1. QUY ĐỊNH BOX TRUYỆN SƯU TẦM :

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]
    ----•Nội dung cần:
    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)
    - Nguồn
    - Tác giả
    - Tên editor +beta
    - Thể loại
    - Số chương
    Đặc biệt chọn canh giữa cho đoạn giới thiệu
    ---- Quy định :
    1. Chỉ đăng những truyện đã có ebook và đã được public trên các trang web khác
    2 . Chỉ nên post truyện đã hoàn đã có eBook.
    3. Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn
    4 . Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Love In The Dark - Barbara Cartland ( 7c )

Thảo luận trong 'Truyện Phương Tây (Sưu Tầm)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. lavendervs

      lavendervs Well-Known Member

      Bài viết:
      2,143
      Được thích:
      392
      [​IMG]

      Tên truyện : Love In The Dark
      Tác giả: Barbara Cartland
      Dịch: anna88
      Nguồn: http://www.vietlangdu.com/viewtopic.php?f=66&t=10828
      Thể loại: tiểu thuyết lãng mạn.
      Số chương:7c

      Giới thiệu:

      Nàng: người , mặc cảm là mình xấu & mập, lại còn bị bà mẹ khắc nghiệt ép hôn, nên bỏ trốn tìm việc làm.

      Chàng: chủ hãng xe hơi người Mỹ, trong cuộc đua xe bị tai nạn mù mắt (tạm thời). Cần thư ký biết tiếng Pháp và Ý vì có giao dịch thương mãi với hai nước này.

    2. lavendervs

      lavendervs Well-Known Member

      Bài viết:
      2,143
      Được thích:
      392
      CHAPTER 1
      (1-1)

      Susanna bước xuống cầu thang phía sau nhà, dọc theo hành lang tiến vào phòng khách chính, căn phòng này rất ít khi được sử dụng trong nhà. Đây là lối cho nàng vào phòng tiếp tân, bởi vì nếu bằng cầu thang phía trước, ông quản gia Hibbert lại thông báo tên nàng vang lên khắp nơi.

      Nếu có điều gì đấy làm cho nàng ngượng nhất đó chính là khi bước vào phòng tiếp tân lúc mà tất cả bạn bè của mẹ nàng trò chuyện chung quanh bàn trà. Khi tên nàng được xướng lên tất cả đều yên lặng và mọi cặp mắt đều đổ dồn vào nàng. Nàng thừa biết dung mạo mình gây ấn tượng thế nào cho người đối diện: quá đẫy đà, dáng người cân đối cho dù là diện áo mới chăng nữa, thiếu vòng eo nhắn thanh lịch như của mẹ nàng, người mà sắc đẹp luôn được xưng tụng khắp mọi nơi bà đặt chân đến.

      Phu nhân Lavenham là mỹ nhân mà sắc đẹp khuynh thành của bà được truyền tục khắp nơi từ công viên cho đến báo giới khắp nơi. Điều mà người ta muốn đến là – bà là trong những người phụ nữ xinh đẹp nhất trong vòng sinh hoạt của nhà vua, người đàn bà bị ghanh ghét nhất trong xã hội thượng lưu.

      Susana biết mình là nỗi thống khổ mẹ nàng phải chịu đựng, khi con thứ nhì của bà lại quá tầm thường mờ nhạt. Nàng thường soi mình trong gương và tự hỏi sao mình lại có nhan sắc như thế - khuôn mặt tròn, má xệ xuống trong khi mắt, mũi, miệng lại quá .

      Mái tóc thay vì mang màu vàng óng ả như của mẹ nàng hay màu hạt dẻ sẫm quyến rũ của ba chả có gì đặc biệt, là kết hợp giữa màu tóc của ba và mẹ.

      Mỗi lần soi gương xong nàng lại tìm chocolate, ăn lấy ăn để cho vị ngọt của kẹo xoa dịu tinh thần nàng bớt u uất.

      Chị của nàng, May, hoàn toàn khác hẳn. Chị từng là thanh tú xinh xắn trước khi rời trường nội trú, và trở thành thiếu nữ đến tuổi cập kê.

      “May cũng xinh đẹp như em thuở đầu mới gặp em.” Ba nàng thường hay vậy với mẹ, và duy chỉ có nàng là nhận ra lời khen tặng đó của ba khiến mẹ cau mày. Bà thích bất cứ đối thủ xinh đẹp nào, cho dù người đó là con mình.

      Nhưng có điều rất đỗi hiển nhiên – khi liên quan đến Susana lại hề nảy sinh cạnh tranh nào.

      Giờ đây khi nàng băng ngang qua phòng khách chính và vào thư phòng nối liền với phòng tiếp tân, nàng thấy bóng mình phản chiếu trong những tấm gương khung mạ vàng và nhận thấy dáng dấp mình trông vừa thấp vừa cục mịch.

      Những từ ngữ ấy đúng cách chính xác!

      “Hay đúng hơn,” nàng tự nhủ với đôi chút trào phúng, “là y như ổ bánh mì cottage!” (ổ bánh mì này có hai khoanh tròn chồng lên nhau, khoanh khoanh lớn ở dưới)

      Eo nàng được xiết chặt cố làm cho có vẻ hơn, nhưng thân hình phía phía dưới vòng eo lại phình ra.

      Cái áo nàng mặc bằng nhiễu màu ngà đính đường viền xếp nếp bằng lụa xung quanh gấu áo làm cho May giống như nữ thần trẻ trung, nhưng khoác lên người Susana lại trông quê kệch.

      “Đành chịu thôi, mình cũng chả còn cách nào!” Nàng tự bảo mình cách ương bướng.

      Nàng đột nhiên cảm thấy muốn ăn chiếc bánh Merigue và mấy cái bánh bông lan be bé bắt kem màu hồng mà nàng biết thế nào cũng có phần trong bữa tiệc trà cầu kỳ ở phòng tiếp tân, và thế là nàng nhanh chóng băng qua phòng đến chỗ cửa nối hai phòng.

      Khi nàng tay vặn núm cửa nghe tên mình được nhắc đến.

      “Thế chị tính giới thiệu Susanna trong phòng tiếp tân nào đây?” có giọng ai đó hỏi.

      “Ồ, phòng đầu tiên!” mẹ nàng đáp lại. “ là chán, nên lo xong càng sớm càng tốt cho tôi.”

      “Sau đó chị có dự tính gì hả, Daisy?” người khác lên tiếng hỏi.

      Phu nhân Lavenham bật cười, giọng cười thanh tao mà những người ái mộ bà diễn tả nghe y như nhạc.

      đương nhiên là đám cưới!” bà trả lời. “Và phải cho mau vào.”

      “Chị hoàn toàn đúng,” người đầu tiên tán thành, giọng đó Susanna nhận ra là của phu nhân Walsingham. “Chị để ý ai cho nó chưa? Lại quận công nữa hở?”

      tràng cười khẽ bật lên đáp lại câu hỏi đó trước khi phu nhân Lavenham cách mát mẻ:

      tất nhiên rồi!”

      Susanna nhận thấy ngón tay nàng cầm núm cửa chạm hoa văn chợt sững lại.

      Phu nhân Walsingham hỏi:

      “Vị quận công nào đây? cho chúng tôi nghe Daisy, chị lưu ý đến ai hở?”

      “Tôi hy vọng là các chị giúp tôi,” phu nhân Lavenham đáp lại, “tôi với các chị là trong lúc này chỉ có người duy nhất là Southampton thôi!”

      Có tiếng xuýt xoa nho vang lên hầu như là tiếng suỵt khẽ khi phu nhân Lavenham cất tiếng, và rồi phu nhân Walsingham :

      “Nhưng, Daisy thân mến của tôi ơi, Hugh Southampton chả có xu nào kèm với tên tuổi của ông ta cả!”

      “Chính xác!” phu nhân Lavenham trả lời. “ đấy là lý do ông ta rất mừng rỡ khi cưới Susanna.”

      Lại thêm tiếng suỵt trước khi ai đó ướm lời:

      “Chị bảo với chúng tôi là Susanna có tiền sao?”

      “Dĩ nhiên là nó có tiền!” phu nhân Lavenham đáp lời. “Tôi nghĩ là các chị biết mẹ đỡ đầu của nó, người đàn bà chán thể tưởng, để cho nó cả gia tài đấy.”

      “Thú vị nhỉ! Tôi chả biết gì cả!” phu nhân Walsingham ngạc nhiên thốt lên, rồi các vị phu nhân khác quanh bàn trà cùng nhau kêu lên sửng sốt.

      “Con bé Susanna tội nghiệp phải tận dụng đến từng xu mới được,” phu nhân Lavenham tiếp tục. “Mình đều biết là Hugh Southampton cần người vợ giàu kia mà, thế còn gì tiện lợi hơn nữa?”

      “Thực vậy à?” ai đó thốt lên. “ chứ, Daisy, chị đúng là thiên tài nhé! Nhưng về mặt khác chị lúc nào cũng thế!”

      Giọng đó có vẻ ganh tị, vì vị trí của phu nhân Lavenham trong xã hội thượng lưu chắc chắn tạo cho bà số đối thủ gai góc.

      công bằng,” họ vẫn thường ca cẩm như thế, “rằng bà ta những xinh đẹp và kết hôn với chàng Charles Lavenham khả ái, người được ngưỡng mộ trong giới thể thao, là tay thiện xạ, mà bà ta còn là người tính tình thú vị đủ để quyến rũ trái tim của nhà vua và gả con đầu cho hầu tước xứ Fladbury, sau này là quận công Haven khi ba ta qua đời.”

      Nhưng con thứ nhì của Daisy thân mến lại rất ư là mập và xấu đến độ làm sụp đổ nấc thang dẫn đến đỉnh cao chót vót trong xã hội của mẹ mình, cái vị trí mà ai có thể truất phế bà ta cả!

      Nhưng giờ đây con vịt xấu xí đó lại là nữ thừa kế nhân đúng là qúa đáng!

      Hầu hết các vị phu nhân đều nghĩ thầm rằng quận công Southampton, nhân vật mà tòa nhà từ đường của ta sắp sụm đến nơi và lại còn mang công mắc nợ tứ phương tám hướng qúa hớn hở để bán tước vị của mình để đổi lấy vợ giàu có và là dân nữa chứ.

      Họ đều biết mười mươi là chàng ta từng ngắm nghía vài nàng thừa kế nhân người Mỹ tuốt luốt bên kia bờ Đại Tây Dương hy vọng tóm được người chồng hiển hách.

      Chỉ có những thậm chí tương đối kha khá mới chuộng những vị quận công có thế lực hơn, hay đúng ra là các bà mẹ của họ thích những nhân tuyển này hơn.

      Ai cũng hiểu ngầm là trong bộ luật bất thành văn lạ lùng của xã hội thời Edwardian rằng công việc của các đấng mẫu thân là gả con , ngay khi vừa rời khỏi trường lớp vào vị trí nào cao nhất trong xã hội mà họ với tới nổi. Còn các con có cảm tưởng như thế nào nữa cũng chả quan trọng.

      Đứng nghe ngay cửa Susanna nhớ lại nghe May lại biết bao nhiêu lần.

      “Chị thể lấy đâu, Susanna, chị thể nào đâu! Chị ghét lắm, khi chạm vào chị là chị cảm thấy buồn nôn!”

      Susanna vẫn nhớ hết đêm này đến đêm khác May khóc lóc rất thê thảm.

      Ngoại trừ nàng ai chịu nghe lời chị ấy. Còn Susanna lúc đó trang phục như phù dâu theo chị đến tận lối dẫn tới cung thánh của nhà thờ St. George trong quảng trường Hanover, và nghe chị đọc lời tuyên thệ hôn nhân bằng giọng yếu ớt, đầy nước mắt.

      Ngay lần gặp đầu tiên nàng thích ông rể. Dù khuôn mặt đỏ ửng do tiêu thụ qúa nhiều rượu claret, vẫn được mọi người xưng tụng, kể cả ba nàng, như là tay thể thao và thiện xạ hàng đầu, và ai tin nổi là May lại có những ý tưởng khác về người chồng hoặc là chị ấy thấy hầu tước rất ghê tởm.

      Sau khi hưởng tuần trăng mật trở về, mặt mày May nhợt nhạt, ánh mắt đờ đẫn. Và đấy là đầu tiên trong đời chị buồn trò chuyện với em mình. Kể từ đó Susanna tự nhủ nàng bao giờ, nhất quyết bao giờ để mình bị ép hôn với bất kỳ người đàn ông nào. Nhưng giờ đây khi nghe những gì họ vừa nàng biết điều đó dễ dàng chút nào.

      Phu nhân Lavenham thống trị chồng và con bà bằng ngọn roi sắt. Thực tế là bà mấy hứng thú với con cái. Khi chúng còn bà thấy chúng nhàm chán, khi lớn lên lại thấy vụng về, phiền hà.

      Bà hài lòng là sau hai đứa con mong muốn bà có thể mang đứa con trai và là người thừa tự trình diện với chồng. Nhưng rồi, bà qủa quyết tuyên bố, thành viên gia đình tới đó là đủ.

      Henry giờ ở Eton, đứa bé đẹp trai giống ba y hệt và là cục cưng của mẹ. Vào những dịp lễ mẹ thường đưa nó dạo chung với bà phố Rotten Row. Đó là đãi ngộ đặc biệt mà thỉnh thoảng bà ban cho May, nhưng bao giờ xảy đến cho Susanna.

      Nàng nhận thức đấy chính là vì mẹ cho rằng nàng tầm thường xấu xí và bà bao giờ chấp nhận bất kỳ điều gì toàn hảo có liên hệ với bản thân bà. Điều đó có nghĩa là bà cảm thấy xấu hổ về đứa con thứ nên vì thế Susanna phải lánh mặt thậm chí còn tệ hại hơn cả May.

      Con cái trong nhà được ấn định là được lộ mặt, được lên tiếng.

      Khi họ còn , vào năm giờ là được bảo mẫu đưa xuống dưới lầu vào phòng tiếp tân đúng nửa tiếng. Khách khứa của mẹ tỏ ra vồn vã với họ, rồi đám trẻ được ban cho chiếc bánh quy ngọt. Xong rồi chúng phải ngồi yên trong góc cho đến khi bảo mẫu đến đón và đưa lên phòng trẻ lầu.

      Đấy là thử thách cam go khiến Susanna lúng túng ngượng nghịu thậm chí khi nàng còn rất , nhưng lại là niềm khuây khỏa thể diễn tả khi nàng lớn lên xấu và mập. Mẹ nàng bảo rằng hai đứa con trong phòng tiếp tân nhiều qúa và May phải xuống lầu mình.

      là bất công,” May phản đối dữ dội khi bảo mẫu bắt nàng mặc bộ áo đẹp nhất, “rằng tôi phải xuống dưới lầu còn Susanna được ở lại đây.”

      biết câu trả lời mà,” bảo mẫu đanh giọng đáp lại. “ hãy vâng lời và làm cho bà vui , bằng phải hối tiếc đấy.”

      “Tôi hối tiếc gì hết! Mẹ cần tôi, tôi còn mừng nữa là khác,” May phản bác, nhưng bất kể sao cũng bị bắt xuống dưới.

      Susanna hoàn toàn thỏa mãn khi phải ở lại. Tình trạng cũng tương tự khi họ ở viên trang Lavenham trong Hampshire. Lúc ở miền quê họ cảm thấy hạnh phúc hơn nhiều, được tự do thoát khỏi những ràng buộc cách gì né tránh như ở London.

      Họ có thể cưỡi những con ngựa của mình, chơi trốn tìm trong các bụi dâu dại, hay hái trộm đào trong vườn bếp, và hầu như bỏ mặc những tiệc tùng lớn trong nhà mà mẹ tổ chức, ngoại trừ đôi lúc lén nhìn qua song balcony khi nhà vua tới.

      Có lần có đến ba vị vua ở trong nhà họ cùng lúc, và dù rằng người ta cảm thấy ngưỡng mộ vua Edward có tinh thần ái quốc, nhưng ràng ai cũng thấy vua Tây Ban Nha Alfonso da ngăm, đẹp trai là người hấp dẫn nhất.

      Dẫu ở tuốt lầu ba của chái nhà phía tây nhưng trẻ con vẫn nhận ra cả chấn động khi vị khách mời kín đáo là nhà vua. Biết bao món sở thích của ngài được đặt mua cơ man là nhiều nào là cà tím, bánh quy gừng từ Biarritz, các loại muối tắm, và thuốc hút ống điếu.

      căn phòng trong nhà được biến thành văn phòng bưu điện và điện tín riêng cho nhà vua. Rồi các đường dây được dẫn mười miles tới viên trang Lavenham. Đoàn tùy tùng của nhà vua bao gồm tùng , thư đồng, thư ký, mã phu và trong mùa săn còn có người hầu nạp đạn, ngựa và chó.

    3. lavendervs

      lavendervs Well-Known Member

      Bài viết:
      2,143
      Được thích:
      392
      (1-2)

      Cho dù có đến ba vị vua lưu lại trang viên Lavenham hay , khi Susanna ngắm các vị khách của mẹ xuống dùng bữa tối nàng nghĩ lúc nào họ cũng xuất như đoàn diễn hành hoàng gia.

      Mẹ nàng với vòng eo thon gọn và bờ vai choàng voan mỏng sáng chói với kim cương từ chiếc vương miện khổng lồ được đặt cẩn thận mái tóc gợn sóng cho đến khóa kim cương lóng lánh giầy dạ hội bằng satin.

      Các vị phu nhân sau mẹ nàng qúa đỗi huy hoàng nếu là đẹp lộng lẫy.

      Điều hiển nhiên là mọi qúy ông ở lại với họ đem theo thư đồng, thế nên mọi qúy bà đem theo nữ hầu bê cái tráp da đựng nữ trang lớn có khắc hình mũ miện của chủ nhân.

      Khi vua Edward ngụ trong nhà họ, kim cương, vương miện, vòng cổ, trâm cài áo, hoa tai, và vòng tay dường như đóng khung mỗi vị nữ khách trông gần giống bộ áo giáp của các hiệp sỹ thời trung cổ.

      Mọi người trong nhà, thậm chí trong phòng trẻ đều biết rằng nhà vua muốn nhìn phụ nữ rực rỡ, và lời trách cứ gay gắt của ngài khi nữ quận công Malborough xuất trong bữa tối đeo mỗi cái trâm cài tóc kim cương hình trăng khuyết được thiên hạ thuật lại thiếu mảy may nào.

      Susanna nhìn thấy May mang nữ trang của họ Haven khi chị về thăm nhà với chồng sau đám cưới. Vương miện của chị cẩn kim cương và ngọc bích lục, có vẻ giống chiếc mũ miện, kèm theo vòng cổ cho tương xứng và trâm cài áo hình nơ to tướng mà May đính ngực áo.

      “Chị trông giống nữ hoàng Sheba qúa!” Susanna thốt lên trầm trồ.

      Nhưng rồi thấy vẻ đau khổ lên trong mắt chị nàng hiểu rằng có món nữ trang nào, cho dù lộng lẫy tới đâu, có thể bù đắp những cái chị phải chịu đựng khi ở cạnh hầu tước.

      “Chị... có hạnh phúc hả May?” nàng khẽ hỏi.

      May nhìn vào em nàng nhưng chỉ đăm đăm ngó vào gương như thể nàng thấy bóng mình trong gương nhưng là hình ảnh những năm tháng trước mắt.

      Trong khoảnh khắc Susanna nghĩ chị bỏ qua trả lời. Nhưng rồi chị bằng giọng già giặn lạ lùng:

      “Chị kể được đâu, Susanna. Chẳng có gì để mà , chị chẳng làm được cái gì cả, nên đừng hỏi nữa.”

      Susanna thấy dường như sau đó May có vẻ tránh né nàng cho đến khi chị về với hầu tước trong cỗ xe du lịch sang trọng.

      Nàng hôn chị từ biệt và trong giây phút đó tay nàng cứ níu lấy chị mình như buông chị ra nổi.

      Dù cả hai người hề với nhau lời nào, Susanna biết rằng May rất đau khổ khi phải về nhà với người đàn ông chị ghét nhưng giờ đây lại là người mà chị lệ thuộc.

      “Chuyện đó nhất định xảy ra với mình đâu,” lúc ấy Susanna từng nghĩ như thế.

      Nhưng giờ, đứng tại cửa phòng tiếp tân, nàng cảm thấy như thể nàng nghe được ngày phán quyết cuối cùng.

      Nàng khép cửa rất, rất ư là khẽ, rồi quay trở lại lối mà nàng vừa tới, leo lên cầu thang phía sau nhà về phòng nàng chỗ gần phòng học lầu ba.

      Ở London phòng trẻ này được đổi tên thành phòng học khi bảo mẫu rời và được thay thế bằng nữ gia sư.

      Trong lúc bảo mẫu dường như lúc nào cũng cố định các gia sư lại thay đổi thường xuyên là do họ thích phu nhân Lavenham. Nàng thấy họ bất lực và chưa bao giờ tự dằn được để khỏi phải ra những lời đó.

      “Tôi xin thưa với phu nhân,” trong những giáo lên tiếng có mặt Susanna ở đấy, “nữ bá tước Bresington rất hài lòng với tôi trong suốt mười năm tôi làm việc với bà ấy.”

      Thế là ấy bỏ , cũng như hai giáo kế tiếp. Rồi, theo Susanna nghĩ, phép lạ xảy đến.

      Harding là nhà giáo khôn khéo đủ để biết cách xoa dịu lady Lavenham và thu hút chú ý của học trò và khuyến khích tinh thần nàng.

      May may mắn là chỉ học có năm với Harding trước khi chị lấy chồng, nhưng Susanna được dạy hơn hai năm.

      Đối với nàng, Harding từng là cả khám phá trọng đại vì những có khả năng trả lời những câu hỏi làm cho nàng khó hiểu nhưng còn hướng hiếu kỳ của nàng vào đúng đường lối để nàng có thể tự tìm lời giải đáp cho mình.

      Lady Lavenham chẳng hề quan tâm lấy chút đến giáo dục của những đứa con , ngoài việc họ nên học tiếng Pháp và Ý thông thạo.

      Lord Lavenham thường rằng ông cảm thấy chán khi ở Sandringham bắt buộc phải trò chuyện bằng cả hai ngôn ngữ Pháp và cùng lúc trong suốt bữa ăn, cứ phải đổi hết từ tiếng này sang tiếng khác, có lẽ ngay trong cùng câu .

      Nhưng đối với lady Lavenham đấy như là bản năng thứ hai của bà. Bà nhất quyết rằng tối thiểu hai con của mình phải tinh thông trong lĩnh vực đó.

      Ngoài ra họ học hay học cái gì bà hoàn toàn dửng dưng, ngoại trừ việc họ phải biết trông nom nhà cửa cho khéo, và có thể tổng kết các hóa đơn và viết chi phiếu.

      Việc đó bao giờ tự làm cả, vì bà thuê thư ký vô cùng năng lực để làm những chuyện đó cho bà, nhưng bà bảo mấy con :

      “Nếu các con muốn bị đám gia nhân bất tài hay xảo quyệt lừa gạt liệu mà nắm tiền bạc!

      Trong phương diện này lady Lavenham khác hẳn với các bạn bè đồng song là những người chỉ biết tiêu tiền và rất thành công trong việc tiêu xài!

      Dù thế nào nữa, Susanna phản kháng lại việc giam mình trong các con toán và mớ từ vựng Pháp và Ý. Nàng khởi đầu bằng niềm hứng thú trong lịch sử, nhưng rồi nàng nhận thấy văn chương vô cùng thú vị chứ chỉ như trong tiểu thuyết về thời trang đương thời hay là những mẩu chuyện ngắn nhạt nhẽo xuất các tạp chí phụ nữ.

      Khi đọc sách nàng quên hết mình là con người thất vọng đủ mọi đường với ba và mẹ và với bóng hình nàng trong gương.

      Harding chính là người dạy nàng về nghệ thuật và khiến cho nàng biết thưởng thức các bức tranh treo tường ở nhà nàng và những tấm họ ngưỡng mộ trong phòng triển lãm quốc gia.

      Dạo trước nàng chưa bao giờ nhận ra mẹ mình biết rất ít những cái như thế, và bà quan tâm với cây cảnh trong nhà kính và các loại hoa trồng trong nhiệt độ ấm áp để trang hoàng phòng khách hơn là các trân ngoạn trong nhà được tích tụ bởi các bậc tiền nhân của họ Lavenham.

      Với Susanna đó chính là thế giới mới!

      Nàng và Harding lục lạo trong các hiệu sách tìm cách bộ sách có những phó bản của các bức họa trong các phòng triển lãm lớn của Âu châu như Louvre ở Paris và Uffizi ở Florence.

      Mỗi lần Susanna tìm ra bức họa mình đặc biệt thích, nàng bắt đầu có cảm tưởng như đấy là kho tàng thuộc về nàng và nàng sở hữu nó bằng cách ngôn từ nào có thể diễn tả được.

      Thế rồi, bất ngờ, vào đầu năm lady Lavenham bảo Harding rằng phải rời trong vòng ba tháng.

      Thế là đợi nghe giáo mình giải thích, Susanna ào xuống thang và xông vào phòng riêng của mẹ nàng với thái độ mà nàng chưa bao giờ tỏ ra trước đó.

      “Mẹ a, con nghe rằng mẹ sắp cho Harding nghỉ việc!” nàng hét lên. “Tại sao chứ? Tại sao ấy phải ? Con thể mất ấy được!”

      Lady Lavenham nằm ghế trường kỷ, người mặc bộ trà phục bằng sa mỏng ôm sát vào người, kiểu áo là thời trang cho mọi qúy bà mặc buổi chiều.

      Bộ áo đó theo nàng hiểu rất là thoải mái vì người mặc khỏi phải mặc áo độn ngực thắt dây chặt cứng xiết vào eo.

      Nhưng nàng qúa ngây thơ nên hiểu là bộ trà phục thực ra được chế tác cho lý do hoàn toàn khác.

      Tuy nhiên nàng cũng nhận thức được khi mẹ nàng ở London, nhà vua và đôi khi các qúy ông khác thường đến thăm vào giờ giấc rất riêng tư mà ai dưới bất kỳ tình cảnh nào có thể quấy nhiễu bà.

      May mắn là khi họ về quê, lady Lavenham ở mình vì bà tiếp khách cho mãi đến ngày hôm sau.

      “Làm ơn đừng có lao vào phòng mẹ bằng thái độ thô lỗ như vậy,” lady Lavenham bằng giọng lạnh như đá thường làm cho con bà run rẩy.

      Nhưng lúc đó Susanna qúa bực bội nên cảm thấy gì khác ngoài phẫn nộ.

      “Vì sao mẹ lại bảo Harding ?” nàng gặn hỏi.

      “Con còn ngu ngốc hơn thường ngày nữa!” lady Lavenham đáp lại. “Tóc tai con bù xù và mẹ còn thấy có vết mực dính áo con nữa.”

      “Con hỏi mẹ đấy!”

      “Thế mẹ chỉ có thể giải thích tách bạch rằng,” lady Lavenham đáp lại, “rằng con mười tám, thực tế là hầu như qúa lớn để coi như thiếu nữ đến tuổi cập kê, nếu vì chuyện con phải để tang trong mùa lễ hội năm ngoái con được ra mắt rồi.”

      Susanna tròn mắt nhìn bà.

      “Nhưng cái đó có nghĩa là Harding phải ?”

      đương nhiên rồi! Con cần gia sư nữa khi con ra mắt, và mẹ cầm bằng là dù có nản đến đâu mẹ cũng phải tháp tùng con khắp mọi nơi.”

      Từ thái độ mẹ nàng còn nghi ngờ gì nữa, lady Lavenham thấy nhiệm vụ đó là hết sức nhàm chán. Rồi bà gằn giọng thêm trước khi Susanna kịp lên tiếng.

      “Vì Chúa, lên lầu chải chuốt lại xem cho được . Có Chúa mới biết nhìn con như thế này biết đến chừng nào mẹ mới phủi tay với con được đây.”

      Trong khoảnh khắc Susanna chỉ đứng ngó mẹ mình chăm chăm, rồi khi máu dồn lên mặt đỏ ửng nàng quay bước ra khỏi phòng.

      Lên đến lầu, nàng vào phòng và ngồi giường, cảm tưởng như thể toàn thể thế giới đổ ụp lên đầu mình.

      Nàng đúng là khờ, nhưng nàng quên mất rằng nàng phải ra mắt và có người đưa cũng như May từng làm, hết dạ vũ này đến dạ vũ khác, buổi tiếp tân này đến buổi tiếp tân khác. Nàng biết mình ghét từng giây từng phút những cái dịp đó.

      Nàng có thể làm được gì khác đây, khi biết mẹ mình xấu hổ vì mình và rằng có người đàn ông nào chịu nhảy với nàng trừ phi là bị ép buộc.

      là ngu mà, nàng chưa khi nào để ý rằng vì phải ra mắt mà nàng đành mất Harding.

      Trong hai năm vừa qua nàng hạnh phúc hơn bao giờ hết, nhưng giờ đây nàng biết nàng phải thấy là mình sống trong thiên đường của những kẻ khờ khạo, vì lẽ ra nàng phải ra mắt vào mùa hè trước.

      Năm ngoái thể nào vì bà nàng qua đời và họ có đại tang, cái dịp mà làm cho mẹ nàng trông xinh đẹp lộng lẫy nàng lại nhìn giống như con qụa đen mập ú!

      Nhưng bây giờ, mười tám tuổi, nàng phải lộ mặt ra ngoài xã hội, và nàng cũng đủ thông minh để hiểu rằng dựa quan điểm của mẹ nàng cũng như nàng là lần ra mắt này thảm họa!

      Ý tưởng đó hãi hùng đến nỗi Susanna lại tìm gói kẹo mà nàng mua ở tiệm trong làng và dồn hết phát vào miệng.

      “Tôi nhìn kinh khủng lắm và cảm thấy tệ hơn nhiều,” nàng tự nhủ, “khi Harding rồi, tôi còn có ai để chuyện, có ai quan tâm đến bất cứ cái gì tôi nghĩ hay muốn bàn luận cả.”

      Rồi, như thể mọi chuyện lướt êm ái trong chuyến xe lửa tốc hành, các chương trình được đề ra, nhà ở London được mở lại, họ rời miền quê, và là dịp cho Harding lời từ biệt.

      Vào đêm trước khi , Susanna khóc cho đến khi nàng thể nào khóc nổi nữa.

      em biết phải làm gì đây?” nàng vừa hỏi vừa khóc nức nở. “ là người duy nhất đối xử với em như em là người thực . Khi rồi em chẳng còn ai nữa!”

      lòng mà , Susanna,” Harding lặng lẽ , “ cũng thể dạy em thêm chút nào nữa.”

      Susanna ngạc nhiên đến độ nàng ngưng khóc và nhìn giáo mình chăm chăm, nước mắt vẫn nhòa má.

      “Là đấy,” Harding . “Đến giờ em phải nhận ra rằng em rất thông minh, qúa thông minh đối với cuộc sống em sống sau này.”

      “Nhưng em ... phải... sống đời sống đó,” Susanna trả lời.

      cho rằng em phải sống thế thôi,” Harding thở dài, “với sinh ra trong vị trí xã hội như em chẳng còn lựa chọn nào khác. Nhưng cuộc sống đó đâu bắt em được có tư tưởng, đọc sách và phát triển đâu.”

      “Cho cái gì cơ chứ?” Susanna cay đắng hỏi.

      “Cho bản thân em.” Harding đáp lại.

      ngưng lát như để lựa lời đoạn tiếp.

      “Có người tuyệt đối hạnh phúc với vòng sinh hoạt xã hội, trong hưng phấn ngày hôm sau họ mở những buổi tiệc càng lúc càng lớn hơn cái mà họ tham dự hôm qua, nhưng cho rằng em khác với họ.”

      “Em mong là thế,” nàng thầm.

      đoan chắc như thế,” Harding , “vì thế nghĩ rằng, Susanna, lúc nào em cũng có thể tìm chân trời mới cho chính em. Nếu em thể thực tất cả mọi điều em muốn làm, ít ra em cũng có thể làm trong trí tưởng tượng của mình.”

      Susanna chắp hai tay lại.

      “Nhưng... có ở đó để... giúp em.”

      Harding ngưng lát trước khi tiếp lời.

      luôn luôn tin rằng khi chúng ta muốn điều gì, và đến lĩnh vực tinh thần chứ phải là vật chất, thế nào cũng có người ở đấy để hướng dẫn và trợ giúp chúng ta. Nếu phải là người là sách vở, nhạc, hoặc lời cầu nguyện, chúng ta bao giờ hoàn toàn bị bỏ mặc đâu.”

    4. lavendervs

      lavendervs Well-Known Member

      Bài viết:
      2,143
      Được thích:
      392
      (1-3)

      Susanna lặng thinh hồi rồi nàng .

      “Em hiểu lời , nhưng điều đó rất, rất khó, và dường như em thể tìm ai trong số bạn bè của mẹ để giúp em.”

      Harding cũng nghĩ tương tự nhưng biết như thế nghe có vẻ trung thực. Thay vì thế trả lời.

      “Em phải tự tin Susanna. Em phải tìm con đường của chính mình, hãy chọn hướng của riêng em, bởi vì hiểu em, biết rồi đây em làm cho mình thất vọng đâu.”

      “Hay là nữa,” nàng khẽ khàng thêm.

      nghĩ đến em,” Harding , “và để cho em biết, chưa từng thương người học trò nào hơn hay đặt kỳ vọng cao như thế đâu.”

      Lời của khiến Susanna lại rơm rớm nước mắt, nhưng giờ đây đó phải là những giọt lệ tuyệt vọng mà là mừng rỡ vì trước đây chưa có ai khen nàng như thế cả.

      Khi Harding rời khỏi, Susanna lại khóc vì nàng thể đè nén nỗi đau khổ của mình. Nàng cảm thấy như thể mình bắt đầu cuộc sống mới nhưng hề biết tí gì.

      Lady Lavenham dẫn nàng đến London sớm hơn thường lệ vì Susanna cần trang phục mới.

      Mỗi sáng họ lái xe đến các cửa tiệm và theo Susanna là tốn hàng giờ dài dằng dặc, mệt lả cả người để chọn vật liệu, thử áo, và mua giày, găng tay, dù che nắng, nón, và nội y bằng cái kiểu mà nàng có cảm tưởng cứ như mình được trang bị cho buổi trình diễn dài những hai mươi năm.

      “Ít ra mẹ cũng phải cố làm cho con coi cho được,” mẹ nàng đanh giọng khi Susanna nêu ý kiến là nàng có qúa nhiều áo dự tiệc.

      Rồi bà thêm.

      “Ba con là mẹ có thể tiêu tùy thích, vì thế cứ thử hại gì đâu và phải tỏ ra biết ơn, cho dù may là chúng ta thể thay đổi gương mặt hay vóc dáng của con!”

      Cứ mỗi lúc ở riêng với mẹ nàng khiến cho Susanna càng cảm thấy mình tầm thường, vô nghĩa. Nàng thấy được cách biệt giữa họ phản chiếu mỗi cửa sổ của cửa tiệm.

      điệu trong giọng của bạn bè mẹ nàng khi họ gặp những người đó phố Bond hay trong các cửa hiệu rất ư là khôi hài nếu là xúc phạm.

      “Daisy thân!” họ thốt lên. “Chị là đẹp, giống như gió xuân vậy! Ồ! Còn đây là Susanna sao?”

      Lúc nào họ cũng ngập ngừng trước khi đến mấy chữ cuối, ngập ngừng mà Susanna biết ám chỉ rằng họ ngạc nhiên hay thậm chí sửng sốt chút trước diện mạo của nàng.

      Nàng cũng biết những người thợ may nghĩ rằng may đồ cho nàng chỉ là phí thời gian thôi, ngoại trừ các tấm hóa đơn chất chồng càng lúc càng cao để họ cố ra sức làm cho nàng trông thu hút.

      Họ tròng áo nịt có gắn khung xương rồi thắt dây cho đến khi nàng suýt tắt thở. Nàng phải thử những tấm áo chẽn, được thêu thùa, viền tua, hoặc trang hoàng với các nếp xếp tổ ong, như dù áo có kết đường viền như thế nào nữa, hiệu qủa vẫn giống nhau – nàng vẫn đơn giản là mập.

      Các thợ làm tóc đến nhà để thử các kiểu tóc mới cho nàng.

      Khi mẹ nàng kiểm tra thành qủa của họ đương nhiên họ đem lại chút ít khác biệt, và nhún vai như ngầm bảo họ mong có đủ can đảm để trắng ra rằng họ phải làm việc với mớ vật liệu vô phương cứu vãn.

      Thử áo rồi lại thử áo! Hết vào tiệm này rồi lại ra tiệm kia!

      Trong tháng chót Susanna chả làm được chuyện gì khác, và lúc này gần cuối tháng ba và phòng tiếp tân đầu tiên tổ chức tiệc là vào khoảng đầu tháng tư.

      Nàng thấy mình ngồi đếm ngày cho đến khi mùa hội chấm dứt và họ có thể vê quê. Ở đó nàng có cơ hội cưỡi ngựa và phải đứng hàng giờ trong các hiệu may ngột ngạt! Nàng dạo trong vườn cần mẹ nàng chung hay quản gia kèm khi lady Lavenham bận việc.

      Nàng nhớ Harding qúa đỗi.

      Vì nàng cảm thấy làm như thế Harding hài lòng, bất cứ khi nào nàng ra ngoài với ai ngoại trừ mẹ nàng, thế nào nàng cũng khăng khăng đòi dừng lại tại hiệu sách đường về nhà. Các chồng sách trong phòng ngủ của nàng cao thêm lên mỗi ngày, nhưng tìm được thời gian để đọc hết qủa là khó. May làm sao cho đến lúc ra mắt, nàng được phép xuống tham dự các buổi tiệc ăn tối và chỉ xuống lầu khi ba mẹ nàng ở riêng hay ngồi chung với họ hàng.

      Rồi khi họ trò chuyện, tán gẫu Susanna ráng hiểu những chuyện họ và gắn nhân vật thích hợp vào mấy câu chuyện tai tiếng mà họ thấp giọng xì xào với nhau. Nàng nghĩ nghe mấy cái lời gièm pha đó giống như nghe tiếng nước ngoài vậy và chỉ hiểu được phân nửa những cái họ . Cảm tưởng này sao khá giống như đọc phải quyển tiểu thuyết viết tệ ơi là tệ.

      Cái tin Isobel mất Henry, chàng chầu chực bên ấy hơn cả năm có lẽ thú vị hơn nếu Susanna biết được ai là Isobel ai là Henry. Rồi chuyện Bertie tham dự chuyến săn thú lớn bởi vì ngày kia ông ta về nhà bất chợt và khám phá ra cái điều mình nghi ngờ từ lâu nàng hoàn toàn hiểu thấu!

      “Ôi! Cuộc sống ở Lavenham! nàng cứ tự với mình hết lần này đến lần khác.

      Cứ nghĩ đến ánh nắng soi mặt hồ, hương thơm của rừng cây, và làn sương lam giăng mắc các ngọn đồi y như giọt nước đối với người chết khát sa mạc.

      Giờ đây, lòng dạ tan nát, hãi hùng, nàng biết mình thể nào về nhà nữa. Rồi đây nàng lấy quận công, cũng như May, bị lưu đày ra khỏi mọi cái nàng từng quen thuộc, mọi cái mà ít ra mang ý nghĩa là an ổn của nàng trong thế giới riêng bé của nàng.

      là qúa đáng! Tôi cách nào đương đầu với viễn cảnh đó! Tôi nhất định kết hôn với người chỉ muốn tiền bạc của tôi!” Susanna tự nhủ.

      Dù gần như quên bẵng nàng biết mẹ đỡ đầu của nàng để lại gia tài cho nàng khi nàng lên mười tuổi.

      “Susanna! Tại sao là Susanna chứ?” lúc đó mẹ nàng cứ hỏi cách cáu kỉnh.

      Nhưng rồi khi lớn lên nàng hiểu ba mình giám quản tiền của nàng và vẫn tiếp tục như thế cho đến lúc nàng lập gia đình. Chuyện đó dường như chẳng có hứng thú đặc biệt nào cả.

      Lord Lavenham là người rất giàu có và rộng rãi. Mẹ nàng có tất cả mọi cái bà muốn, dù chi phí các buổi tiệc khi họ chiêu đãi khách ở trang viên Lavenham chắc cũng lên tới con số thiên văn như ông bao giờ phàn nàn. Thường thường tiệc có đến ba mươi khách, cùng với sáu mươi người hầu của họ và nguyên cả đoàn gia nhân khổng lồ của gia đình trong ngôi nhà lớn kiểu Gothic có các ngọn tháp, máng xối, và cơ man các công trình bằng đá được bổ sung vào thời ông nội nàng còn sống.

      Tòa nhà đó chẳng có thẩm mỹ gì cả, Susanna biết, nhưng đấy chính là tổ ấm của nàng và nàng thương nó.

      Còn bây giờ, vì có gia tài nàng phải trở thành nữ quận công, và sống ở nơi khác và mẹ nàng hài lòng với nàng lần đầu tiên trong đời bà!

      Phòng học lầu dạo này dường như luôn trống vắng vì Harding , Susanna lao xuống ghế trước lò sưởi. Tất cả những cái nàng thấy được trong lúc này là nét mặt buồn bã của May và nghe được giọng đau khổ của chị.

      Nàng phân vân tự hỏi biết nàng có nên gặp May và xin lời khuyên của chị , nhưng nàng biết nếu May có khả năng ngăn cản hôn nhân của chính mình với người mà chị ghét bỏ, chị hoàn toàn bó tay với hôn nhân của em mình.

      “Tôi có thể làm gì được đây?” Susanna tự hỏi mình, và tâm trí nàng lóe lên hình ảnh Harding.

      Giá mà nàng có thể gặp , chuyện với , nàng biết thông cảm. Nhưng Harding chỉ viết thư cách đây hai ngày bảo rằng tìm được việc làm trong nhà nữ quận công Northumberland, thế nên lên mạn bắc.

      “Tôi phải suy nghĩ xem ,” Susanna tự nhủ. “Tôi phải suy nghĩ cách bình tĩnh và lý trí làm thế nào để ngăn cản chuyện này xảy ra cho tôi.”

      Nàng có cảm giác như thể bước con đường thẳng tắp hề có bảng cảnh cáo nào và thình lình phát hố sâu khủng khiếp ngay trước mắt mình.

      “Tôi nên hốt hoảng,” nàng tự với mình. “Chỉ cần tìm cách để thoát ra thôi.”

      Tuy thế nàng biết chuyện đó chỉ là hy vọng mong manh. Làm thế nào mà nàng có thể chống lại ý muốn của mẹ nàng. Chắc chắn bà tạo áp lực cho quận công để thực những cái bà sách hoạch vì ta cần tiền.

      Ngoài chuyện đó ra, bà lúc nào cũng có kế sách tối hậu là nhà vua!

      Susanna từng nghe những mẩu chuyện rằng nhà vua giúp các bạn bè đặc biệt gả con họ cho những nhân vật danh giá cách xuôi chèo mát mái.

      “Em thưa với hoàng thượng,” Susanna nghe mẹ mình từng khi trước, “ ‘Ngài rất là minh khéo léo, nên làm ơn hãy giúp Vera gả con cho bá tước Bexley . Ngài biết là ông ta làm bất cứ điều gì ngài bảo mà. Ngài chỉ lời thôi là mọi chuyện khác hẳn.’ ”

      “Rồi hoàng thượng trả lời ra sao?” Lord Lavenham hỏi.

      “Tất nhiên là ngài rất vui vì em nhờ ngài giúp rồi.” Mẹ Susanna trả lời. “Ngài khá là thích thấy mình như là thần tình mà. phải công nhận là ngài thành công trong biết bao là vụ rồi nhé!”

      “Gần như có ai đủ gan dạ để từ chối hoàng thượng bất cứ cái gì ngài thích cả,” lord Lavenham đáp lại có vẻ châm biếm.

      Susanna biết mẹ nàng ngần ngại nhờ nhà vua giúp nếu dự tính của bà gả Susanna cho quận công xuôi buồm thuận gió.

      “Thế là tôi phải lấy chồng cuối mùa hội này!” Susanna thầm và kêu lên nho .

      “Tôi bỏ ,” nàng tự bảo, “tôi trốn ở đâu đó.”

      Nếu nàng thực phải bỏ trốn, may là nàng có khá nhiều tiền. Nàng cũng chưa khi nào gặp khó khăn khi hỏi thư ký của mẹ nàng lấy tiền mặt để mua sách ở những cửa tiệm nàng có tài khoản.

      Nàng cũng thấy từ khi đến London nàng thích mang theo tiền trong ví để cho vô số kẻ ăn xin chìa những cánh tay giơ xương lề đường trong lúc nàng băng ngang đường từ các tiệm may sang trọng đến chỗ cỗ xe ngựa xa hoa của ba mình.

      “Họ có qúa ít ỏi trong lúc mình lại có nhiều tiền,” nàng tự nhủ.

      Rồi sau lưng mẹ, nàng lén lút ấn đồng vàng vào bàn tay dơ bẩn nào đấy và biết rằng dựa nét rạng rỡ ngơ ngác trong cặp mắt mờ đục của người phụ nữ đó nàng trao niềm hạnh phúc thoáng qua, chỉ là trong khoảnh khắc mà thôi, cho người vô cùng xấu số hơn mình.

      “Nhưng nếu tôi bỏ , tôi thể cứ ngồi chỗ làm lụng gì,” giờ đây nàng nghĩ ngợi. “như vậy được.”

      Nàng mơ hồ nghĩ rằng nàng thuê căn phòng ở chỗ nào đó và ngồi đọc sách cả ngày. Nhưng rồi nàng biết đó phải là giải pháp cho vấn đề của nàng, dù nàng chưa biết phải làm thế nào.

      chiếc ghế đẩu trước lò sưởi bên cạnh ghế của nàng có số báo chí.

      Cha nàng đặt mua báo “The Times” và “Morning Post” và hay đọc vào lúc ăn sáng. Sau đó gia nhân lại đem báo vào thư phòng của ông, nơi mà ông đọc vào ban tối nếu có thời giờ trước khi ăn tối.

      Susanna biết nếu nàng lấy báo trước khi ông đọc xong gây ra nhiều nghi vấn, vì thế nàng với người hầu mang lên lên phòng học vào sáng hôm sau.

      Tuy báo cũ mất ngày nhưng thành vấn đề, vì cũng chẳng có ai bàn luận tin tức với nàng hay cần nàng quan tâm đến bất cứ điều gì khác mà dính líu đến y phục hay là người.

      Lúc này nàng cầm lên tờ Times ra ngày hôm qua và tự hỏi nếu nàng có thể tìm việc làm nào đó, phải vì nàng cần tiền nhưng chỉ để giết thời giờ.

      “Có lẽ tôi có thể làm trong thư viện,” nàng thầm nghĩ.

      Rồi nàng nhớ rằng mình có thể bị bắt gặp bởi chính những người mà mình muốn tránh.

      Công việc mà nàng thực tình thích làm là trong phòng triển lãm nghệ thuật, dù nàng có cảm giác thoải mái là trong tất cả các phòng triển lãm mà nàng từng tham quan, các nhân viên luôn luôn là đàn ông.

      “Tôi có thể làm gì đây?” nàng lại tự hỏi, và nghĩ rằng mình thực trửng giỡn với vấn đề này.

      “Tôi nhất định lấy quận công đâu!” nàng lớn tiếng kêu lên.

      Nhưng nàng nghĩ giải pháp nằm trong việc bỏ mà là đương đầu với ba mẹ và cho họ biết nàng có muốn lấy người mình .

      Tuy vậy khi ý tưởng đó lên trong tâm trí, nàng biết trông dáng điệu nàng như bây giờ ai nàng cả, và trong xã hội của mẹ nàng tình trò tiêu khiển chỉ xảy ra sau khi kết hôn chứ phải trước đó.

      “Con có thể làm gì? Ôi Chúa ơi, con có thể làm gì đây?” Susanna tự hỏi.

      Nàng đặt tờ Times đầu gối. tìm công việc hề hữu ngoại trừ trong trí tưởng tượng của nàng có ích gì đây?

      Rồi trong lúc nhìn mông lung vào tờ báo, lòng phân vân biết còn cách nào khác có thể giúp được nàng, nàng chợt thấy mục đăng đầu cột báo “Tìm người”

      Nàng đọc đoạn báo đó mà hầu như để tâm xem nó cái gì vì tâm trí nàng lan man ở tận đâu đâu.

      “Cần người đọc sách cho người mù tạm thời. Sẵn sàng ra nước ngoài, thông thạo cả tiếng Pháp và Ý. Nộp đơn từ mười giờ cho đến mười hai giờ trưa tại số 96 đường Curzon.”

      Susanna đọc lại mục đăng hầu như trước khi nó ngấm vào trí óc nàng. Bản tin đó cho nàng biết đây là việc nàng có thể làm.

      Nàng chắc chắn có thể đọc thông thạo hai ngôn ngữ Pháp và Ý; thế rồi hàng chữ khác lóe lên trong đầu nàng.

      “Sẵn sàng ra nước ngoài.”

      Nếu nàng ở ngoại quốc, mẹ nàng thể nào tìm ra nàng. Nàng phải gặp quận công và vì thế bị ép hôn.

      Nàng đọc tin quảng cáo lần nữa. Đúng là điên mà, nàng tự nhủ – đương nhiên là nàng làm được việc đó mà!

      Thế rồi lời của Harding vọng lại với nàng.

      “Lối thoát đến khi mình cần nó.”

      Lối thoát mà nàng muốn là đây! Làm sao nàng có thể ngu ngốc chối từ nó khi nó ở đó đợi nàng, mời mọc nàng cơ chứ?

      Nàng cảm thấy tim mình đập khá nhanh và đứng lên đến cửa sổ.

      Trời mưa. Những mái ngói của các căn nhà như trải dài đến vô tận, trông xám xịt ảm đạm.

      “Đó là tương lai cho tôi,” Susanna tự nhủ, “trừ phi tôi có thể tìm cách tránh né nó.”

      Đột nhiên nàng quyết ý.

      “Tôi tới 96 đường Curzon,” nàng bảo mình. “Nếu họ nhận tôi, đây là cứu cánh, là bàn tay cứu giúp tôi đợi. Nếu bị từ chối, tôi phải nghĩ đến phương pháp khác!”

    5. lavendervs

      lavendervs Well-Known Member

      Bài viết:
      2,143
      Được thích:
      392
      CHAPTER 2
      (2-1)

      Susanna leo lên bậc tam cấp của số 96 đường Curzon, nàng thấy đấy là tòa nhà cao có ấn tượng mạnh mẽ.

      Người gia nhân theo nàng từ trang viên Lavenham rung chuông rồi lui lại.

      “Đợi tôi ở ngoài nhé James,” Susanna dặn dò. “Tôi vào chỉ phút hay có thể lâu hơn cũng chừng, tôi biết chắc lắm.”

      “Vậy được à,” James đáp lại.

      ta là thanh niên trẻ ở quê ra, và Susanna mừng rằng khi đến phiên trực nàng xuống lầu để thảo kế hoạch bỏ nhà trốn .

      Mẹ nàng bao giờ ngủ dậy sớm còn cha nàng ăn sáng xong và có lẽ ra ngoài rồi. Vì thế nguy hiểm độc nhất bao gồm bà Dawes, là người quản gia. Bà ấy lấy làm lạ nếu nàng rời nhà mình và thế nào cũng mách mẹ nàng ngay lập tức.

      Vậy nên Susanna quyết định cách duy nhất nàng trả lời tin quảng cáo là chung với gia nhân. Nàng mong rằng James ra trực, và khi xuống tới hành lang nàng bảo ta.

      “Tôi phải đem bức thư đến đường Curzon và nhân tiện buổi sáng trời đẹp tôi cũng thích tản bộ. cùng với tôi nhé?”

      “Ồ được mà . Tôi nhắn George đứng gác cửa.”

      ta vội lao xuống phòng để thức ăn và quay lại với chiếc nón cao để chung với bộ sắc phục.

      Màu hiệu của họ Lavenham là xanh đen và vàng, ở chiếc áo gilet kẻ sọc của ta và huy hiệu của Lavenham đóng những hột nút lớn của áo choàng. Susanna thầm nghĩ bên cạnh nàng ta trông rất lịch , và có người bạn nào của mẹ lấy làm lạ là nàng lại chung với nam gia nhân thay vì nữ hầu lớn tuổi.

      Nếu thậm chí nàng quãng ngắn đến đường Curzon mình có điều tiếng gì đây, vì nàng cũng hay như vậy trước đây mà. Nàng thích ở quê hơn biết bao, chỗ đó nàng có thể khắp nơi tùy thích mà cần có người tháp tùng.

      Hôm nay trời trong, gió lùa ào ạt làm cho Susanna tay này giữ chặt áo choàng viền lông tay kia giữ nón. khí dường như thoáng hương vị phiêu lưu khiến cho nàng cảm thấy mình chẳng làm chuyện gì tầy đình cả nhưng chỉ khởi đầu chuyến thám hiểm thôi.

      Rồi nàng nhắc mình phải biết lý lẽ rằng biết đâu vị trí đó có người trám vào rồi. Suy cho cùng, tờ báo Times nàng đọc trễ mất ngày và có lẽ hàng trăm người ùa tới nộp đơn cho quảng cáo hấp dẫn như thế và trong số ấy có người được nhận.

      “Ai mà muốn ra nước ngoài cơ chứ?” Susanna lại tự hỏi mình.

      Thuở trước nàng được Rome lần với ba mẹ khi họ đến thăm hoàng tử và công chúa Borghese. Hai người này cũng có con trạc tuổi với Susanna. Đối với Susanna đó là trải nghiệm hết sức vui thú, và con cái nhà Borghese chỉ cho các vị khách quốc quang cảnh của Rome với thái độ tự hào có phần trịch thượng, ngầm bảo phong cảnh này còn đặc biệt hơn bất cứ cái nào mà bên làm ra được. May thích thái độ của họ nhưng Susanna buồn để ý tới. Nàng bỏ ngoài tai mọi điều các vị chủ nhà Ý khi họ được đưa vòng quanh tàn tích của đấu trường, vì nàng từng hình dung đấu trường nhìn ra sao lúc mới xây.

      Các hoàng đế La Mã từng ngự ở đấy vô cùng đường bệ để theo dõi các màn giao chiến của các đấu sỹ, và nàng hình dung ra họ trong các bộ áo thụng uyển chuyển, đầu đội vòng lá trường xuân được hộ tống bởi các binh sỹ mặc sắc phục oai vệ theo kiểu lính lê dương La Mã.

      Nàng quá đỗi mơ mộng suốt thời gian ở Rome cho đến khi bị mẹ mắng là thứ ngớ ngẩn, tẻ nhạt.

      “Con phải biết học cách ăn chứ Susanna,” mẹ nàng sắc giọng. “ cần biết là con cái gì nhưng phải cố bắt chuyện . Ai cũng cho con là thứ dở hơi ngốc nghếch cả, còn mẹ nghĩ sẵn như thế rồi, cứ nhìn cái kiểu con ngồi đờ ngó quanh quất và chẳng mở miệng ra câu nào đủ biết.

      Nàng đâu thể nào với mẹ là nàng chu du về qúa khứ, nhưng nàng tâm với Harding là Rome ảnh hưởng nàng rất sâu xa, và giáo nàng thấu hiểu.

      Cánh cửa trước mặt nàng mở ra khiến Susanna thoáng giật mình.

      người hầu đợi nàng lên tiếng và sau khi do dự chút nàng giọng hy vọng James nghe trộm.

      “Tôi... tôi đến theo... tin quảng cáo.”

      ta nhìn có vẻ ngạc nhiên, nàng nghĩ nguyên do ắt hẳn là chiếc áo choàng viền lông trông qúa sang trọng đối với người cần việc làm. Nhưng nàng chẳng có món nào khác để mặc, vì mẹ bắt nàng phải bỏ hết quần áo cũ trước khi đến London.

      “Lối này thưa .”

      Susanna theo ta vào tiền sảnh lớn sàn lát đá cẩm thạch rồi lên thang lầu uốn vòng dẫn đến lầu . Người hầu mở cửa và nàng được đưa vào phòng khách tuyệt đẹp trông ra vuông sân giữa sau lưng của tòa nhà được chuyển thành vườn hoa dù giấc này hãy còn sớm mới tới mùa hoa nở.

      “Mời ngồi,” hầu mời mọc rồi để nàng lại ở đó.

      Susanna nhìn quanh căn phòng. Phòng được bày biện theo kiểu phái mạnh, với những chiếc ghế bành thoải mái thay vì loại ghế mô phỏng theo kiểu Pháp thế kỷ thứ mười tám được thấy trong hầu hết các phòng khách ở London.

      Susanna thấy hai bức họa tường mang trường phái Ý vào thời kỳ đầu. Nàng muốn lại ngắm kỹ hơn nhưng lại sợ có người vào và thấy nàng lung tung trong phòng, họ nghĩ rằng nàng tò mò hoặc có lẽ thất thố cũng nên.

      Cửa phòng mở và người đàn ông lớn tuổi bước vào. Tóc ông ta có lẫn ánh xám và mắt lộ vẻ mệt mỏi như thể vừa làm việc vất vả xong.

      Khi ông bước về phía nàng Susanna đứng dậy.

      “Chào ,” ông , “tôi hiểu đến theo lời quảng cáo báo Times.”

      “Thưa đúng vậy,” Susanna trả lời. “Nhưng có lẽ ông tìm được người thích hợp rồi chăng?”

      “Thực ra chúng tôi phỏng vấn số nhân tuyển, nhưng họ thông thạo cả hai thứ tiếng Pháp và Ý như chúng tôi đặc biệt cầu.”

      “Tôi được hai thứ tiếng.”

      “Trước khi chúng ta mất thêm thời gian, có lẽ nên làm trắc nghiệm . có đồng ý ?”

      “Vâng được,” Susanna chấp thuận.

      “Vậy làm ơn với tôi, tôi nhờ đọc vài trích đoạn cho người mà chưa được gặp, nhưng họ nghe .”

      Susanna đáp lại và sau lúc người đàn ông .

      “Tôi e là sơ xuất vì chưa tự giới thiệu. Tên tôi là Chambers và tôi là thư ký riêng cho qúy ông bị thương trong tai nạn xe hơi.”

      Cái cách ông ta những chữ cuối khiến Susanna tự động buột miệng.

      “Tôi rất tiếc.”

      “Tôi hiểu đây là thảm kịch với thanh niên trẻ khi biết rằng mình có thể mất thị giác hoàn toàn.”

      “Quảng cáo của ông đăng là ‘mù tạm thời’” Susanna khẽ.

      “Chúng tôi hy vọng thế,” ông Chambers , “nhưng tôi thể giải thích tất cả mọi chuyện với sau. có thể cho tôi biết tên ?”

      “Vâng được,” Susanna đáp lại. “Tôi là...”

      Thình lình nàng sực nghĩ trước khi tên mình là nên tiết lộ thân phận của mình. Ông Chambers và chủ của ông có thể nghe đến ba nàng, và họ của nàng là Lavenham rất dễ để liên kết hai cái tên này lại.

      “Tên... tôi,” nàng lên tiếng, “là Susanna... Brown.”

      Đó chính là cái tên vừa lên trong trí nàng và thậm chí khi ra nàng ước phải chi mình giàu óc tưởng tượng thêm tí nữa.

      “Làm ơn theo tôi Brown.”

      Ông Chambers mở cửa và họ quãng ngắn dọc theo hành lang trước khi vào căn phòng khác. Phòng này và có cánh cửa khác thông ra lối khác mà Susanna đoán ngay là dẫn vào phòng ngủ lớn hơn.

      Nàng hoàn toàn khẳng định căn phòng họ đứng với tường được trang hoàng với giấy dán đẹp và màn cửa bằng vải màu in hoa, từng là phòng trang sức.

      Còn giờ cái bàn và hai chiếc ghế êm ái, chiếc kê rất gần cửa nối hai phòng. Nàng lấy làm ngạc nhiên khi ông Chambers đưa tay chỉ và .

      “Làm ơn ngồi ở đây Brown, và đợi chút.”

      Susanna ngồi xuống ghế và ông Chambers ngang qua cửa nối. Nàng nghe giọng ông nho với ai đó trong phòng bên kia, nhưng nàng nghe thấy tiếng trả lời.

      Rồi ông ta quay lại và đưa cho nàng bản sao của báo Morning Post.

      làm ơn đọc phần xã luận,” ông , “ cần phải lớn hơn bình thường.”

      Ông lại ngược lại vào căn phòng kia. Cảm thấy hơi lo lắng, Susanna mở tờ báo và tìm mục xã luận đăng ngay trang giữa.

      Nàng lo ngại là mình đọc lớn tiếng, chỉ là cái tình cảnh mà mình lâm vào.

      Harding luôn luôn là đọc lớn là cách tốt nhất để duyệt lại những bài văn nàng viết số chủ đề khác nhau.

      “Khi đọc lớn người ta cảm giác được nhịp điệu của cái mình viết.” từng dạy Susanna như thế. Họ cũng hay đọc các vở kịch của Shakespeare cho nhau nghe, Harding đóng vai này trong khi Susanna lấy vai kia. Sau đó họ tiến đến Chuyến Hành Hương của Childe Harold, những bài này Susanna rất thích vì nàng cảm thấy những đoạn thơ của Byron cấy hình ảnh vào tâm trí nàng.

      Bài xã luận nàng phải đọc là bài cảnh giác về những nỗ lực liên tục của người Đức nhằm xây dựng hệ thống hải quân quy mô hơn của người , và về cuộc công kích vào tình trạng thờ ơ của những nhân vật trong thượng nghị viện, những người trì hoãn trong việc đặt làm những tàu chiến tân tiến mà hải quân cần.

      cám ơn Harding, Susanna mới phát hoàn chỉnh, và giọng nàng, dù nàng chưa bao giờ để ý trầm hơn hầu hết phụ nũ và nghe rất du dương.

      Khi đọc xong bản xã luận, nàng gấp tờ báo lại như cũ trong lúc đó ông Chambers vào phòng.

      Ông mỉm cười với nàng như thể trấn an và đưa cho nàng quyển sách. Nàng đón lấy và thấy đó là bài Candide của Voltare mà nàng từng đọc với Harding. Nàng có cảm giác như gặp lại bạn cũ.

      “Cứ đọc bất cứ đoạn nào thích,” ông Chambers rồi lại để nàng ngồi mình ở đấy.

      Nàng mở sách, chọn đoạn luôn luôn làm cho nàng thấy thú vị, và đọc bằng giọng duyên dáng của người Paris mà mẹ nàng cho là rất thiết yếu.

      Khi nàng đọc được nửa trang ông Chambers xuất .

      Susanna ngẩng lên nhìn ông, phân vân biết ông ta nhận định rằng nàng hữu dụng và muốn phí thêm thời gian hay chăng. Trước khi nàng kịp lên tiếng ông lại chìa cho nàng cuốn sách khác đoạn .

      “Tiếng Pháp của đặc biệt! Brown, tôi nghĩ chắc người khác cũng từng với như vậy.”

      “Tôi rất mừng là ông nghĩ thế,” Susanna mỉm cười .

      “Và bây giờ chúng tôi muốn nghe tiếng Ý của .”

      Ông Chambers đưa cho nàng cuốn sách nàng chưa từng đọc qua, nhưng khi mở ra nàng thất đấy là bài phê bình các buổi ca kịch Ý, và so sánh cách kém ưu ái với ca kịch Đức.

      Susanna đồng ý với bất kỳ điều gì tác giả và nàng dằn được để cho giọng mình nghe có vẻ hơi phê phán và nghi vấn trong lúc đọc.

      Rồi ông Chambers lại ngăn nàng trước khi nàng đọc đến cuối trang.

      “Cám ơn Brown, là xuất sắc. Giờ ông Dunblane muốn gặp .”

      Susanna đứng lên và theo ông Chambers ngang qua cửa nối vào căn phòng kế bên. Y như nàng nghĩ, đây là phòng ngủ lớn. Hai cửa sổ treo màn nhung màu đỏ cặn rượu và giường cũng bọc vải cùng màu.

      giường, nằm tựa vào chồng gối là người đàn ông dường như bị băng toàn thân. Susanna nghĩ ông ta trông giống như xác ướp trong ngôi mộ Ai Cập, ngoại trừ vải băng còn mới trắng tinh.

      Mớ băng đó tạo cho ông ta dáng dấp lạ lùng có vẻ huyền bí hay giống như sinh vật đến từ hành tinh khác trong tiểu thuyết của H.G.

      Ông Chambers bước đến cạnh giường, và khi Susanna theo ông ta với người nằm giường.

      “Tôi đưa Brown đến, là người ông muốn nghe giọng đấy.”

      đọc hay lắm Brown,” ông Dunblane bằng giọng khàn khàn.

      “Cám ơn,” Susanna đáp lại.

      “Tôi cần người đọc cho tôi nghe vì tôi tự đọc được, chẳng có khả năng thấy cái quái gì cả!”

      Susanna thảng thốt trước cả câu chửi thề và vẻ điệu cay đắng trong giọng người đàn ông bị băng bó.

      “Tôi... rất tiếc.”

      “Tôi cần lòng thương hại của !” ông Dunbland phản bác gần như thô bạo. “Tôi chỉ muốn người ta cho biết chuyện gì xảy ra ngoài cái bóng tối mà tôi bị giam hãm thôi.”

      Brown hiểu mà,” Chambers xen vào cách xoa dịu, “nhưng theo tự nhiên ấy muốn biết ông có sẵn sàng thuê ấy vào làm .”

      “Đương nhiên là tôi sẵn sàng thuê,” ông Dunblane gay gắt đáp lại. “Tôi thể nào chịu nổi mấy thằng ngu chỉ có nổi tiếng Pháp của lũ du côn đầu đường xó chợ, còn tiếng Ý giống của cái đám đẩy xe bán cà rem.”

      Dù ông ta năng cách hằn học, Susanna dằn được phải bật cười khúc khích.

      “Tôi làm cho cảm thấy tếu lâm lắm phải ?” ông Dunbland hỏi. “Vậy là tôi mừng là có người thích thú đấy. Nếu muốn biết cái địa ngục này ra làm sao cứ thử mấy mớ băng này rồi hiểu được cái cảm giác ngồi trong bóng tối đen xì xì này ra làm sao.”

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :