert bước đến bên mảnh quả cầu để xem xét nó cách cẩn thận hơn. Nó là cái bao nhôm lớn có đường kính khoảng năm mét, với những cạnh răng cưa nơi nó bị rách ra khi đâm xuống đất. Tất cả các thiết bị được mang , đúng như tướng Hilliard với . "Tôi thể nào hết tầm quan trọng của những gì chứa trong quả cầu đó"

      Robert vòng quanh quả cầu xẹp lép, sục mũi giầy trong đám cỏ ướt tìm kiếm dấu vết mờ nhạt nhất có thể có. có gì. Nó giống hệt hàng chục quả bóng thám thời tiết khác mà từng nhìn thấy trong những năm qua.

      Ông già vẫn chịu đầu hàng, vẫn đầy cái vẻ ương ngạnh rất Đức. "Những thứ lạ lùng đó... Họ làm chúng giống như thế này này. Ông biết đấy, họ có thể làm được mọi thứ".

      còn gì để làm ở đây nữa, Robert quyết định.

      Bít tất của ướt hết vì những đám cỏ ướt. bước đến bên cái vỏ quả cầu.

      - Ông giúp tôi nâng cái góc này lên chứ?

      Beckerman nhìn chút, ngạc nhiên.

      - Ông muốn tôi nâng nó lên ư?

      - Phải.

      Beckerman nhún vai. Ông ta cầm góc của cái thứ vật liệu rất kia và nâng lên trong khi Robert nâng góc khác. nâng mảnh nhôm lên cao quá đầu và bước vào phía trong. Hai chân ngập trong cỏ.

      - Ở dưới này cũng ướt. - Robert gọi với ra.

      - Tất nhiên. Trời mưa suốt cả ngày hôm qua. Toàn bộ mặt đất đều ướt.

      Robert từ bên dưới quả cầu chui ra.

      - Đáng ra nó phải khô.

      "Thời tiết điên rồ, viên phi công . "Chủ nhật trời nắng?" Đó là ngày quả cầu đâm xuống đất. Mưa suốt ngày hôm nay và đêm lại quang đãng. Ở đây ông cần đến đồng hồ đâu. Cái mà ông cần là cái phong vũ biểu.

      - Cái gì hả?

      - Thời tiết thế nào khi ông ta nhìn thấy cái vật thể bay lạ?

      Beckerman ngẫm nghĩ lát.

      - Đó là buổi chiều đẹp trời.

      - Trời nắng chứ?

      - Vâng. Trời nắng.

      - Nhưng trời mưa suốt cả ngày hôm qua phải ?

      Beckerman nhìn , khó hiểu.

      - Vậy sao?

      - Vậy nếu quả cầu này ở đây suốt đêm, mặt đất bên dưới nó phải khô, hoặc cùng lắm là ẩm thôi do thẩm thấu. Thế nhưng nó lại ướt đẫm, giống như phần còn lại ở khu vực này.

      Beckerman ngẩn ra.

      - Tôi hiểu. Điều đó có nghĩa là thế nào?

      - Nó có thể có nghĩa là, - Robert cách thận trọng, - ai đó đặt quả cầu này ở đây ngày hôm qua sau khi trời bắt đầu mưa và mang cái mà ông nhìn thấy.

      Hay có cách giải thích nào đó điên rồ hơn mà chưa nghĩ tới? Ai lại làm cái việc điên khùng như vậy?

      điên đến thế đâu, Robert nghĩ. Chính phủ Thụy Sĩ có thể làm việc này để đánh lừa bất kỳ vị khách tò mò nào. Cái mẹo đầu tiên của việc bưng bít là tưng tin giả.

      Robert bước qua đám cỏ ướt chăm chú nhìn mặt đất và tự mắng mình là kẻ khờ dại cả tin.

      Hans Beckerman nghi hoặc nhìn Robert.

      - Này ông, ông là ông viết cho tạp chí nào nhỉ?

      - Du lịch và thanh thản.

      Hans Beckerman mừng rỡ.

      - Ồ. Vậy tôi cho rằng ông muốn chụp ảnh tôi giống như cái thằng cha kia.

      - Cái gì?

      - Cái tay chụp ảnh chụp hình bọn tôi ấy mà.

      - Ông đến ai vậy? - Robert cau mày.

      - Cái tay chụp ảnh. Tay đó chụp ảnh cho chúng tôi trước cái xác con tàu. ta gửi cho chúng tôi mỗi người tấm. vài người khách khác cũng có máy ảnh.

      Robert từ tốn:

      - Hãy khoan nào. Ông là có ai đó chụp hình các du khách kia ở đây ngay trước cái vật thể bay lạ phải ?

      - Đó chính là điều tôi với ông đấy.

      - Và ông ta hứa gửi cho mỗi người các ông tấm ảnh?

      - Đúng vậy.

      - Vậy ông ta hẳn phải lấy tên và địa chỉ của các ông chứ?

      - Ồ tất nhiên. Nếu ông ta biết gửi chúng như thế nào được?

      Robert đứng lặng người, toàn thân nóng bừng bừng.

      tình cờ tuyệt vời, Robert, mi là thằng may mắn. sứ mạng bất khả thi bỗng đột ngột trở thành miếng bánh. còn phải tìm bẩy du khách vô danh kia nữa. Tất cả những gì mà phải làm là tìm tay chụp ảnh.

      ***

      - Sao lúc trước ông nhắc đến ông ta, ông Beckerman?

      - Ông hỏi tôi về những hành khách kia mà.

      - Ý ông ông ta phải là hành khách của ông à?

      Hans Beckerman lắc đầu.

      - - Ông ta chỉ tay. - Xe của ông ta bị chết máy phía bên kia xa lộ. chiếc xe cẩu sắp sửa lôi nó xảy ra vụ này với chấn động mạnh, và ông ta chạy sang đường để xem có chuyện gì xảy ra. Khi nhìn thấy nó, ông ta trở về xe, chộp lấy máy ảnh và quay trở lại. Thế rồi ông ta bảo tất cả chúng tôi đứng vào để chụp hình trước cái đĩa bay đó.

      - Cái người chụp ảnh đó có tên với ông ?

      - .

      - Ông có nhớ gì về ông ta ?

      Hans Beckerman cố tập trung trí nhớ.

      - Ồ, ông ta là người ngoại quốc. Người Mỹ hoặc .

      - Ông chiếc xe cẩu sẵn sàng lôi xe của ông ta ?

      - Đúng thế.

      - Ông có nhớ chiếc xe cẩu chạy đường nào ?

      - Phía bắc. Tôi đoán rằng ông ta mang nó Bern. Thun gần hơn nhưng vào chủ nhật mọi ga-ra ở Thun đều đóng cửa.

      - Cám ơn ông. Ông giúp tôi rất nhiều. - Robert mỉm cười.

      - Ông quên gửi cho tôi bài báo của ông sau khi kết thúc chứ?

      - . Đây là tiền của ông và thêm trăm mác cho giúp đỡ của ông. Tôi đưa ông về nhà.

      Họ về xe. Khi Beckerman mở cửa xe, ông ta dừng lại và quay sang Robert.

      - Ông là hào phóng. - Ông ta móc trong túi ra miếng kim loại hình vuông, cỡ bằng cái bật lửa, có chứa tinh thể màu trắng xíu.

      - Cái gì thế này?

      - Tôi thấy nó mặt đất hôm chủ nhật trước lúc chúng tôi quay lại xe.

      Robert xem xét cái vật lạ lùng kia. Nó như giấy và có màu của cát. cạnh ráp của nó cho thấy nó có thể là phần của bộ phận khác. phần của cái thiết bị chứa trong quả bóng thám kia? Hay phần của vật thể bay lạ?

      - Có thể nó mang lại may mắn cho ông, - Beckerman trong lúc ông ta xếp những đồng tiền mà Robert vừa đưa cho ông ta vào ví. - Với tôi hẳn là thế rồi. - Ông ta ngoác miệng cười và chui vào xe.

      ***

      đến lúc phải tự hỏi mình câu hỏi nghiêm túc: Mình có tin có những vật thể bay lạ ? đọc nhiều bài báo điên rồ của những người là họ thấy những con tàu gian và đủ loại chuyện kỳ quặc khác và thường gắn những tin tức này với những người hoặc là tìm kiếm nổi tiếng hoặc là cần phải tự tìm đến giúp đỡ của bác sĩ tâm thần giỏi. Nhưng trong mấy năm gần đây, có những tin tức dễ gì bác bỏ được. Các tin tức về việc nhìn thấy các vật thể bay lạ bởi các nhà du hành vũ trụ, các phi công quân các viên chức cảnh sát, những người có uy tín những người né tránh xuất trước công chúng.

      Thêm vào đó là tin đáng quan ngại về vật thể lạ đâm xuống Roswell bang New Mexico, nơi dường như tìm thấy xác của những sinh vật lạ. Chính phủ bị cho là bưng bít chuyện đó và mang mọi bằng chứng. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, các phi công báo cáo về việc nhìn thấy những thứ lạ lùng mà họ gọi là những chiếc máy bay tiêm kích Foo, những vật thể bay xác định được lai lịch bay sát tới họ và rồi biến mất. Có những câu chuyện về những thị trấn được viếng thăm bởi những vật thể giải thích được từ trời bay vút xuống. Nếu có những sinh vật lạ trong các vật thể bay lạ từ hệ mặt trời khác đến sao? Robert phân vân. Điều đó ảnh hưởng thế nào đến thế giới của chúng ta? Liệu điều đó có nghĩa là hòa bình? Chiến tranh? chấm dứt của nền văn minh mà chúng ta biết chăng? thấy mình phần nào mong rằng Hans Beckerman là kẻ ngớ ngẩn điên rồ, và là quả bóng thám thời tiết đâm xuống đất. phải tìm nhân chứng khác để hoặc là xác nhận câu chuyện của Beckerman hoặc là bác bỏ nó. Nhìn bề ngoài, câu chuyện dường như thể tin được, thế nhưng có điều gì đó làm bận tâm Robert: Giá như nó chỉ là quả bóng thám gặp nạn, thậm chí nó có mang những thiết bị đặc biệt chăng nữa, vì sao mình lại bị gọi đến cuộc gặp gỡ tại NSA vào lúc 6 giờ sáng và được cho biết điều khẩn cấp là phải nhanh chóng tìm ra tất cả các nhân chứng? Có vụ bưng bít nào ?

      Và nếu vậy vì sao?


      Chương 9



      Cuối ngày hôm đó, cuộc họp báo được tổ chức tại Geneva, trong khu văn phòng giản dị của Bộ Nội vụ Thụy Sĩ. Có tới hơn năm chục phóng viên có mặt trong phòng và cả đám đông ở ngoài hành lang. Có các đại diện phát thanh, truyền hình và báo chí từ hơn chục nước, nhiều người trong số họ lỉnh kỉnh với micrô và các thiết bị ghi hình. Dường như tất cả bọn họ đều cất tiếng cùng lúc.

      - Chúng tôi nghe tin tức rằng đó phải là quả bóng thám thời tiết...

      - Có phải đó là cái đĩa bay ?

      - Tin đồn rằng có những xác chết lạ ở con tàu...

      - Có phải sinh vật lạ còn sống ?

      - Phải chăng chính phủ tìm cách che giấu trước nhân dân?

      Vị quan chức báo chí cất cao giọng để lấy lại trật tự:

      - Thưa các quý vị, hiểu lầm đơn giản. Chúng tôi liên tục nhận được những cú điện thoại kiểu này. Người ta nhìn thấy những vệ tinh, sao băng... Chẳng nhẽ phải là thú vị sao khi mà những tin tức về các vật thể bay lạ luôn luôn được đưa ra dưới dạng nặc danh? Có thể người báo tin này tin đó là vật thể bay lạ, nhưng thực tế, chỉ là quả bóng thám bị rớt xuống mặt đất. Chúng tôi thu xếp phương tiện để đưa các bạn tới đó. Xin mời quý vị theo tôi...

      Mười lăm phút sau, hai xe bus chở đầy các phóng viên và các camera ghi hình lên đường Uetendort để mục kích những gì còn lại của vụ tai nạn bóng thám ? Khi tới nơi, họ đứng trong đám cỏ ướt xem xét cái vỏ kim loại rách toác. Vị quan chức báo chí :

      - Đây là cái đĩa bay bí của các vị. Nó xuất phát từ căn cứ quân của chúng tôi ở Vevey. Theo chỗ chúng tôi biết, thưa quý vị, hề có những vật thể bay lạ mà chính phủ chúng tôi thể giải thích cách xác đáng và cũng theo chỗ chúng tôi biết, có bất kỳ vị khách lạ nào tới thăm chúng ta. Chính sách dứt khoát của chính phủ chúng tôi là nếu như thu được bất kỳ bằng chứng nào về vấn đề này, lập tức chúng tôi để điều đó trở thành thông tin đại chúng. Nếu như còn câu hỏi nào nữa...


      Chương 10



      Nhà để máy bay số 17 tại căn cứ quân Langley ở bang Virginia được khóa kín và bảo vệ nghiêm ngặt. Bên ngoài, bốn lính thủy đánh bộ canh gác tòa nhà và bên trong, ba sĩ quan cấp cao của Lục quân luân phiên nhau mỗi người tám giờ canh gác căn phòng luôn đóng kín. sĩ quan nào biết ta canh gác cái gì. Ngoài các nhà khoa học và các bác sĩ làm việc trong đó, chỉ có ba người khách được phép bước vào căn phòng đóng kín kia.

      Vị khách thứ tư vừa mới tới. Ông ta được thiếu tướng Paxton, người phụ trách an ninh, ra đón.

      - Xin mời thăm chuồng thú của chúng tôi.

      - Tôi rất mong đợi điều đó.

      - Ông phải thất vọng. Xin lối này.

      Bên ngoài cửa phòng đóng kín là cái giá với bốn bộ quần áo khử trùng, trắng tinh có thể bao kín toàn bộ cơ thể.

      - Xin ông vui lòng mặc lên người cho! - Viên tướng .

      - Tất nhiên rồi. - Janus chui người vào trong bộ quần áo. Chỉ còn có thể thấy mặt ông ta qua tấm che mặt bằng kính. Ông ta mang hai cái ủng trắng to tướng ra bên ngoài đôi giày của mình và viên tướng dẫn ông ta tới cửa căn phòng đóng kín kia. Người lính gác đứng tránh sang bên, và viên tướng mở cửa.

      - Trong này đây.

      Janus bước vào phòng và nhìn quanh. Ở chính giữa phòng là chiếc phi thuyền gian. những chiếc bàn mổ ở phía bên là xác của hai sinh vật lạ.

      nhà nghiên cứu bệnh học thực ca giải phẫu trong hai cái xác.

      Tướng Paxton hướng chú ý của vị khách tới chiếc phi thuyền.

      - Chúng tôi xem xét ở đây cái mà chúng tôi cho là con tàu do thám, - tướng Paxton giải thích. - Chúng tôi tin chắc rằng nó có kênh liên lạc trực tiếp nào đó với phi thuyền mẹ.

      Hai người bước lại gần hơn để xem xét. Đường kính của nó xấp xỉ chục mét. Phần bên trong có hình dạng như viên ngọc với cái trần có thể mở rộng ra được và ba cái văng giống như những chiếc ghế bố phần vách được phủ bằng những tấm panen có gắn những đĩa kim loại rung.

      - Có rất nhiều thứ chúng tôi chưa thể hiểu được, - tướng Paxton thú nhận. - Nhưng mà những gì chúng tôi biết đáng ngạc nhiên - Ông ta chỉ dãy thiết bị những tấm panen . - Đó là hệ thống kính quang học mạch liên hợp có góc nhìn rộng, có vẻ là hệ thống dò tìm sống, hệ thống dẫn đường mà thẳng ra là nó khiến chúng ta mù tịt và hệ thống thông tin có khả năng tổng hợp ngôn ngữ. Chúng tôi nghĩ là nó hoạt động bằng dạng năng lượng điện từ trường nào đó.

      - Có vũ khí nào đó ? - Janus hỏi.

      Tướng Paxton giang rộng hai tay trong cử chỉ tỏ ý thất bại.

      - Chúng tôi . Có rất nhiều thiết bị đó mà chúng tôi chưa hiểu.

      - Còn nguồn năng lượng sao?

      - Phán đoán cao nhất của chúng tôi là nó sử dụng hyđrô đơn nguyên tử trong mạch kín để chất thải của nó, nước, có thể được liên tục tái chế thành hyđrô sản sinh năng lượng. Với nguồn năng lượng vĩnh viễn ấy nó có thể thoải mái bay trong khoảng gian liên hành tinh. Có thể phải mất nhiều năm chúng ta mới biết hết những bí mật ở đây. Và còn có điều kinh ngạc nữa. Xác chết của hai sinh vật lạ được chằng ghế của họ. Nhưng những vết lõm ở ghế thứ ba cho thấy nó cũng có chủ nhân.

      - Ông , - Janus từ tốn hỏi, - rằng có thể sinh vật mất tích ư?

      - Dường như chắc chắn là thế.

      Janus đứng yên với thoáng chau mày.

      - Chúng ta hãy nhìn các kẻ xâm nhập này chút.

      Hai người bước lại những chiếc bàn đó có xác hai sinh vật lạ. Janus đứng nhìn chằm chằm vào những hình thù kỳ dị kia. khó tin là những sinh vật có trí tuệ. Trán của chúng lớn hơn mức ông ta tưởng. Họ đều hói đầu và có lông mi cũng như lông mày. Mắt của họ trông giống như những quả bóng bàn vậy.

      Người bác sĩ tiến hành phẫu thuật ngẩng lên khi hai người bước lại.

      - kỳ lạ, - Ông ta . - bàn tay được cắt khỏi thân thể trong hai sinh vật lạ. hề thấy có máu, nhưng ở trong những ống, có thể là mạch ven, có chất lỏng màu xanh. Phần lớn chảy hết ra ngoài.

      - chất lỏng màu xanh à? - Janus hỏi.

      - Phải, - Người bác sĩ lưỡng lự. - Chúng tôi cho là những sinh vật này là dạng của đời sống thực vật.

      - loài thực vật biết nghĩ ư? Ông nghiêm túc đấy chứ?

      - Hãy nhìn cái này. - Người bác sĩ nhấc can nước và dội lên cánh tay của sinh vật mất bàn tay. Trong khoảnh khắc, có chuyện gì xảy ra. Và rồi bỗng nhiên, tại đầu cụt của cánh tay, thứ chất màu xanh lục ứa ra và từ từ hình thành bàn tay.

      Hai người nhìn chết lặng.

      - Giêsu. Những sinh vật này chết hay chưa thế này?

      - Đó là câu hỏi thú vị. Những cơ thể này còn sống, theo cảm nhận của con người, thế nhưng chúng cũng phù hợp với định nghĩa về chết.

      - Tôi chỉ cho là họ ở trạng thái ngủ đông mà thôi.

      Janus vẫn nhìn đăm đăm vào cái bàn tay vừa được hình thành.

      - Nhiều thực vật cho thấy các dạng thông minh khác nhau.

      - Thông minh ư?

      - Ồ phải. Có những loài cây tự ngụy trang mình, tự bảo vệ bản thân chúng. Lúc này, chúng ta có những thí nghiệm kinh hoàng về đời sống thực vật.

      - Tôi muốn được xem những thí nghiệm đó. - Janus .

      - Được thôi. Tôi sẵn sàng thu xếp.

      ***

      Căn nhà kính thí nghiệm khổng lồ nằm trong khu liên hợp của chính phủ cách Washington 30 dặm.

      tường là tấm biển đề:

      "Những cây thích và những cây dương xỉ vẫn hề mục nát, Tuy nhiên, có gì phải nghi ngờ khi chúng bừng tỉnh. Chúng cũng nguyền rủa và thề nguyện. Ralph Waldo Emerson Thiên nhiên, 1836."

      Giáo sư Rachman, người phụ trách khu liên hợp này là ông thần giữ của sốt sắng, đầy nhiệt huyết với nghề nghiệp của mình.

      - Chính Charles Darwin là người đầu tiên nhận biết được khả năng suy nghĩ của cỏ. Luther Burbank tiếp nối bằng việc giao tiếp với chúng.

      - Ông có tin rằng có thể có điều đó ?

      - Chúng tôi biết là có điều đó. George Washington Carver chuyện trò với cây cối và chúng cho ông hàng trăm sản phẩm mới. Carver . Khi tôi chạm vào bông hoa, nghĩa là tôi chạm vào Thượng đế. Nhưng bông hoa có mặt trước loài người từ lâu trái đất này, và chúng tiếp tục tồn tại hàng triệu năm sau loài người. Qua loài hoa, tôi chuyện với Thượng đế...

      Janus nhìn quanh ngôi nhà kính lớn mà họ đứng ở bên trong. Những cây cỏ và các loài hoa lạ làm khu nhà ngập trong những sắc màu rực rỡ của cầu vồng. Hương hoa pha quyện vào nhau, thơm ngát.

      - Tất cả những gì trong khu nhà này đếu sống động. - Giáo sư Rachman . - Những cây cỏ này có thể cảm thấy , ghét, đau đớn và kích động... giống như những động vật. Ngài Jagadis Chandra Bose chứng minh rằng chúng phản ứng với giọng .

      - Làm sao người ta có thể chứng minh điều đó? - Janus hỏi.

      - Tôi sẵn sàng chứng minh cho ông thấy. - Racham bước đến bên chiếc bàn chất đầy cây. Bên cạnh là chiếc máy đo. Rachman nhấc đầu dây và cặp nó vào cái cây. Kim đồng hồ của máy ở vị trí làm việc.

      - Trông này, - Ông ta , rồi ghé lại gần cái cây hơn và thầm. - Ta nghĩ rằng mi rất đẹp. Mi đẹp hơn tất cả những cái cây khác ở đây...

      Janus thấy chiếc kim hơi dịch chuyển.

      Đột nhiên, giáo sưa Rachman quát lên với cái cây:

      - Mi là xấu. Mi sắp phải chết. Mi có nghe ta ? Mi sắp phải chết.

      Chiếc kim bắt đầu rung lên, rồi giật bắn lên .

      - Lạy Chúa, - Janus . - Tôi thể nào tin được. Điều mà ông nhìn thấy, - Rachman , - tương tự như con người bị quát mắng. Các tạp chí quốc gia đều đăng những bài viết về các thí nghiệm này.

      trong những thí nghiệm hấp dẫn nhất là thí nghiệm về khả năng nhìn, được tiến hành với sáu sinh viên. trong số họ, những người kia biết, được chọn vào căn phòng có hai cái cây, cây được nối với máy đo. Cậu ta phá nát hoàn toàn cái cây kia. Sau đó, từng người sinh viên được cầu vào trong phòng, bước ngang qua cái cây.

      Khi những sinh viên vô tội vào, máy đo ghi lại được gì cả. Nhưng đúng lúc kẻ có tội xuất kim máy đo vọt lên.

      - thể tin được.

      - Nhưng đó là . Chúng ta cũng biết rằng cây cối có phản ứng với các loại nhạc khác nhau.

      - Các loại khác nhau?

      - Phải. Họ làm thí nghiệm tại Đại học Temple Buell ở Denver với những cây hoa khỏe mạnh được đặt trong các lồng kính riêng biệt. Nhạc rock gay gắt được truyền dẫn vào lồng, nhạc xita miền Đông Ấn Độ được truyền dẫn vào lồng, và lồng thứ ba nhạc gì hết. kíp ghi hình của hãng CBS ghi lại thí nghiệm này với kỹ thuật chụp hình cách quãng. Vào cuối tuần thứ hai, những cây hoa được nghe nhạc rock chết, nhóm có nhạc phát triển bình thường và nhóm nghe nhạc xita nở rộ với hoa và cành vươn cả về phía phát ra tiếng nhạc. Walter Cronkite cho chiếu bộ phim chương trình của ông ta. Nếu như ông muốn kiểm tra, bộ phim đó được chiếu ngày 26 tháng 10 năm 1970.

      - Ông là cây cối cũng có thông minh nào đó phải ?

      - Chúng thở, ăn và sinh sản. Chúng có thể cảm thấy đau và chúng có thể có các biện pháp tự vệ chống lại những kẻ thù của mình. Thí dụ, số loài cây tiết ra thứ độc tố để đầu độc vùng đất xung quanh nó và nhờ vậy, ngăn chặn những kẻ cạnh tranh. số loài khác tiết ra những chất kiềm để làm cho chúng trở nên thể chấp nhận được đối với các loại côn trùng. Chúng tôi chứng minh được rằng cây cỏ giao tiếp với nhau được ở mức nào đó.

      - Có. Tôi có nghe chuyện đó. - Janus .

      - vài loài cây là những loài ăn thịt. Chẳng hạn như cây bắt ruồi. số loài phong lan có vẻ ngoài và mùi giống như những con ong cái để bắt những con ong đực. Những giống khác lại giống những con ong bắp cày cái để lôi cuốn những con ong bắp cày đực tìm đến thụ phấn cho chúng. loài phong lan khác lại có mùi như mùi thịt ôi để dụ dỗ những con nhặng quanh đó đến với chúng.

      Janus lắng nghe từng lời.

      - Có loài hoa có cánh phía có khớp nối và khi con ong đậu vào cánh hoa đậy lại. Lối thoát duy nhất là lối xíu dẫn ra phía sau và trong khi con ong loay hoay để thoát ra phải mang theo chút phấn hoa. Có tới năm nghìn loài cây hoa mọc ở vùng Đông Bắc và mỗi loài lại có những đặc tính riêng. Việc cây cỏ có khả năng suy nghĩ được chứng tỏ nhiều lần.

      Janus ngẫm nghĩ: Và sinh vật mất tích kia lẩn khuất đâu đó.

    5. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825

      Chương 11



      Ngày thứ ba,

      Bern, Thụy Sĩ

      Thứ tư ngày 17 tháng Mười

      Bern là trong những thành phố mà Robert thích nhất. Nó duyên dáng, đầy những tượng đài đáng và những ngôi nhà cổ bằng đá tuyệt đẹp được xây dựng từ hồi thế kỷ 18. Nó là thủ đô của Thụy Sĩ, là trong những thành phố phồn vinh nhất của nước này, và Robert cứ băn khoăn biết những chiếc xe điện màu xanh lá cây có liên quan gì tới màu sắc của đồng tiền . thấy rằng người dân ở Bern dễ chịu hơn những người dân ở các vùng khác của Thụy Sĩ. Họ lại khoan thai hơn, năng chậm rãi hơn và nhìn chung là điềm đạm hơn. Trước đây có mấy lần làm việc ở Bern với Cục An ninh Thụy Sĩ, trong trụ sở Waisenhauspoatz của họ. có bạn bè có thể giúp ích ở đó, nhưng những chỉ thị đối với ràng.

      Khó hiểu, nhưng ràng. Phải mất mười lăm phút gọi điện thoại Robert mới tìm ra được cái gara chữa xe của tay thợ ảnh kia. Đó là xưởng ở Fribourgstrasse, và người thợ máy, Fritz Mandel, cũng đồng thời là ông chủ. Mandel có lẽ vào cuối tuổi bốn mươi, với khuôn mặt dễ sợ, đầy mụn trứng cá, thân hình gầy gò và cái bụng phệ ra vì bia. Khi Robert đến, ông ta làm việc trong cái kho chứa dầu mỡ.

      - Xin chào, - Robert lên tiếng.

      Mandel ngẩng lên.

      - Xin chào. Tôi có thể làm gì cho ông?

      - Tôi quan tâm tới chiếc xe mà ông mang về đây hôm chủ nhật.

      - Đợi chút, để tôi làm xong cái này .

      Mười phút sau, Mandel chui ra và chùi hai bàn tay đầy dầu mỡ vào cái giẻ bẩn thỉu.

      - Chính ông là người gọi điện sáng nay? Có chuyện phàn nàn về việc ấy à? - Mandel hỏi. - Tôi chịu trách nhiệm về...

      - , - Robert đảm bảo với ông ta. - có gì cả. Tôi tiến hành điều tra và tôi quan tâm tới người lái chiếc xe đó.

      - Mời vào văn phòng!

      Hai người vào văn phòng và Mandel mở tủ đựng giấy tờ.

      - Ông chủ nhật trước à?

      - Đúng vậy.

      Mandel lấy ra tấm các.

      - À! Cái tay chụp tấm hình trước cái vật thể bay lạ đó chứ gì.

      Hai bàn tay Robert chợt ướt đẫm mồ hôi.

      - Ông nhìn thấy cái vật thể bay lạ đó à?

      - Phải. Tôi gần như chết lặng.

      - Ông có thể mô tả lại ?

      Mandel nhún vai.

      - Nó... nó dường như hoạt động.

      - Ông gì cơ?

      - Ý tôi , có thứ ánh sáng quanh nó. Nó liên tục thay đổi màu sắc. Nó có màu xanh da trời... rồi xanh lục trong, biết. Rất khó mô tả. Và có những sinh vật bé trong đó. phải là con người, nhưng... - Ông ta ngừng bặt.

      - Bao nhiêu?

      - Hai.

      - Họ còn sống ?

      - Tôi thấy họ như chết. - Ông ta nhíu mày. - Tôi sung sướng là ông tin tôi. Tôi với bạn bè, song họ đều cười nhạo tôi. Ngay cả vợ tôi cũng nghĩ là tôi say. Nhưng mà tôi biết tôi nhìn thấy gì chứ.

      - Về cái xe mà ông kéo ... - Robert .

      - À. Chiếc Renault. Nó bị chảy dầu và những đệm lót bị cháy. Việc kéo nó phải trả trăm hai mươi lăm francs. Chủ nhật, tôi tính gấp đôi.

      - Người lái xe trả bằng séc hay thẻ tín dụng hả?

      - Tôi nhận séc cũng như thẻ tín dụng. ta trả bằng tiền mặt.

      - Francs Thụy Sĩ chứ?

      - Đồng bảng.

      - Ông có chắc ?

      - Chắc. Tôi nhớ là phải kiểm tra tỉ giá hối đoái mà.

      - Ông Mandel, ông có tình cờ biết gì về cái biển số của chiếc xe đó ?

      - Tất nhiên. - Mandel liếc nhìn tấm các. - Đó là chiếc xe thuê. Avis. ta thuê nó ở Geneva.

      - Ông có thể cho tôi cái số xe đó ?

      - Được có gì đâu? Ông ta viết những con số lên mẩu giấy và trao nó cho Robert. - Mà có chuyện gì vậy? Cái vật thể bay lạ kia à?

      - , - Robert với giọng chân thành nhất. móc ví và lấy ra tấm thẻ chứng minh. - Tôi ở IAC - Câu lạc bộ ô tô Quốc tế. Hãng của tôi làm nghiên cứu điều tra về những xe kéo.

      - Ồ.

      ***

      Robert rời khỏi cái gara, trong lòng bàng hoàng.

      Có vẻ như chúng ta có trong tay vật thể bay lạ khốn kiếp và hai sinh vật lạ chết đó. Vậy tại sao tướng Hilliard dối khi mà ông ta biết Robert phát rằng đó là chiếc đĩa bay bị đâm xuống đất?

      Chỉ có thể có lời giải thích, và đột nhiên Robert cảm thấy rùng mình ớn lạnh.


      Chương 12



      Chiếc phi thuyền mẹ khổng lồ lặng lẽ treo lơ lửng trong khoảng gian vũ trụ tối sẫm, dường như bất động, di chuyển với tốc độ hai mươi hai nghìn dặm giờ, đồng bộ cách chính xác với quỹ đạo của trái đất. Sáu sinh vật lạ ở phi thuyền chăm chú lên chiếc màn hình quang học có thị trường ba chiều chiếm cả bức tường của phi thuyền.

      màn hình, trong khi hành tinh trái đất quay, họ theo dõi những hình ảnh tự động lên về những gì ở phía dưới đồng thời máy quang phổ điện tử phân tích về thành phần hóa học của những hình ảnh vừa xuất . Bầu khí quyển của những vùng đất mà họ bay qua bị ô nhiễm nặng nề. Những nhà máy lớn làm bẩn khí với những khí thải độc hại, dầy và đen đặc trong khi những chất thải thể bị phân hủy nhờ vi khuẩn được đổ đầy những bãi thải và xuống biển.

      Những sinh vật lạ này nhìn xuống những đại dương, có thời hoang sơ và trong xanh, giờ đây đen ngòm vì dầu và nâu vàng vì những chất cặn bã. Mầu hồng rực của vùng Vách Chắn lớn ngả sang trắng nhợt và hàng tỉ con cá chết dần chết mòn. Nơi cây cối bị chặt hạ ở vùng rừng nhiệt đới Amazon giờ đây là khoảng trống lớn, khô cằn. Những máy móc phi thuyền cho thấy nhiệt độ ở trái đất tăng lên kể từ cuộc thám hiểm trước của họ cách đây ba năm. Họ có thể nhìn thấy những cuộc chiến tranh được tiến hành trái đất phía dưới, phun thêm những chất độc mới vào bầu khí quyển.

      Những sinh vật lạ này trao đổi với nhau bằng thần giao cách cảm.

      - Con người trái đất có gì thay đổi.

      - đáng buồn. Họ học được gì cả.

      - Chúng ta dạy họ.

      - thử liên lạc với những thành viên kia chưa?

      - Rồi. Có chuyện trục trặc. có trả lời.

      - phải tiếp tục cố xem.

      - Chúng ta phải tìm thấy con tàu.

      trái đất, phía dưới quỹ đạo của chiếc phi thuyền gian kia hàng cây số Robert đặt cú điện thoại cho tướng Hilliard từ máy điện thoại an toàn. Dường như ông ta có mặt ở đầu dây ngay lập tức.

      - Xin chào ông sĩ quan ông có gì để báo cáo hả?

      Có. Tôi muốn rằng ông là thằng chó đẻ dối trá.

      - Về quả bóng thám đó, thưa ngài... hóa ra đó có thể là vật thể bay lạ.

      chờ đợi.

      - Phải, tôi biết. Có những lý do an ninh quan trọng mà tôi thể nào hết với trước đó.

      Cái trò hai mặt quan cách. thoáng im lặng.

      Tướng Hilliard :

      - Ông sĩ quan, tôi sắp với ông điều tuyệt mật. Cách đây ba năm, chính phủ chúng ta phải đối mặt với những sinh vật lạ. Họ hạ cánh xuống trong những căn cứ thuộc khối NATO của chúng ta. Chúng ta giao tiếp được với họ.

      - Họ... họ gì ạ? - Robert cảm thấy tim mình đập rộn lên.

      - Họ rằng có ý định tiêu diệt chúng ta.

      - Tiêu diệt chúng ta ư? - cảm thấy rùng mình.

      - Đúng vậy. Họ trở lại để chiếm lấy hành tinh này và biến chúng ta thành nô lệ, và rằng chúng ta có cách gì để ngăn cản họ được. Chưa có. Nhưng chúng ta tìm. Chính bởi vậy, điều khẩn cấp là chúng ta phải tránh nỗi kinh hoàng cho dân chúng và dành thêm thời gian. Tôi nghĩ là bây giờ ông có thể hiểu tầm quan trọng của việc để các nhân chứng bàn luận về những gì họ nhìn thấy. Nếu chuyện về họ được tiết lộ ra đó thảm họa đối với thế giới.

      - Ngài nghĩ rằng tốt hơn là chuẩn bị cho dân chúng và...

      - Ông sĩ quan, vào năm 1938, bác sĩ trẻ tên là Orson Welles làm vở kịch truyền thanh với cái tên "Chiến tranh giữa các hành tinh" về chuyện những sinh vật lạ xâm lăng trái đất này. Chỉ trong vòng ít phút, hoảng sợ trong các thành phố khắp nước Mỹ. bộ phận dân chúng quá khích tìm cách chạy trốn khỏi những kẻ xâm lăng tưởng tượng kia. Các đường liên lạc điện thoại bị nhiễu loạn, các xa lộ bị tắc nghẽn. Nhiều người bị chết. Tất cả trở nên rối loạn. , chúng ta phải tìm ra cách tiếp đón các sinh vật lạ kia trước khi công bố mọi chuyện. Chúng tôi muốn ông tìm ra những nhân chứng kia là để bảo vệ cho chính họ và để chúng ta có thể kiểm soát được tình hình.

      - Vâng. Tôi... tôi hiểu. - Robert thấy mình toát mồ hôi.

      - Tốt. Tôi cho rằng ông chuyện với trong số các nhân chứng?

      - Tôi tìm được hai trong số họ.

      - Tên?

      - Hans Beckerman. - Ông ta là người lái xe của chiếc xe bus du lịch theo tuyến đó. Ông ta sống ở Kapel...

      - Và người thứ hai?

      - Fritz Mandel. ta có cái gara ở Bern. ta chính là người thợ máy kéo chiếc xe của nhân chứng thứ ba về xưởng.

      - Tên của nhân chứng đó?

      - Tôi chưa có. Tôi tìm kiếm. Ngài có muốn tôi chuyện với họ về việc cần thiết phải im lặng về cái vật thể bay lạ này ?

      - . Nhiệm vụ của ông đơn thuần là tìm ra các nhân chứng. Sau đó, chúng ta để các chính phủ của họ lo chuyện với từng người. Ông biết có bao nhiêu nhân chứng chưa?

      - Rồi. Bẩy hành khách cùng người lái xe, người thợ máy và người ô tô ngang qua.

      - Ông phải tìm ra tất cả bọn họ. Từng người trong số mười nhân chứng mục kích vụ tại nạn. chưa?

      - , thưa ngài.

      Robert gác ống nghe, đầu óc rối bời. Những vật thể bay lạ là chuyện có . Những sinh vật xa lạ kia là những kẻ thù. Tướng Hilliard trao cho nhiệm vụ này nhưng với tất cả. Họ còn giấu điều gì nữa nhỉ?

      ***

      Hãng cho thuê xe hơi Avis đặt ở số 44 phố Lausanne ở trung tâm Geneva. Robert xồng xộc vào và tiến tới trước phụ nữ ngồi sau bàn.

      - Tôi có thể giúp ông chứ?

      Robert ném mẩu giấy với số biển kiểm soát của chiếc xe Renault được viết đó.

      - Tuần trước, hãng cho thuê chiếc xe này. - Tôi muốn biết tên cái người thuê nó. - Giọng đầy tức giận.

      nhân viên rúm người lại.

      - Tôi xin lỗi, chúng tôi được phép đưa ra các thông tin đó.

      - Ồ, thế là quá tai hại, - Robert cáu kỉnh - bởi vì trong trường hợp đó, tôi phải kiện hãng của để đòi khoản tiền lớn.

      - Tôi hiểu. Có chuyện gì vậy?

      - Tôi cho nghe có chuyện gì, . Chủ nhật tuần trước chiếc xe này đâm vào tôi xa lộ và làm xe tôi hỏng nặng. Tôi ghi lại được số xe của ta, nhưng lái xe chạy mất trước khi tôi có thể giữ được .

      - Tôi hiểu rồi. - nhân viên nhìn Robert trong giây lát. - Xin lỗi chút. - biến mất vào trong căn phòng phía sau. Mấy phút sau quay lại, mang theo hồ sơ. - Theo hồ sơ của chúng tôi, có trục trặc với động cơ của chiếc xe này, nhưng có báo cáo về bất kỳ tai nạn nào.

      - Ồ bây giờ tôi báo cáo đây thôi. Và tôi cho rằng hãng của phải chịu trách nhiệm về chuyện này. Các phải trả tiền sửa xe cho tôi. Đó là chiếc xe Porsche mới tinh, và nó làm cho các mất đống tiền...

      - Tôi rất lấy làm tiếc, thưa ông, nhưng do được báo về vụ tai nạn nên chúng tôi thể chịu bất kỳ trách nhiệm gì.

      - Này, - Robert bằng giọng dịu hơn. - Tôi muốn công bằng. Tôi muốn hãng của phải chịu trách nhiệm. Tất cả những gì tôi muốn là cái thằng cha kia phải trả tiền cho những hư hỏng mà gây ra cho cái xe của tôi. Đó là cái trò gây chuyện rồi bỏ chạy. Thậm chí tôi có thể báo cảnh sát về chuyện này. Nếu cho tôi biết tên và địa chỉ ta, tôi chuyện trực tiếp với và chúng tôi có thể giải quyết với nhau mà mắc mớ gì đến hãng này. Như thế công bằng chưa nào?

      nhân viên ngẫm nghĩ.

      - Được. Chúng tôi hẳn là muốn vậy hơn. - nhìn xuống cặp hồ sơ trong tay và . - Tên của người thuê xe là Leslie Mothershed.

      - Còn địa chỉ?

      - 213 A đường Grove, Whitechapel, London, khu 3 Đông. - ngước lên. - Ông chắc chắn là hãng chúng tôi dính vào chuyện kiện tụng chứ hả?

      - Tôi hứa với như vậy, - Robert cam đoan. - Đây là chuyện riêng giữa Leslie Mothershed và tôi.

      Robert Bellamy có mặt chuyến bay đầu tiên London.

      ***

      Ông ta ngồi mình trong bóng tối, tập trung và thận trọng rà lại từng giai đoạn của bản kế hoạch để tin chắc rằng kẽ hở nào, thể có trục trặc gì. Những ý nghĩ của ông ta bị gián đoạn bởi tiếng chuông điện thoại dịu dàng.

      - Janus đây.

      - Janus. Tướng Hilliard.

      - .

      - Sĩ quan Bellamy phát hai nhân chứng đầu tiên.

      - Rất tốt. Lo việc đó ngay .

      - Thưa ngài, vâng.

      - giờ ông sĩ quan ở đâu?

      - đường London. Ông ta sớm xác định được người thứ ba.

      - Tôi báo cho Ủy ban về những kết quả của ông ta. Hãy tiếp tục báo cho tôi biết tình hình. Tình trạng của chiến dịch này vẫn là khẩn cấp.

      - Thưa ngài, tôi hiểu. Tôi đề nghị...

      Đường liên lạc bị cắt.



      Điện khẩn.

      Tối mật.

      NSA gửi Giám đốc Bundesanwaltschaft.

      ghi chép lại.

      Bản số 1 duy nhất.

      Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.

      1. Hans Beckerman - Kapel.

      2. Fritz Manael - Bern.

      Hết.


      Chương 13



      Vào lúc nửa đêm, trong trang trại cách Uetendort mười lăm dặm, gia đình Lagenfeld bị khuấy động bởi chuỗi các tượng lạ. Đứa con lớn thức giấc bởi luồng ánh sáng màu vàng nhạt chiếu qua cửa sổ phòng ngủ. Khi cậu ta trở dậy để xem chuyện gì luồng ánh sáng biến mất.

      Ở ngoài sân, Tozzi, con chó săn giống Đức, bắt đầu sủa vang giận dữ, đánh thức ông già Lagenfeld.

      Ông chủ trại miễn cưỡng rời khỏi giường để nạt con vật thôi sủa, và khi vừa bước ra ngoài nghe tiếng bầy cừu hoảng hốt trong chuồng, tìm cách thoát ra.

      Khi qua cái máng ăn vốn đầy nước do trời mới mưa, ông thấy rằng cái máng khô khốc.

      Và đúng lúc đó, tất cả đèn trong nhà vụt tắt. Khi ông chủ trại trở vào nhà và nhấc điện thoại để gọi báo sở điện lực thấy đường dây bị cắt rồi.

      Nếu như điện còn sáng thêm vài giây ông chủ trại có thể trông thấy phụ nữ đẹp cách kỳ lạ từ khu sân trại của ông ra phía ngoài đồng.


      Chương 14



      Cục Tình báo - Geneva

      13 giờ 00.

      Vị bộ trưởng ngồi trong căn phòng nằm lọt ở trung tâm của tòa nhà trụ sở Cục Tình báo Thụy Sĩ, nhìn viên phó giám đốc đọc nốt bức điện.

      Rồi ông ta thu nó về, bỏ vào trong cái cặp hồ sơ có đánh dấu Tuyệt mật, cất cái cặp vào trong ngăn kéo bàn và khóa lại.

      - Hans Beckerman và Fritz Mandel.

      - Phải.

      - có vấn đề gì, thưa ngài bộ trưởng. Chuyện này được lo liệu chu tất.

      - Tốt.

      - Sao ạ?

      - Thủ tiêu. Ngay lập tức.

      ***

      Sáng ngày hôm sau, đường làm, Hans Beckerman lại bị cái bụng của ông ta hành hạ. Lẽ ra mình phải bắt cái thằng cha phóng viên kia xì tiền cho cái vật mà mình nhặt được. Tất cả những tờ tạp chí này đều lắm tiền cả. Có thể mình kiếm được vài trăm đồng mác. Và như vậy mình có thể đến bác sĩ tử tế để chữa cái bụng của mình.

      lái xe chạy ngang hồ Turler phía trước, bên lề xa lộ, ông ta thấy người phụ nữ vẫy xin nhờ. Beckerman cho xe chạy chậm lại để có thể nhìn người phụ nữ hơn. ta trẻ trung và trông hấp dẫn. Ông ta dừng xe lại bên lề đường. tiến lại bên xe.

      - Xin chào, - Beckerman - Tôi có thể giúp chứ?

      Ở gần, trông ta còn xinh đẹp hơn.

      - Cảm ơn. - ta có giọng Thụy Sĩ. - Em cãi cọ với người bạn trai của em, và ta ném em xuống đây, giữa nơi đồng mông quạnh này.

      - Chà, chà. là tồi tệ.

      - Ông phiền lòng cho em nhờ xe tới Zurich chứ?

      - Có gì đâu. Vào , vào !

      mở cửa và vào ngồi cạnh Hans.

      - Ông tốt bụng, - ta . - Tên em là Karen.

      - Hans. - Ông ta cho xe chuyển bánh.

      - Em biết em xoay sở thế nào nếu có ông, Hans ạ.

      - Ồ tôi chắc là ai dừng xe trước xinh đẹp như .

      xích lại gần ông ta hơn.

      - Nhưng em chắc rằng người đó đẹp trai như ông đâu.

      - Thế hả? - Ông ta đưa mắt nhìn sang.

      - Em nghĩ là ông đẹp trai.

      - nên như vậy với vợ tôi. - Ông ta mỉm cười.

      - Ồ, ông có vợ à. - tỏ vẻ thất vọng. - Sao tất cả những người đàn ông tuyệt vời đều có vợ rồi nhỉ? Mà trông ông cũng thông minh nữa.

      Ông ta ngồi thẳng người thêm chút nữa.

      - với ông là em rất lấy làm tiếc vì dính dáng với cái người bạn trai kia của em. - ta cọ quậy người ghế và chiếc váy ngắn hếch lên tới ngang đùi. Hans cố đưa mắt nhìn. - Em thích những người đàn ông đứng tuổi, chín chắn, Hans ạ. Em thấy họ gợi tình hơn so với những người trẻ tuổi. ta cọ người vào ông. - Hans, ông có thích chuyện tình dục ?

      Ông ta hắng giọng.

      - Tôi à? Ồ biết đấy tôi là thằng đàn ông mà...

      - Em có thể thấy điều đó, - ta đáp và vuốt ve đùi Beckerman. - Em có thể với ông thế này nhỉ? Rằng cái cuộc cãi vã với người bạn trai làm cho em hứng tình đấy. Ông có muốn làm tình với em ?

      Hans thể nào tin được ở vận may của mình. ta xinh đẹp và từ những gì ông ta có thể nhìn thấy hẳn ta phải có tấm thân rất quyến rũ. Ông ta nuốt nước bọt.

      - Tôi muốn, nhưng mà tôi đường làm và...

      - chỉ mất ít phút thôi mà. - ta mỉm cười. - Phía trước mặt có con đường nhánh dẫn vào rừng. Sao chúng ta lại dừng lại... ở đó nhỉ?

      Ông ta cảm thấy bị kích thích. Mẹ kiếp. Đến lúc mà mình chuyện với đám đàn ông ở sở chuyện này. Họ bao giờ tin mất.

      - Được thôi. Sao lại nhỉ? - Hans cho xe rời khỏi xa lộ và chạy theo con đường bụi bặm dẫn vào cánh rừng mà ở đó những chiếc xe chạy ngang thể nhìn thấy họ.

      ả lần tay người lên đùi ông ta:

      - Lạy Chúa, ông có cặp chân khỏe mạnh.

      - Hồi trẻ, tôi là vận động viên điền kinh mà, - Beckerman khoác lác.

      - Em cởi quần ông ra nhé. - ta cởi chiếc thắt lưng và rồi giúp Hans tụt quần xuống. Ông ta cương cứng.

      - A, là to. - ta bắt đầu ve vuốt nó.

      - Hãy ngậm nó vào miệng. - Ông ta rên rỉ.

      - Ông thích được hôn ở chỗ đó phải ?

      - Phải.

      Vợ ông ta bao giờ làm như vậy cả.

      - Vâng. Ông cứ thoải mái.

      Beckerman thở mạnh và nhắm mắt lại. Hai bàn tay mềm mại của ta vuốt ve cái vật giống đực của ông ta. Hans cảm thấy như có mũi kim châm vào đùi và mở choàng mắt ra. "Cái gì...?"

      Toàn thân ông ta cứng đờ, mắt trợn lên. Cổ ông ta tắc nghẹn và thể nào thở được. Người phụ nữ nhìn ông ta sụp xuống tay lái. ta ra khỏi xe và đẩy cái xác chết sang ghế bên, rồi ngồi vào sau tay lái, cho xe chạy trở lại xa lộ. Tới rìa đoạn đường vắng bóng xe cộ, ta mở cửa xe, giậm ga và khi chiếc xe bắt đầu trườn về phía trước lao ra ngoài, rồi đứng nhìn chiếc xe lộn xuống bờ dốc dựng đứng. Năm phút sau, chiếc xe hơi sang trọng màu đen dừng lại bên cạnh ta.

      - Có gì trục trặc .

      - .

      ***

      Fritz Mandel ở trong văn phòng, sắp đóng cửa gara hai người đàn ông bước vào.

      - Xin lỗi, - ta , - tôi chuẩn bị đóng cửa rồi. Tôi thể...

      trong hai người kia cắt ngang.

      - Xe chúng tôi chết xa lộ. Chúng tôi muốn kéo nó .

      - Vợ con tôi đợi. Chúng tôi có việc tối nay.

      - Tôi có thể cho các ông tên ...

      - Chúng tôi sẵn sàng trả hai trăm đôla. Chúng tôi vội.

      - Hai trăm đôla?

      - Đúng thế. Và chiếc xe của chúng tôi cũng bị hỏng nặng. Chúng tôi muốn sửa chữa nó. Điều đó có thể là chúng tôi phải trả thêm hai hoặc ba trăm đôla nữa.

      - Thế hả? - Mandel trở nên quan tâm hơn.

      - Đó là chiếc Rolls, - trong hai người đàn ông kia . - Hãy cho chúng tôi xem ông có những thiết bị gì ở đây mới được. - Họ, bước vào trong khu xưởng và đứng bên kho dầu mỡ. - Trang thiết bị tốt đấy.

      - Thưa ông, vâng! - Mandel hãnh diện . - Toàn thứ tốt nhất.

      Người lạ mặt móc ví ra.

      - Đây. Tôi có thể trả ông trước chút. - ta lấy ra mấy tờ giấy bạc và trao nó cho Mandel. Khỉ ta đưa tay ra, chiếc ví tuột khỏi tay và rơi vào trong thùng mỡ.

      - Chết rồi.

      - Đừng lo. - Mandel . - Tôi lấy lên.

      ta nhoài vào trong thùng. Đúng lúc đó, trong hai người đàn ông kia bước lại bên cái nút bấm dùng để điều khiển chiếc máy nâng thủy lực và ấn nút. Chiếc bàn nâng bắt đầu hạ xuống.

      - Cẩn thận. Ông làm gì đấy? - Mandel nhìn lên.

      ta định trèo lên. Khi những ngón tay ta vừa bám lên thành, người đàn ông thứ hai dùng chân đạp nghiến lên và Mandel kêu lên đau đớn, rơi xuống.

      Chiếc bàn nâng thủy lực nặng trịch vẫn lạnh lùng hạ xuống phía đầu ta.

      - Hãy cho tôi ra. - ta kêu gào. - Cứu tôi với!

      Chiếc bàn nâng chạm vào vai và bắt đầu ép ta xuống dưới sàn. Vài phút sau, khi những tiếng la thét chấm dứt, trong hai người đàn ông kia bấm nút nâng chiếc bàn nâng lên. Người đồng hành của ta cúi xuống nhặt lấy cái ví, thận trọng để máu giây vào quần áo. Hai người đàn ông quay ra và cho xe chạy biến vào trong màn đêm.



      Điện khẩn.

      Tối mật.

      Cục Tình báo Thụy Sĩ gửi Phó giám đốc NSA.

      ghi chép lại.

      Bản số 1 duy nhất.

      Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.

      1. Hans Beckerman bị thủ tiêu.

      2. Fritz Manael bị thủ tiêu.

      Hết.



      Ottawa, Canada.

      24 giờ 00.



      Janus phát biểu trước nhóm mười hai thành viên.

      - có những tiến bộ đáng hài lòng. Hai trong số các nhân chứng được bịt miệng. Sĩ quan Bellamy bám theo người thứ ba.

      - có bước đột phá này trong Sáng kiến phòng thủ chiến lược (SDI) chưa? - Người Italia. Dữ dội. kiên nhẫn.

      - Chưa, nhưng chúng tôi tin rằng kỹ thuật Chiến tranh giữa các hành tinh được hoàn thiện và sớm phát huy tác dụng.

      - Chúng ta phải làm mọi việc có thể được để đẩy nhanh nó. Nếu có chuyện tiền bạc ... - Người Arập. Bí . Dè dặt.

      - . Chỉ còn phải thử nghiệm thêm mà thôi.

      - Cuộc thử sắp tới diễn ra khi nào? Người Australia. Nhiệt tình. Thông minh.

      - tuần nữa. Chúng ta gặp lại ở đây sau 48 giờ.
      piipp thích bài này.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :