1. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Thế giới phẳng - Thomas L. Friedman

Thảo luận trong 'eBook sách Tài Liệu Tham Khảo'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. tranghuyen

      tranghuyen New Member

      Bài viết:
      12
      Được thích:
      6
      Thế Giới Phẳng

      Tác giả: Thomas L.Friedman

      Nguồn: Nhà XB Khoa học - Xã hội

      Người dịch: Nguyễn Quang A, Cao Việt Dũng, Nguyễn Tiên Phong

      (Truyện dài khoảng 500 trang word với 13 chương lớn)
      ĐÔI LỜI GIỚI THIỆU CỦA BÁC NGUYỄN QUANG A
      (Nếu bạn nào hay đọc báo kinh tế hoặc theo dõi tin kinh tế, phóng sự thì chắc biết về bác)


      Bạn đọc cầm tay cuốn thứ mười ba* của tủ sách SOS2, cuốn Thế giới Phẳng của Thomas L. Freedman. Cuốn sách được in và phát hành lần đầu vào tháng 4-2005. Đây là cuốn sách thứ tư của Freedman, cuốn thứ hai, Xe Lexus và Cây Ôliu, vừa được Nhà xuất bản Khoa Học Xã hội xuất bản bằng tiếng Việt. T. L. Freedman là nhà báo nổi tiếng của tờ New York Times, nhiều, gặp gỡ với rất nhiều nhân vật nổi tiếng, với con mắt hết sức sắc sảo, ông trình bày những vấn đề toàn cầu hoá rất súc tích và sinh động, ông trình bày những vấn đề khô khan, khó hiểu cách sáng sủa, dí dỏm, dùng nhiều dụ giúp bạn đọc lĩnh hội vấn đề cách dễ dàng.

      Tôi nghĩ cuốn sách rất bổ ích cho các nhà chính trị, các nhà hoạch định chính sách, vì nó trình bày những thách thức của thế giới phẳng đối với Mĩ, với thế giới phát triển, với các công ti, nên các loại độc giả này có thể thấy thông tin và ý tưởng của Freedman gây kích thích. Các học giả chắc học được cách trình bày đơn giản nhiều vấn đề phức tạp. Tôi nhiệt thành khuyên giới trẻ và các doanh nhân hãy đọc cuốn sách này, vì nó bổ ích cho họ để xác định lại mình trong học tập, khởi nghiệp, học và làm việc suốt đời. Tất nhiên cuốn sách cũng bổ ích cho tất cả những ai quan tâm đến tương lai, việc làm, công nghệ, khoa học, và sáng tạo.

      Người dịch cố hết sức để làm cho bản dịch được chính xác và dễ đọc, song do hiểu biết có hạn nên khó thể tránh khỏi sai sót. Phần chỉ mục nội dung, ở mỗi mục chính (và cả ở mục phụ nếu chúng tôi thấy thuật ngữ có thể là lạ), có kèm theo thuật ngữ tiếng để bạn đọc tiện tham khảo; tác giả dùng nhiều từ mới, số từ được để nguyên bằng tiếng , phần giải thích nghĩa có thể tìm thấy ở Chỉ mục.

      Những người dịch cuốn sách này gồm: Cao Việt Dũng (các Chương 9, 10, 11, 12) và Nguyễn Tiên Phong (Chương 13), phần còn lại tôi dịch và đảm đương việc hiệu đính chung. Tôi thành xin lỗi các cộng soát lại và sửa từng câu của các chương đó. Làm vậy có thể mất cái hay của bản dịch ban đầu, kể cả cách viết chính tả nhưng để cho bản dịch được nhất quán tôi sửa rất nhiều, phần hay là của họ, các lỗi và thiếu sót là của tôi. Tôi chịu trách nhiệm về mọi lỗi và sai sót của toàn bộ bản dịch.

      Mọi chú thích của tác giả được đánh bằng số. Tất cả các chú thích đánh dấu sao (*) ở cuối trang là của người dịch. Trong văn bản đôi khi người dịch có đưa thêm từ hay cụm từ để cho câu được nghĩa, phần đó được đặt trong dấu [như thế này]. Bản dịch chắc còn nhiều thiếu sót mong bạn đọc thông cảm, lượng thứ, và chỉ bảo; xin liên hệ theo địa chỉ Tạp chí Tin học và Đời sống, 54 Hoàng Ngọc Phách Hà Nội [25/B7 Nam Thành Công], hoặc qua điện thư [email protected] hay [email protected]
      09-2005

      Nguyễn Quang A


      * Các quyển trước gồm:

      1. J. Kornai: Con đường dẫn tới nền kinh tế thị trường, Hội Tin học Việt Nam 2001, Nhà Xuất bản Văn hoá Thông tin (NXB VHTT) 2002.

      2. J. Kornai: Hệ thống Xã hội chủ nghĩa, NXB Văn hoá Thông tin 2002

      3. J. Kornai- K. Eggleston: Chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, NXB VHTT 2002

      4. G. Soros: Giả kim thuật tài chính, sắp xuất bản

      5. H. de Soto: của tư bản, sắp xuất bản

      6. J. E. Stiglitz: Chủ nghĩa xã hội về đâu? sắp xuất bản

      7. F.A. Hayek: Con đường dẫn tới chế độ nông nô, sắp xuất bản

      8. G. Soros: Xã hội Mở, sắp xuất bản

      9. K. Popper: Khốn cùng của Chủ nghĩa lịch sử, sắp xuất bản.

      10. K. Popper: Xã hội mở và những kẻ thù của nó, I, Plato

      11. K. Popper: Xã hội mở và những kẻ thù của nó, II, Hegel và Marx

      12. Thomas S. Kuhn: Cấu trúc của các cuộc Cách mạng Khoa học

      Last edited by a moderator: 18/9/14

    2. tranghuyen

      tranghuyen New Member

      Bài viết:
      12
      Được thích:
      6
      MỘT: Khi Tôi Còn Ngủ



      Tâu các Hoảng tử, với tư cách những người Công giáo Cơ đốc, và các hoàng tử những người mến và thúc đẩy niềm tin Công giáo linh thiêng, và là những kẻ thù của học thuyết Mohamet, và của mọi sùng bái thần tượng và dị giáo, quyết định cử tôi, Christopher Columbus, đến các miền của Ấn Độ, để xem các hoàng tử, nhân dân, và các vùng đất ấy, và để tìm hiểu tính khí của họ và phương pháp thích hợp nhằm cải biến họ theo niềm tin linh thiêng của chúng ta; và hơn nữa chỉ dẫn rằng tôi được bằng đường bộ theo hướng Đông, như lệ thường, mà bằng đường phía Tây, theo hướng mà đến nay chúng ta có bằng chứng chắc chắn nào rằng có bất cứ ai .

      - Từ nhật kí của Christopher Columbus về chuyến 1492 của ông

      Chẳng ai từng chỉ hướng cho tôi như thế này sân golf trước đây: “Hãy nhắm vào hoặc Microsoft hay IBM”. Tôi đứng ở điểm phát bóng đầu tiên tại sân golf KGA Golf Club ở khu trung tâm thành phố Bangalore, miền nam Ấn Độ, khi bạn chơi của tôi trỏ vào hai cao ốc bằng kính-và thép bóng loáng nổi bật lên ở đằng xa, đúng sau thảm cỏ xanh đầu tiên. Cao ốc Goldman Sachs vẫn chưa xong; nếu ta có thể trỏ vào cái đó nữa và biến nó thành bộ ba. HP và Texas Instrument có văn phòng của họ ở sau lỗ thứ chín, dọc theo lỗ thứ mười. Đó phải là tất cả. Các mốc phát bóng là của Epson, công ti máy in, và trong những người xách gậy của chúng tôi đội mũ 3M. Bên ngoài, số biển hiệu giao thông cũng do Texas Instrument tài trợ, và bảng quảng cáo Pizza Hut đường trưng miếng pizza bốc hơi, dưới đầu đề “Các miếng giga đầy Hương vị!”

      , đấy dứt khoát phải Kansas. Thậm chí có vẻ giống Ấn Độ. Đấy là Thế giới Mới, Thế giới Cũ, hay Thế giới tiếp?

      Tôi đến Bangalore, Silicon Valley của Ấn Độ, bằng hành trình khám phá của riêng tôi giống của Columbus. Columbus thuyền buồm với các tàu Niña, Pinta, Santa María trong nỗ lực để khám phá ra đường ngắn hơn, trực tiếp hơn đến Ấn Độ bằng hướng về phía tây, qua Đại Tây Dương, mà ông cho là đường biển khơi đến Đông Ấn – hơn là xuống phía nam và đông vòng qua châu Phi, như những người khai phá Bồ Đào Nha thời ông thử . Ấn Độ và các Hòn đảo Gia Vị phương Đông nổi tiếng thời về vàng, ngọc, đá quý, và tơ lụa của họ - nguồn vật báu kể xiết. Tìm đường tắt qua biển này đến Ấn Độ, ở thời khi các thế lực Hồi giáo ngày đó chặn các đường bộ từ châu Âu, cách cho cả Columbus và nền quân chủ Tây Ban Nha trở nên giàu có và hùng mạnh. Khi Columbus căng buồm, hiển nhiên ông cho rằng Trái đất tròn, đó là vì sao ông lại tin chắc rằng ông có thể đến Ấn Độ bằng cách về phương tây. Tuy nhiên, ông tính sai quãng đường. Ông nghĩ Trái Đất là quả cầu hơn. Ông cũng dự kiến gặp vùng đất rộng trước khi ông đến được Đông Ấn. Tuy nhiên, ông gọi các thổ dân mà ông gặp ở thế giới mới là các “Indian-dân da đỏ” [những người Ấn Độ]. Quay về nhà, tuy thế, Columbus có thể cho những người đỡ đầu ông, Vua Ferdinand và Hoàng hậu Isabella, rằng mặc dù ông thấy Ấn Độ, ông có thể xác nhận rằng thế giới quả thực tròn.

      Tôi bắt đầu Ấn Độ theo đúng hướng đông, qua Frankfurt. Tôi dùng Lufthansa với vé hạng thương gia. Tôi biết chính xác hướng mình nhờ bản đồ GPS màn hình thòi ra từ ngăn của ghế ngồi máy bay. Tôi hạ cánh an toàn và đúng giờ. Tôi cũng gặp những người được gọi là Indian. Tôi cũng tìm nguồn giàu có của Ấn Độ. Columbus tìm phần cứng – các kim loại quý, tơ lụa, và gia vị - nguồn giàu có trong thời ông. Tôi tìm phần mềm, năng lực trí óc, các thuật giải phức tạp, các công nhân tri thức, các call center [trung tâm phục vụ khách hàng qua điện thoại], các giao thức truyền, những đột phá về kĩ thuật quang học – các nguồn giàu có của thời chúng ta. Columbus vui sướng biến những người Indian ông gặp thành các nô lệ, quỹ lao động chân tay tự do.

      Tôi chỉ muốn hiểu vì sao những người Indian tôi gặp lại lấy việc làm của chúng ta, vì sao họ trở thành quỹ quan trọng như vậy cho outsourcing [thuê làm ngoài] dịch vụ và việc làm công nghệ thông tin (CNTT) từ Hoa Kì và các nước công nghiệp khác. Columbus có hơn trăm người ba tàu của ông; tôi có nhóm từ kênh Discovery Times vừa thoải mái trong hai xe tải dã chiến, với các lái xe Ấn Độ chân trần. Khi căng buồm, ấy là vậy, tôi cũng cho rằng thế giới là tròn, song cái tôi bắt gặp ở Ấn Độ hết sức làm lung lay niềm tin của tôi vào ý niệm đó. Columbus tình cờ gặp châu Mĩ song ông nghĩ mình khám phá ra phần Ấn Độ. Tôi thực thấy Ấn Độ và nghĩ nhiều người tôi gặp ở đó là những người Mĩ. số thực lấy tên Mĩ, và những người khác bắt chước rất cừ giọng Mĩ ở các call center và các kĩ thuật kinh doanh Mĩ ở các phòng thí nghiệm phần mềm.
      Columbus tâu lên vua và hoàng hậu của mình rằng thế giới tròn và ông vào lịch sử như người đầu tiên khám phá ra điều này. Tôi quay về nhà và chia sẻ phát chỉ với vợ, và chỉ thầm.
      “Em ”, tôi thủ thỉ, “ nghĩ thế giới là phẳng”.

      Làm sao tôi đến kết luận này? Tôi nghĩ bạn có thể tất cả bắt đầu trong phòng họp của Nadan Nilekani ở công ti Infosys Technologies Limited. Infosys là trong các báu vật của thế giới CNTT Ấn Độ, và Nilekani, CEO [Tổng điều hành] của công ti, trong những thuyền trưởng chín chắn và được kính trọng nhất của nền công nghiệp Ấn Độ. Tôi xe với nhóm Discovery Times đến khu Infosys, khoảng bốn mươi phút từ trung tâm Bangalore, để thăm cơ sở và phỏng vấn Nilekani. Đến khu Infosys bằng con đường sứt sẹo, với các chú bò linh thiêng, các xe ngựa kéo, và các xe kéo có động cơ tất cả cùng chen lấn sát cạnh xe chúng tôi. Tuy nhiên, khi bước vào cổng Infosys bạn ở trong thế giới khác. bể bơi lớn cỡ khu nghỉ mát nép mình gữa các tảng đá mòn và những dải cỏ được cắt tỉa, sát kề bãi cỏ khổng lồ như sân golf . Có vô số quán ăn và câu lạc bộ sức khoẻ tuyệt vời. Các cao ốc kính-và-thép dường như mọc lên giống cỏ dại mỗi tuần. Trong số cao ốc đó, các nhân viên Infosys viết các chương trình phần mềm cụ thể cho các công ti Mĩ hay châu Âu; trong các cao ốc khác, họ thực những công việc hậu trường của các công ti siêu quốc gia lớn đặt cơ sở ở Mĩ và châu Âu - mọi thứ từ bảo trì máy tính đến các đề án nghiên cứu cụ thể đến trả lời các cuộc gọi của khách hàng từ khắp nơi thế giới. An ninh là chặt, các camera theo dõi các cửa, và nếu làm việc cho American Express, thể vào cao ốc quản lí các dịch vụ và nghiên cứu cho General Electric. Các kĩ sư Ấn Độ trẻ, nam và nữ, nhanh nhẹn từ cao ốc này sang cao ốc kia, lủng lẳng các thẻ ID [nhận dạng]. người có vẻ như có thể lo các khoản thuế của tôi. Người khác có vẻ như có thể tháo rời máy tính của tôi. Và người thứ ba có vẻ như ta thiết kế nó!
      Sau khi ngồi cho cuộc phỏng vấn, Nilekani dẫn nhóm TV chúng tôi dạo quanh trung tâm hội nghị toàn cầu của Infosys- tầng zero của công nghiệp outsourcing Ấn Độ. Nó là phòng sâu thẳm lát ván ô gỗ nhìn giống phòng học được xếp thành dãy từ trường luật Ivy League. Ở đầu có màn hình đồ sộ cỡ bức tường và ở cao có các camera trần cho hội nghị từ xa. “Đây là phòng hội nghị của chúng tôi, đây có lẽ là màn hình lớn nhất châu Á - gồm bốn mươi màn hình số [gộp lại],” Nilekani tự hào giải thích, chỉ lên màn hình TV lớn nhất tôi từng thấy. Infosys, ông , có thể tổ chức cuộc hội nghị ảo của những người chơi chủ chốt của toàn bộ chuỗi cung ứng toàn cầu của nó cho bất cứ dự án nào vào bất cứ lúc nào màn hình siêu cỡ đó. Như thế các nhà thiết kế Mĩ của họ có thể chuyện màn hình với các nhà viết phần mềm Ấn Độ và các nhà sản xuất Á châu của họ cùng lúc. “Chúng tôi có thể ngồi ở đây, ai đó từ New York, London, Boston, San Francisco, tất cả đều trực tiếp [live]. Và có thể việc thực là ở Singapore, cho nên người ở Singapore cũng có thể trực tiếp ở đây… Đó là toàn cầu hoá,” Nilekani . Phía màn hình có tám chiếc đồng hồ tóm tắt rất khéo ngày làm việc của Infosys: 24/7/365 [24 giờ ngày; 7 ngày tuần; 365 ngày năm]. Các đồng hồ được gắn nhãn Tây Mĩ, Đông Mĩ, GMT, Ấn Độ, Singapore, Hong Kong, Nhật Bản, Úc.

      “Outsourcing chỉ là chiều của thứ cơ bản hơn nhiều xảy ra nay thế giới,” Nilekani giải thích. “Cái xảy ra [vài] năm vừa qua là đầu tư ồ ạt vào công nghệ, đặc biệt trong thời đại bong bóng, khi hàng trăm triệu dollar được đầu tư để thiết lập kết nối khắp nơi thế giới, cáp biển, và tất cả các thứ đó”. Đồng thời, ông thêm, máy tính trở nên rẻ hơn và phân tán khắp thế giới, và bùng nổ về phần mềm – e-mail, các phương tiện tìm kiếm như Google, và phần mềm sở hữu riêng, có thể chẻ bất cứ công việc nào và gửi phần đến Boston, phần đến Bangalore, và phần đến Bắc Kinh, tạo dễ dàng cho bất cứ ai để phát triển từ xa. Khi tất cả các thứ này đột nhiên xảy ra cùng lúc vào khoảng năm 2000, Nilekani thêm, chúng “ tạo ra nền nơi việc làm tri thức, vốn trí tuệ, có thể được giao từ bất cứ đâu. Nó có thể đượcchia , giao, phân phối, sản xuất và ráp lại cùng nhau lần nữa – và điều này cho cách làm việc của chúng ta độ tự do hoàn toàn mới, đặc biệt việc làm có tính chất trí tuệ… Và cái mà nhìn thấy tại Bangalore ngày nay thực là đỉnh điểm của tất cả những điều kết hợp lại.”
      Chúng tôi ngồi văng bên ngoài văn phòng của Nilekani, đợi đội TV dựng các camera. Tại điểm, tóm tắt các ý của tất cả điều này, Nilekani thốt ra cụm từ cứ lảng vảng trong đầu tôi. Ông với tôi, “Tom, sân chơi được san phẳng”. Ý ông muốn là các nước như Ấn Độ bây giờ có khả năng cạnh tranh vì lao động tri thức toàn cầu như chưa từng bao giờ có - và rằng Mĩ tốt hơn hãy sẵn sàng cho điều này. Mĩ bị thách thức, nhưng, ông nhấn mạnh, thách thức là tốt cho Mĩ bởi vì chúng ta luôn sung sức nhất khi bị thách thức. Khi tôi rời khu Infosys về Bangalore tối hôm ấy và bị xóc suốt dọc đường ổ gà, tôi cứ ngẫm nghĩ mãi về cụm từ đó: “Sân chơi được san phẳng”.Cái Nandan , tôi nghĩ, là sân chơi được san phẳng… Được san phẳng? Được san phẳng? Trời ơi, ông ta với tôi thế giới là phẳng!”
      Tôi ở đây, ở Bangalore – hơn 500 năm sau khi Columbus vượt qua đường chân trời, dùng công nghệ hàng hải thô sơ của thời ông, và trở về an toàn để chứng minh dứt khoát rằng thế giới tròn – và trong những kĩ sư tinh nhanh nhất Ấn Độ, được đào tạo tại học viện kĩ thuật hàng đầu của Ấn Độ và được hỗ trợ bởi công nghệ đại nhất nay, về cơ bản với tôi là thế giới này phẳng, phẳng như màn hình mà đó ông ta có thể chủ trì cuộc họp toàn bộ chuỗi cung ứng toàn cầu của mình. Thậm chí lí thú hơn, ông biểu dương phát triển này như điều tốt, như cột mốc mới trong phát triển của loài người và cơ hội lớn cho Ấn Độ và thế giới – thực khiến thế giới chúng ta phẳng!
      Ngồi đằng sau chiếc xe đó, tôi viết vội vàng bốn từ đó vào sổ tay của mình: “Thế giới là phẳng”. Ngay khi viết chúng, tôi nhận ra rằng đấy là thông điệp cơ bản của mọi thứ tôi thấy và nghe ở Bangalore trong hai tuần làm phim. Sân chơi cạnh tranh toàn cầu được san bằng. Thế giới được san phẳng.
      Khi tôi nhận điều này, cả hứng khởi và kinh hãi tràn đầy tôi. Nhà báo trong tôi hứng khởi khi tìm thấy khung khổ để hiểu kĩ hơn các tin chính buổi sáng và để giải thích cái xảy ra thế giới ngày nay. ràng, nay là có thể cho nhiều người hơn bao giờ hết để hợp tác và cạnh tranh trong thời gian thực với nhiều người hơn về nhiều loại việc làm khác nhau hơn từ nhiều ngõ ngách của hành tinh hơn và cơ sở bình đẳng hơn bất cứ thời gian nào trước đây trong lịch sử loài người – dùng máy tính, e-mail, mạng, hội nghị từ xa, và phần mềm mới năng động. Đó là cái Nandan cho tôi. Đó là cái tôi khám phá ra trong hành trình của tôi đến Ấn Độ và xa hơn. Và đó là cái cuốn sách này về. Khi bạn bắt đầu nghĩ về thế giới như là phẳng, rất nhiều thứ có ý nghĩa theo những cách chúng có trước đây. Nhưng đích thân tôi cũng hứng khởi, bởi vì san phẳng thế giới có nghĩa là bây giờ chúng ta kết nối tất cả các trung tâm tri thức hành tinh lại thành mạng toàn cầu đơn nhất, mà - nếu hoạt động chính trị và chủ nghĩa khủng bố cản đường – có thể mở ra kỉ nguyên thịnh vượng và đổi mới gây sửng sốt.
      Nhưng suy ngẫm thế giới phẳng cũng làm tôi tràn đầy kinh hãi, về mặt nghề nghiệp và cá nhân. kinh sợ riêng của tôi xuất phát từ thực hiển nhiên rằng chỉ những người viết phần mềm và các geek [các tay cự phách về] máy tính được trao quyền để cộng tác trong công việc ở thế giới phẳng. Nó cũng là al-Qaeda và các mạng lưới khủng bố khác. Sân chơi được san bằng chỉ theo cách thu hút và siêu trao quyền nhóm hoàn toàn mới của những người đổi mới sáng tạo. Nó được san bằng theo cách lôi kéo và siêu trao quyền nhóm hoàn toàn mới của những người đàn ông và đàn bà giận dữ, nản chí, và bị làm nhục.
      Về nghề nghiệp, nhận ra thế giới là phẳng làm căng thẳng thần kinh vì tôi nhận ra rằng san bằng này xảy ra khi tôi còn ngủ, và tôi bỏ quên nó. Tôi thực ngủ, mà bận việc khác. Trước 11 tháng 9 (11/9), tôi tập trung theo dõi toàn cầu hoá và khai thác căng thẳng giữa các lực “Lexus” của hội nhập kinh tế và các lực “Cây Ô liu” của bản sắc và chủ nghĩa dân tộc – do đó cuốn Xe Lexus và Cây Ô liu của tôi ra đời 1999. Song sau 11/9, các cuộc chiến tranh cây ô liu ám ảnh tôi hoàn toàn. Tôi dành hầu hết thời gian của mình chu du trong các thế giới Ả Rập và Hồi giáo. Vào các năm đó tôi mất dấu vết toàn cầu hoá.
      Tôi lại tìm thấy vết đó hành trình của tôi đến Bangalore tháng 2 năm 2004. khi tìm thấy, tôi nhận ra rằng có cái gì đó quan trọng xảy ra trong khi tôi gắn bó với các lùm cây ô liu của Kabul và Baghdad. Toàn cầu hoá đến mức mới hoàn toàn. Nếu bạn đặt cuốn Xe Lexus và Cây Ô liu và cuốn sách này lại với nhau, bạn đến kết luận lí lẽ lịch sử khái quát là có ba kỉ nguyên lớn của toàn cầu hoá. Thời đại đầu kéo dài từ 1492- khi Columbus dương buồm, mở ra giao thương giữa Thế giới Cũ và Thế giới Mới – cho đến khoảng 1800. Tôi gọi thời đại này là Toàn cầu hoá 1.0. Nó làm thế giới co lại từ kích thước lớn thành cỡ trung bình. Toàn cầu hoá 1.0 là về các nước và sức mạnh cơ bắp. Tức là, trong Toàn cầu hoá 1.0 tác nhân then chốt của thay đổi, động lực thúc đẩy quá trình hội nhập toàn cầu là nước bạn có bao nhiêu cơ bắp – bao nhiêu sức cơ bắp, bao nghiêu sức ngựa, sức gió, hay, muộn hơn, sức hơi nước – và bạn có thể triển khai nó sáng tạo đến thế nào. Trong kỉ nguyên này, các nước và các chính phủ (thường được tôn giáo hay chủ nghĩa đế quốc hay kết hợp của cả hai xúi giục) dẫn đường phá bỏ các bức tường và nối chặt thế giới lại với nhau, thúc đẩy hội nhập toàn cầu. Trong Toàn cầu hoá 1.0, các câu hỏi chủ yếu là: Nước tôi hợp với cạnh tranh và các cơ hội toàn cầu ở chỗ nào? Làm sao tôi có thể toàn cầu và cộng tác với những người khác thông qua nước tôi?
      Kỉ nguyên lớn thứ hai, Toàn cầu hoá 2.0, kéo dài từ 1800 đến 2000, bị gián đoạn bởi Đại Khủng hoảng và Chiến tranh Thế giới I và II. Thời đại này làm thế giới co từ cỡ trung bình xuống cỡ . Trong Toàn cầu hoá 2.0, nhân tố then chốt của thay đổi, động lực thúc đẩy hội nhập toàn cầu, là các công ti đa quốc gia. Các công ti đa quốc gia này tiến hành toàn cầu hoá vì thị trường và lao động, đầu tiên do bành trướng của các công ti cổ phần Hà Lan và và Cách mạng Công nghiệp làm mũi nhọn. Trong nửa đầu của thời đại này, hội nhập toàn cầu được cấp lực bởi sụt giảm chi phí chuyên chở, nhờ động cơ hơi nước và đường sắt, và trong nửa sau bởi sụt giảm các chi phí liên lạc - nhờ phổ biến của điện tín, điện thoại, PC, vệ tinh, cáp quang, và phiên bản ban đầu của World Wide Web (WWW). Chính trong thời đại này mà chúng ta thực thấy ra đời và trưởng thành của nền kinh tế toàn cầu, theo nghĩa rằng dịch chuyển đủ của hàng hoá và thông tin từ lục địa này sang lục địa khác để ở đó có thị trường toàn cầu, với chênh lệch giá về các sản phẩm và lao động. Các động lực ở đằng sau kỉ nguyên toàn cầu hoá này là các đột phá về phần cứng - từ tàu hơi nước và đường sắt lúc ban đầu đến điện thoại và các máy tính lớn vào lúc cuối. Và câu hỏi lớn trong thời đại này là: Công ti tôi hợp với nền kinh tế toàn cầu ở chỗ nào? Nó tận dụng các cơ hội thế nào? Làm sao tôi có thể toàn cầu và cộng tác với những người khác qua công ti của tôi? Cuốn Xe Lexus và Cây Ô liu chủ yếu là về đỉnh điểm của kỉ nguyên này, thời đại khi các bức tường bắt đầu sụp đổ khắp thế giới, và hội nhập, và phản ứng dữ dội với nó, lên mức mới hoàn toàn. Nhưng ngay cả khi các bức tường sụp đổ, vẫn còn nhiều rào cản đối với hội nhập toàn cầu suôn sẻ. Hãy nhớ, khi Bill Clinton được bầu làm tổng thống năm 1992, hầu như ai ngoài chính phủ và giới hàn lâm có e-mail, và khi tôi viết Xe Lexus và Cây Ô liu năm 1998, Internet và thương mại điện tử vừa mới cất cánh.
      Phải, chúng cất cánh – cùng với nhiều thứ khác nữa cùng đến trong khi tôi ngủ. Và đó là lí do vì sao tôi lí lẽ trong cuốn sách này rằng vào khoảng năm 2000 chúng ta bước vào kỉ nguyên mới hoàn toàn: Toàn cầu hoá 3.0. Toàn cầu hoá 3.0 làm thế giới co từ cỡ xuống cỡ bé tí và đồng thời san bằng sân chơi. Và trong khi động lực trong Toàn cầu hoá 1.0 là các nước tiến hành toàn cầu hoá và động lực trong Toàn cầu hoá 2.0 là các công ti tiến hành toàn cầu hoá, động lực trong Toàn cầu hoá 3.0 - thứ cho nó đặc trưng độc nhất vô nhị - là năng lực mới tìm thấy cho các cá nhân để cộng tác và cạnh tranh toàn cầu. Và cái đòn bẩy cho phép các cá nhân và các nhóm toàn cầu dễ đến vậy và suôn sẻ đến vậy phải là sức ngựa, phải là phần cứng, mà là phần mềm- tất cả các loại ứng dụng mới – cùng chung với sáng tạo ra mạng cáp quang toàn cầu biến tất cả chúng ta thành láng giềng sát vách. Bây giờ các cá nhân phải, và có thể, hỏi, Tôi hợp với cạnh tranh và các cơ hội toàn cầu ngày nay ở chỗ nào, và làm sao tôi có thể, tự mình, cộng tác với những người khác cách toàn cầu?
      Song Toàn cầu hoá 3.0 chỉ khác các kỉ nguyên trước ở chỗ nó làm thế giới co lại và phẳng thế nào và nó trao quyền cho các cá nhân ra sao. Nó khác ở chỗ Toàn cầu hoá 1.0 và Toàn cầu hoá 2.0 chủ yếu do các cá nhân và doanh nghiệp Âu Mĩ dẫn dắt. Tuy Trung Quốc thực là nền kinh tế lớn nhất thế giới trong thế kỉ mười tám, chính các nước, các công ti, những người thăm dò phương Tây tiến hành phần lớn việc toàn cầu hoá và định hình hệ thống. Nhưng về sau này, điều này ngày càng ít đúng hơn. Bởi vì nó làm thế giới co lại và phẳng, Toàn cầu hoá 3.0 ngày càng nhiều được dẫn dắt chỉ bởi các cá nhân mà cũng bởi các nhóm cá nhân – phi Tây phương, da trắng – đa dạng hơn nhiều. Các cá nhân từ mọi nơi của thế giới phẳng đều được trao quyền. Toàn cầu hoá 3.0 biến thành có thể cho rất nhiều người để cắm và chơi [plug and play], và bạn thấy mọi sắc cầu vồng con người tham gia.
      (Trong khi trao quyền cho các cá nhân để hành động toàn cầu là đặc tính mới quan trọng nhất của Toàn cầu hoá 3.0, các công ti- to và - cũng được trao quyền cách mới nữa trong kỉ nguyên này. Tôi thảo luận chi tiết cả hai muộn hơn trong cuốn sách này).
      cần phải , tôi chỉ có đánh giá lờ mờ nhất về tất cả điều này khi tôi rời văn phòng của Nandan ngày ấy ở Bangalore. Nhưng khi tôi ngồi suy ngẫm những thay đổi này ở ban công của phòng khách sạn của tôi tối hôm đó, tôi biết thứ: tôi muốn bỏ mọi thứ và viết cuốn sách có thể cho phép tôi hiểu quá trình làm phẳng này diễn ra thế nào và các hệ luỵ của nó có thể là gì đối với các nước, các công ti, và các cá nhân. Cho nên tôi nhấc điện thoại gọi cho vợ tôi, Ann, và bảo , “ viết cuốn sách nhan đề Thế giới là Phẳng”. vừa buồn cười vừa tò mò - ờ, có thể buồn cười hơn là tò mò! Cuối cùng, tôi có khả năng thuyết phục được , và tôi hi vọng có khả năng làm thế với bạn, bạn đọc thân mến. Hãy để tôi đưa bạn quay về lúc đầu của hành trình của tôi đến Ấn Độ, và các điểm phương đông khác, và chia sẻ với bạn số cuộc gặp tình cờ dẫn tôi đến kết luận rằng thế giới còn tròn – mà phẳng.

      Jaithirth “Jerry” Rao là trong những người đầu tiên tôi gặp ở Bangalore- và tôi gặp chưa hơn vài phút ở khách sạn Leela Palace trước khi bảo tôi rằng có thể xử lí các tờ khai thuế của tôi và các cầu kế toán khác tôi cần - từ Bangalore. , cảm ơn, tôi kế toán viên rồi ở Chicago. Jerry chỉ mỉm cười. ta quá lịch để - rằng ta có thể là kế toán viên của tôi rồi, hay đúng hơn kế toán viên của của kế toán viên của tôi, nhờ bùng nổ về outsourcing việc chuẩn bị thuế.
      Điều này xảy ra như chúng ta ”, Rao bảo, quê ở Mumbai, trước là Bombay, hãng của , MphasiS, có đội các kế toán viên Ấn Độ có khả năng làm công việc kế toán được outsource từ bất cứ bang nào của Mĩ và chính phủ liên bang. “Chúng tôi liên kết với nhiều hãng CPA [kiểm toán viên (công) có chứng chỉ] cỡ và vừa ở Mĩ”.
      Ý giống kế toán viên của tôi?” tôi hỏi. “Vâng, giống kế toán viên của ”, Rao với nụ cười. Công ti của Rao tiên phong về phần mềm work flow [luồng công việc] với định dạng chuẩn làm cho outsourcing khai thuế rẻ và dễ. Toàn bộ quá trình bắt đầu, Jerry giải thích, với kế toán viên ở Hoa Kì quét các tờ khai thuế năm ngoái của tôi, cộng với các bản kê khai W-2, W-4, 1099, tiền thưởng, cổ phiếu của tôi- mọi thứ- vào máy chủ, đặt ở California hay Texas. “Bây giờ kế toán viên của , nếu ta xử lí thuế của ở hải ngoại, biết rằng thích cho (ai đó ở ngoài nước) biết họ (tên) hay số An sinh Xã hội của , ta có thể chọn giữ kín thông tin đó”, Rao . “Các kế toán viên ở Ấn Độ [dùng mật khẩu] gọi tất cả thông tin thô cách trực tiếp từ máy chủ ở Mĩ, và họ hoàn tất các tờ khai thuế của , với việc vẫn giấu tên. Tất cả các số liệu ra ngoài Hoa Kì để tuân thủ các quy chế riêng tư… Chúng tôi coi việc bảo vệ dữ liệu và riêng tư rất nghiêm túc. Kế toán viên ở Ấn Độ có thể nhìn thấy số liệu màn hình của mình, nhưng ta thể tải nó xuống hay in nó ra – chương trình của chúng tôi cho phép việc đó. Nhiều nhất ta có thể làm là thử nhớ nó, giả như ta có ý định xấu nào đó. Các kế toán viên được phép mang thậm chí giấy và bút vào trong phòng khi họ làm việc các tờ khai thuế”.
      Tôi bị tò mò về chính làm thế nào dạng tiên tiến này của dịch vụ outsourcing trở thành. “Chúng tôi làm nhiều ngàn tờ khai”, Rao . Hơn nữa, “CPA của ở Mĩ cần thậm chí ở văn phòng của họ. Họ có thể ngồi bãi biển ở California và e-mail cho chúng tôi và , ‘Jerry, cậu làm các tờ khai thuế Bang New York cừ, vì thế cậu làm các tờ khai của Tom. Và Sonia, cậu và đội của cậu ở Delhi làm các tờ khai Washington và Florida’. Tiện thể, Sonia làm việc từ nhà ở Ấn Độ, [công ti phải trả] chi phí chung. ‘Và các việc khác này, chúng thực phức tạp, cho nên tôi tự làm chúng’.”
      Năm 2003, khoảng 25.000 tờ khai thuế Mĩ được làm ở Ấn Độ.
      Năm 2004 con số là 100.000. Năm 2005, dự kiến là 400.000. Trong thập niên, cho rằng kế toán viên của outsource việc chuẩn bị cơ bản của các tờ khai thuế của - nếu hơn nữa.
      vào nghề này thế nào?” tôi hỏi Rao.“Bạn tôi Jeroen Tas, người Hà Lan, và tôi đều làm cho Citigroup ở California”, Rao giải thích. “Tôi là sếp của ta và hôm chúng tôi cùng trở về từ New York chuyến bay và tôi mình có kế hoạch thôi việc và ta bảo, ‘Tôi cũng thế’. Cả hai chúng tôi đều , ‘Vì sao chúng ta lại khởi động doanh nghiệp riêng của chúng ta?’ Vì thế vào năm 1997-98, chúng tôi cùng nhau đưa ra kế hoạch kinh doanh để cung cấp các giải pháp Internet cao cấp cho các công ti lớn … Hai năm trước, tuy vậy, tôi dự hội nghị công nghệ ở Las Vegas và số hãng kế toán [Mĩ] cỡ trung bình tiếp cận tôi, và họ rằng họ thể đủ sức để đưa ra các hoạt động outsourcing lớn về thuế đến Ấn Độ, nhưng các gã [công ti] lớn có thể, và [những gã vừa] muốn vượt họ. Vì lẽ đó chúng tôi phát triển sản phẩm phần mềm gọi là VTR – Virtual Tax Room: Buồng Thuế Ảo- để cho phép các hãng kế toán cỡ vừa này dễ dàng outsource khai thuế.”Các hãng cỡ vừa này “có được sân chơi bằng phẳng hơn, mà trước đây họ bị từ chối,” Jerry . “Đột nhiên họ có thể tiếp cận đến cùng các lợi thế về quy mô mà các gã lớn hơn luôn có.”Có phải thông điệp cho những người Mĩ, “Má, đừng để các con má lớn lên làm kế toán viên?” Tôi hỏi. vậy, Rao . “Cái mà chúng tôi làm là làm công việc tạp nhạp. biết cần cái gì để chuẩn bị tờ khai thuế? Việc làm rất ít sáng tạo. Đấy là cái chuyển ra hải ngoại”.“Kế toán viên muốn ở lại trong nghề tại Mĩ là người tập trung vào nghĩ ra các chiến lược sáng tạo phức hợp, như tránh thuế hay né tránh thuế, quản lí các quan hệ khách hàng”, Rao . hay chị ta bảo các khách hàng của mình, ‘Tôi khiến công việc tạp nhạp được làm rất hiệu quả. Bây giờ hãy về làm thế nào chúng tôi quản lí tài sản của làm gì cho lũ trẻ của . có muốn để số tiền nào đó trong các quỹ quản thác [trust] của mình?’ Nó có nghĩa là có các thảo luận chất lượng-thời gian với các khách hàng hơn là chạy vòng quanh giống những con gà với đầu bị cắt đứt từ tháng Hai đến tháng Tư, và thường đệ đơn xin gia hạn đến tháng Tám, bởi vì họ có chất lượng thời gian với các khách hàng.”Đánh giá từ tiểu luận trong tạp chí Accounting Today (7 tháng Bảy, 2004), quả thực, điều này có vẻ là tương lai. L. Gary Boomer, CPA và CEO của Boomer Consulting ở Manhattan, Kansas, viết, “Mùa [thuế] vừa rồi tạo ra hơn 100.000 tờ khai thuế [được outsource] và bây giờ được mở rộng ngoài các tờ khai thuế cá nhân sang các quỹ quản thác, các hội buôn và các công ti… Lí do chủ yếu khiến ngành kinh doanh có khả năng tăng quy mô nhanh như nó có ba năm qua là do đầu tư mà các công ti [đặt cơ sở ở nước ngoài] này tiến hành vào hệ thống, quy trình và đào tạo.” Có khoảng bảy mươi ngàn người tốt nghiệp đại học ngành kế toán ở Ấn Độ mỗi năm, ông thêm, nhiều trong số đó làm cho các hãng địa phương Ấn Độ khởi đầu với 100 $ tháng. Với giúp đỡ của truyền thông tốc độ cao, đào tạo nghiêm ngặt, và các mẫu biểu chuẩn hoá, những người Ấn Độ trẻ này có thể được cải biến thành các kế toán viên phương Tây cơ bản khá nhanh với phần chi phí. số hãng kế toán Ấn Độ thậm chí bắt đầu tiếp thị chính họ cho các hãng Mĩ qua hội nghị từ xa và bỏ qua việc lại. Boomer kết luận, “Nghề kế toán nay biến đổi. Những người bấu víu vào quá khứ và chống lại thay đổi bị buộc dấn sâu hơn vào hàng hoá hoá (commoditization). Những người có thể tạo ra giá trị thông qua lãnh đạo, các mối quan hệ và sức sáng tạo làm biến đổi ngành kinh doanh, cũng như tăng cường các mối quan hệ với các khách hàng có của họ.”Cái cho tôi, tôi bảo Rao, là bất kể nghề của bạn là gì – bác sĩ, luật sư, kiến trúc sư, kế toán viên - nếu bạn là người Mĩ, tốt hơn bạn hãy giỏi ở thứ dịch vụ nhạy cảm, bởi vì bất cứ thứ gì có thể được số hoá có thể được outsource cho nhà sản xuất hoặc khéo nhất hoặc rẻ nhất, hoặc cả hai. Rao trả lời, “Mỗi người phải tập trung vào cái chính xác là giá trị gia tăng của mình.”Nhưng nếu tôi chỉ là kế toán viên trung bình sao? Tôi học ở đại học nhà nước. Tôi có kết quả trung bình B+. Cuối cùng tôi có bằng CPA. Tôi làm việc ở hãng kế toán lớn, làm nhiều việc thông thường. Tôi hiếm khi gặp khách hàng. Họ giữ tôi ở đằng sau. Nhưng đó là sinh kế tử tế và về cơ bản hãng vừa lòng với tôi. Cái gì xảy ra với tôi trong hệ thống này?“Đó là câu hỏi hay,” Rao . “Chúng ta phải chân về nó. Chúng ta ở giữa thay đổi công nghệ to lớn, và khi bạn sống trong xã hội ở đỉnh của thay đổi đó [như Mĩ], khó để tiên đoán. Dễ tiên đoán cho ai đó sống ở Ấn Độ. Trong mười năm chúng tôi làm nhiều thứ được làm ở Mĩ ngày nay. Chúng tôi có thể dự đoán tương lai của mình. Nhưng chúng tôi ở sau các bạn. Các bạn xác định tương lai. Mĩ luôn luôn ở đỉnh của làn sóng sáng tạo mới… Cho nên là khó để nhìn vào mắt kế toán viên đó và đây là cái là. Chúng ta được tầm thường hoá điều đó. Chúng ta phải xử lí nó và về nó cách chân … Bất cứ hoạt động nào mà chúng ta có thể số hoá và phân li chuỗi giá trị, và di chuyển công việc đó đây, được di chuyển . Ai đó , ‘Ừ, nhưng thể phục vụ tôi miếng thịt nướng’. Đúng, nhưng tôi có thể làm việc đặt trước bàn của ngồi ở bất cứ đâu thế giới, nếu quán ăn người phụ trách. Chúng tôi có thể , ‘Vâng, ông Friedman, chúng tôi có thể dành cho ông bàn gần cửa sổ’. cách khác, có những phần của việc ăn cơm hiệu mà chúng ta có thể phân li và outsource. Nếu bạn quay lại và đọc các sách giáo khoa kinh tế học cơ bản, chúng bảo: Các hàng hoá được trao đổi, còn các dịch vụ được tiêu thụ và sản xuất ở cùng chỗ. Và bạn thể xuất khẩu việc cắt tóc. Song chúng ta đến gần việc xuất khẩu cắt tóc, phần việc hẹn. Bạn muốn cắt kiểu tóc gì? Bạn muốn thợ cắt nào? Tất cả các thứ đó có thể và được call center ở rất xa làm.”Khi chúng tôi kết thúc cuộc chuyện, tôi hỏi Rao tiếp theo làm gì. ta tràn đầy sinh lực. bảo tôi chuyện với công ti Israel có những bước tiến lớn về công nghệ nén cho phép truyền các hình quét CAT (Computer Assisted Tomography) tốt hơn và dễ hơn qua Internet cho nên bạn có thể mau chóng có ý kiến thứ hai từ bác sĩ cách xa nửa vòng trái đất.Vài tuần sau khi tôi chuyện với Rao, tôi nhận được e-mail sau từ Bill Brody, hiệu trưởng Đại học Johns Hopkins, người tôi vừa phỏng vấn cho cuốn sách này:Tom mến, tôi tại cuộc hội nghị giáo dục y tế tiếp tục của trường Hopkins cho các bác sĩ xạ chẩn [radiologist] (tôi từng là radiologist) … Tôi chợt thấy tình hình rất hấp dẫn mà tôi nghĩ có thể quan tâm. Tôi vừa được biết rằng nhiều bệnh viện số bệnh viện vừa ở Hoa Kì, các radiologist outsourcing việc đọc các ảnh quét CAT cho các bác sĩ ở Ấn Độ và Úc!!! Hầu hết việc này xảy ra vào ban đêm (và có thể cuối tuần) khi các radiologist có đủ nhân viên để lo việc yểm trợ trong bệnh viện. Trong khi số nhóm xạ chẩn dùng xạ chẩn từ xa [teleradiology] để chuyển các ảnh từ bệnh viện về nhà của họ (hay đến Vail hay Cape Cod, tôi giả sử) như thế họ có thể diễn giải các ảnh và cho chẩn đoán 24/7, hiển nhiên các bệnh viện chuyển các bức ảnh quét cho các radiologist nước ngoài. Lợi thế là ban ngày ở Úc hay Ấn Độ khi ban đêm ở đây – cho nên yểm trợ ngoài giờ trở nên dễ làm hơn bằng chuyển các ảnh qua trái đất. Vì các ảnh CAT (và MRI-Magnetic Resonance Imaging) ở dạng số rồi và có sẵn để dùng mạng với giao thức chuẩn, có vấn đề gì để xem các ảnh ở bất cứ đâu thế giới …Tôi cho rằng các radiologist ở đầu kia … phải được đào tạo ở Hoa Kì và có các bằng, chứng chỉ và khả năng phù hợp… Các nhóm thực việc đọc ngoài giờ này được các radiologist Mĩ thuê họ gọi là “các Cú ăn đêm – Nighthawks”.

      nhờ trời tôi là nhà báo và phải là kế toán viên hay radiologist. có outsourcing nào đối với tôi- cho dù số bạn đọc nào đó của tôi có thể muốn mục báo của tôi có thể chuyển Bắc Triều Tiên. Ít nhất đó là cái tôi nghĩ. Sau đó tôi nghe về hoạt động của Reuters ở Ấn Độ. Tôi có thời gian để thăm văn phòng Reuters ở Bangalore, nhưng tôi có khả năng nắm được Tom Glocer, CEO của Reuters, để nghe ông làm gì. Glocer là người tiên phong về outsourcing các yếu tố của chuỗi cung tin thức.
      Với 2.300 nhà báo quanh thế giới, ở 197 văn phòng, phục vụ thị trường bao gồm các nhà ngân hàng đầu tư, các nhà buôn bán các công cụ phái sinh, các nhà môi giới chứng khoán, các báo, đài phát thanh, truyền hình, và các đại lí Internet, Reuters luôn có khán-thính-độc giả rất phức tạp để thoả mãn. Sau phá sản dot-com, tuy vậy, khi nhiều khách hàng của nó trở nên rất có ý thức về chi phí, Reuters bắt đầu tự hỏi mình, vì các lí do cả về chi phí và hiệu quả: Chúng ta thực cần đặt người của chúng ta vào đâu để cung ứng cho chuỗi cung tin tức toàn cầu của chúng ta? Và chúng ta có thể thực chia công việc của nhà báo và giữ phần ở London và New York và chuyển phần sang Ấn Độ?Glocer bắt đầu ngó đến chức năng kiếm cơm cơ bản nhất mà Reuters cung cấp, là tin sốt dẻo về thu nhập công ti và những tiến triển kinh doanh liên quan, từng giây của mỗi ngày. “Exxon tiết lộ thu nhập của nó và chúng ta cần đưa điều đó càng nhanh càng tốt lên các màn hình khắp thế giới: ‘Exxon kiếm được ba mươi chín cent quý này trái với ba mươi sáu cent quý trước’. Năng lực cốt lõi ở đó là tốc độ và chính xác”, Glocer giải thích. “Chúng ta cần nhiều phân tích. Ta chỉ cần đưa tin cơ bản càng nhanh càng tốt. Tin khẩn phải ra tính bằng giây sau công bố của công ti, và bảng [cho thấy lịch sử gần đây về thu nhập quý] vài giây muộn hơn”.Các loại tin đặc biệt về thu nhập đó đối với kinh doanh tin là vanilla đối với kinh doanh kem - hàng hoá cơ bản thực có thể được làm ở bất cứ đâu trong thế giới phẳng. Việc làm tri thức có giá trị gia tăng thực xảy ra trong năm phút tiếp theo. Đó là khi cần nhà báo , người biết làm sao để có bình luận từ công ti, bình luận từ hai nhà phân tích hàng đầu trong lĩnh vực, và thậm chí vài lời từ các đối thủ cạnh tranh để đặt báo cáo thu nhập vào viễn cảnh. “Điều đó cần tập kĩ năng báo chí cao hơn – ai đó có các quan hệ thị trường, người biết ai là các nhà phân tích ngành giỏi nhất và đưa đúng người ăn trưa”, Glocer . phá sản dot-com và làm phẳng thế giới buộc Glocer phải nghĩ lại Reuters cung cấp tin thế nào - liệu nó có thể chia các chức năng của nhà báo và chuyển các chức năng có giá trị gia tăng thấp sang Ấn Độ. Mục tiêu chính của ông là để giảm chồng chéo tổng tiền lương của Reuters, trong khi bảo tồn càng nhiều việc làm báo giỏi càng tốt. “Cho nên việc đầu tiên chúng tôi làm”, Glocer , “là thuê sáu phóng viên ở Bangalore như thử nghiệm. Chúng tôi bảo, ‘Hãy bảo họ làm chỉ các tóm tắt tin đặc biệt và các bảng và bất cứ thứ gì khác có thể sai họ làm ở Bangalore’.” Những người Ấn Độ mới được thuê này có kiến thức kế toán và được Reuters huấn luyện, song họ được trả lương, ngày nghỉ và trợ cấp y tế theo chuẩn địa phương. “Ấn Độ là địa điểm phong phú thể tin nổi để tuyển người, chỉ có kĩ năng kĩ thuật mà cả kĩ năng tài chính,” Glocer . Khi công ti công bố thu nhập của mình, trong những việc đầu tiên nó làm là trao cho các hãng điện tín – Reuters, Dow Jones, và Bloomberg - để phân phát. “Chúng tôi lấy dữ liệu thô đó,” ông , “và rồi là cuộc chạy đua xem chúng tôi có thể quay vòng nó nhanh ra sao. Bangalore là trong những nơi được nối mạng nhất thế giới, và mặc dù có chút trễ - giây hay ít hơn – để kéo thông tin sang đó, hoá ra là bạn có thể ngồi ở Bangalore và có được phiên bản điện tử của thông cáo báo chí và biến nó thành câu chuyện dễ dàng hệt như bạn có thể làm ở London hay New York”. khác biệt, tuy vậy, là lương và tiền thuê nhà ở Bangalore ít hơn phần năm so với ở các thủ đô phương Tây đó.Trong khi kinh tế học và làm phẳng thế giới đẩy Reuters xuống con đường này, Glocer cố vui vẻ làm vì đằng nào cũng phải làm. “Chúng tôi nghĩ chúng tôi có thể trút gánh nặng báo cáo bị hàng hoá hoá và khiến việc đó được làm cách có hiệu quả ở nơi khác thế giới,” ông , và rồi tạo cơ hội cho các nhà báo Reuters theo quy ước để tập trung vào việc làm báo và phân tích có giá trị gia tăng cao và thoả mãn cá nhân hơn nhiều. “Hãy giả như nhà báo Reuters ở New York. đạt thoả mãn cuộc sống của mình bằng chuyển các công bố báo chí thành các hộp các màn hình hay làm việc phân tích?” Glocer hỏi. Tất nhiên, là việc sau. Outsourcing các thông báo tin tức cho Ấn Độ cũng cho phép Reuters mở rộng bề ngang của việc làm phóng của nó tới nhiều công ti có vốn hơn, các công ti có hiệu quả về chi phí đối với Reuters để theo dõi trước đây với các nhà báo được trả lương cao hơn ở New York. Nhưng với các phóng viên Ấn Độ có lương thấp, có thể thuê nhiều người với chi phí của phóng viên ở New York, bây giờ có thể làm việc đó từ Bangalore. Mùa hè 2004, Reuters tăng hoạt động nội dung Bangalore của nó lên ba trăm nhân viên, nhắm cuối cùng đến tổng số ngàn rưởi. vài trong số đó là các phóng viên Reuters kì cựu được cử sang để huấn luyện các đội Ấn Độ, số là các phóng viên làm các tin thu nhập đặc biệt, nhưng hầu hết là các nhà báo làm phân tích dữ liệu chuyên biệt hơn chút – nghiền số [number crunching: tính toán số liệu]- cho chào bán chứng khoán.“Rất nhiều khách hàng của chúng tôi làm cùng việc,” Glocer . “Nghiên cứu đầu tư bóc toạc số lượng chi phí khổng lồ, vì thế rất nhiều hãng dùng làm ca ở Bangalore để làm việc kiếm cơm phân tích công ti”. Cho đến gần đây các hãng lớn ở Wall Street tiến hành nghiên cứu đầu tư bằng tiêu hàng triệu dollar cho các nhà phân tích ngôi sao và sau đó tính phần chi phí lương của họ cho các phòng môi giới chứng khoán của họ, chúng chia sẻ kết quả phân tích với các khách hàng tốt nhất của họ, và tính phần chi phí cho kinh doanh ngân hàng đầu tư của họ, thường dùng các phân tích tô hồng của công ti để nhử việc kinh doanh ngân hàng của nó. Theo sau các vụ điều tra của Eliot Spitzer Tổng Chưởng lí Bang New York về các tập quán Wall Street, tiếp theo nhiều vụ bê bối, hoạt động ngân hàng đầu tư và môi giới chứng khoán phải tách bạch ràng – sao cho các nhà phân tích ngừng thổi phồng các công ti nhằm nhận được hoạt động ngân hàng đầu tư của họ. Nhưng như kết quả, các hãng đầu tư lớn ở Wall Street phải cắt giảm mạnh chi phí nghiên cứu thị trường của họ, tất cả bây giờ do riêng các phòng môi giới chứng khoán chi trả. Và điều này tạo khuyến khích lớn đối với họ để outsource số công việc giải tích cho các nơi như Bangalore. Bên cạnh việc có khả năng trả nhà phân tích ở Bangalore khoảng 15.000 $ tổng đền bù, trái với 80.000 $ ở New York hay London, Reuters thấy rằng các nhân viên Ấn Độ của nó cũng thường hay có học về tài chính và tận tuỵ do có động cơ cao nữa. Mới đây Reuters cũng mở trung tâm phát triển phần mềm ở Bangkok vì hoá ra là chỗ tốt để tuyển các nhà phát triển phần mềm những người mà tất cả các công ti phương Tây ganh đua vì tài năng ở Bangalore để ý tới.
      Bản thân tôi bị xu hướng này giằng xé. Sau khi bắt đầu nghiệp của mình như phóng viên điện tín với hãng UPI-United Press International, tôi có đồng cảm lớn lao với các phóng viên điện tín và với các áp lực, cả chuyên môn và tài chính, mà dưới đó họ làm việc cật lực. Song UPI có thể vẫn phát đạt ngày nay như hãng điện tín, mà nó là, nếu giả như nó có khả năng outsource việc kinh doanh cấp thấp hơn của nó khi tôi bắt đầu với tư cách phóng viên ở London hai mươi lăm năm trước.
      “Khó xử với nhân viên,” Glocer , người cắt gần phần tư toàn bộ nhân viên Reuters, mà có những tổn thương sâu sắc giữa các phóng viên. Ông , nhân viên Reuters hiểu rằng việc này phải làm sao cho công ti có thể sống sót và rồi thịnh vượng lại. Đồng thời, Glocer , “đấy là những người sành điệu làm phóng . Họ thấy các khách hàng của chúng tôi làm chính xác cùng việc. Họ nắm được cốt truyện … Quan trọng là phải chân với con người về cái chúng ta làm và vì sao và tô vẽ thông điệp. Tôi tin vững chắc vào bài học của các nhà kinh tế cổ điển về di chuyển công việc đến nơi nó có thể được làm tốt nhất. Tuy nhiên, ta được bỏ qua rằng trong số trường hợp, cá nhân những người lao động dễ tìm việc làm mới. Đối với họ, việc giữ lại và mạng lưới an sinh xã hội thích đáng là cần thiết”.Trong nỗ lực để giải quyết trực tiếp với nhân viên Reuters, David Schlesinger đứng đầu Reuters Mĩ, gửi cho tất cả các nhân viên biên tập thư báo, chứa đoạn trích sau:

    3. Betty

      Betty Well-Known Member

      Bài viết:
      613
      Được thích:
      2,030
      @tranghuyen Nàng post nhằm mục rồi, truyện này phải post vào mục Truyện Phương Tây( xuất bản) mới đúng, mình nhờ mod chuyển lại bạn vào đó post tiếp nhé.:052:

      @Avehil nàng chuyển giúp ta với:yoyo51:

    4. tranghuyen

      tranghuyen New Member

      Bài viết:
      12
      Được thích:
      6
      ôi thế à, cảm ơn các ấy nhé, mình hơi gà mờ, với lại mắt cận hơi nặng nên đôi lúc những cái gần nhau sẽ ảo lẫn vào nhau, hà hà,

    5. Avehil

      Avehil Well-Known Member Staff Member Moderator

      Bài viết:
      1,993
      Được thích:
      10,260
      có box mới, sách tài liệu tham khảo...
      mọi ng vô đấy nhé :)

      @Betty cậu quản được box này ko? nếu quản được mình chuyển bên ebook xuất bản sang cho Kiddy Le?

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :