1. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Emily trên dải cầu vồng - Lucy Maud Montgomery (25 Chương)

Thảo luận trong 'Truyện Phương Tây'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,824
      [​IMG]
      Emily dải cầu vồng

      Tác giả: Lucy Maud Montgomery

      Dịch giả: Huyền Vũ

      Kích thướcL 14 x 20.5 cm

      Số trang: 468

      Ngày xuất bản: 24-05-2014

      Giá bìa: 100.000 ₫

      Công ty phát hành: Nhã Nam

      Nhà xuất bản: Hội Nhà Văn

      Chụp pic: sundaefruit

      Type
      jabokivt: 1-5
      tieuchuyen: 6-10
      RobinSparkles: 11-17
      candyworld: 18-hết

      Beta: hoahanhanh

      Làm ebook: Dâu Lê

      Nguồn ebook: http://www.luv-ebook.com


      Giới thiệu



      “Mọi người bao giờ đúng khi tôi là Anne.

      Nhưngtrên số phương diện, họ đúng nếu cho rằng tôi là Emily.”



      nữ nhà văn, chao ôi,Emily ao ước trở thành nhà văn hơn bất cứ điều gì khác đời. Tiếp tục học lên cao ở thị trấn Shrewsbury chính là con đường thuận lợi hơn cả để tiến gần hơn tới mục tiêu ấy. Nhưng đến Shrewsbury đồng nghĩa với việc phải rời xa trang trại Trăng Non dấu, phải sống cùng bác Ruth bao giờ biết cười, và đáng sợ hơn tất thảy, phải ngừng sáng tác truyện trong ba năm. Liệu Shrewsbury có phải là nơi thích hợp để Emily khởi nghiệp, nơi tìm thấy “ánh cầu vồng hạnh phúc”, nơi vẻ đẹp đặc biệt của chạm đến trái tim của chàng trai trẻ?

      Emily dải cầuvồngmang đặc trưng của những tác phẩm trở thành kinh điển của L. M. Montgomery: Lời văn tuyệt đẹp, hình ảnh nên thơ, nhân vật khác thường, truyện bên lề đáng cùng chút sắc màu tình trong sáng. Nhưng chính khát vọng được viết văn cháy bỏng của Emily cùng lối khắc họa thực chút lảng tránh khiến bộ ba tiểu thuyết về Emily Byrd Starr trở nên khác biệt, vẻ đẹp sáng rỡ ngay cả trong những giờ khắc u buồn nhất.

      Là sê-ri thứ hai về nhânvật kinh điển Emily của nhà văn Lucy Maud Montgomery,Emily dảicầu vồng kể câu chuyện của này trong giai đoạn từ 13 đến 17tuổi. còn là nhóc như trong Emily ở trang trại TrăngNon, trong tác phẩm này, Emily trưởng thành và hiểu chuyện hơn, đồngthời, bắt đầu biết ước mơ. nữ nhà văn, chao ôi, đây chính là khao khát lớn nhất của Emily...



      Tác giả



      Lucy Maud Montgomery

      Lucy Maud Montgomery(1874-1942) chào đời tại Clifton ( giờ là vùng New London), thuộc đảo Hoàng tử Edward, Canada vào ngày 30 tháng 11 năm 1874. Cuốn đầu tiên của sê-ri kinh điển về bé Anne Tóc đỏ đưa nhà văn Montgomery thành trong những nhà văn bestseller của mọi thời đại. Tính tới nay, bà viết khoảng 20 cuốn tiểu thuyết cùng với khoảng 500 truyện ngắn và thơ.

      Năm 1908, bà xuất bản cuốn đầu tiên trong series kinh điển về côbé Anne tóc đỏ và thu được thành công vang dội. Đến nay, cuốn sách được xuất bản bằng hơn 30 ngôn ngữ, bán được tới 50 triệu bản, đưa Montgomery thành trong những nhà văn bestseller của mọi thời đại.

      Sau loạt truyện về Annetóc đỏ, Montgomery chia tay Anne để sáng tạo nên nhân vật mới, Emily, cũng là bé mồ côi nhưng gần gũi hơn với đời thực, mang nhiều đặc điểm tính cách và cuộc đời của chính tác giả. Bộ tiểu thuyết về Emily khơi nguồn cảm hứng cho nhiều đạo diễn, được chuyển thể thành phim truyền hình năm 1998 và phim hoạt hình năm 2007.



      Bộ ba tiểu thuyết viết vềEmily do Nhã Nam xuất bản:

      Emily ở trang trạiTrăng Non

      Emily Dải CầuVồng

      Emily và Ngôi Nhà Còn Tuyệt Vọng

      ePub

      PRC

    2. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,824
      Tặng
      “Mục sư Felix”
      với
      lòng cảm kích sâu sắc
      Chương 1: Dốc cạn tâm




      đêm tháng Hai mưa gió bão bùng giữa những ngày xa xưa trước khi cả thế giới bỗng nhiên đảo lộn, Emily Byrd Starr chỉ có mình trong phòng, tại ngôi nhà lâu đời trang trại Trăng Non ở làng Hồ Blair. Khi ấy, ngập tràn niềm hạnh phúc tột cùng. Sau khi cân nhắc đến hơi lạnh ban đêm, bà Elizabeth cho phép đốt lửa trong cái lò sưởi bé tí teo – ân huệ hiếm hoi. Ánh lửa rạng rỡ bập bùng tỏa luồng ánh sáng màu đỏ vàng soi tỏ khắp căn phòng sạch như li như lau với những đồ nội thất cổ lỗ cùng mấy ô cửa sổ khoét sâu, bậu cửa rộng, chiếu lên những bông tuyết níu chặt như các tràng hoa mấy tấm kính màu trắng xanh bị sương giá phủ mờ. Ánh lửa mang chiều sâu và sắc màu bí đến cho tấm gương soi bức tường giờ phản chiếu hình ảnh Emily gập người chiếc ghế đệm trước lò sưởi, viết vào “cuốn sổ Jimmy” mới toanh bìa đen bóng láng vừa được ông Jimmy cho hôm ấy, dưới ánh sáng của hai cây nến cao màu trắng – phương tiện chiếu sáng duy nhất được phép sử dụng ở Trăng Non. Emily rất vui khi nhận được cuốn sổ này, vì viết kín cuốn sổ được ông tặng hồi mùa thu năm ngoái, và hơn tuần nay, phải chịu đựng nỗi thống khổ vì bị kìm nén thể viết vào “cuốn nhật ký” hề tồn tại.

      Nhật ký trở thành yếu tố quan trọng bậc nhất trong những tháng ngày niên thiếu căng tràn nhựa sống của Emily. Nó tiếp quản vai trò của những “bức thư” bé viết suốt thời thơ ấu cho người cha quá cố, nơi bé có thói quen “dốc cạn tâm ” về các rắc rối và lo lắng của mình – vì ngay cả khi trong quãng thời gian diệu huyền mới chập chững bước vào độ tuổi mười bốn, người ta vẫn gặp nhiều rắc rối và lo lắng, đặc biệt khi ta phải sống dưới cai quản nghiêm khắc, dù đầy thiện chí nhưng hề chan chứa dịu dàng của bà Elizabeth Murray. Đôi khi, Emily có cảm giác nếu nhờ cuốn nhật ký, rất có thể nổ tung bởi cứ phải thầm kìm giữ mọi cảm xúc trong lòng.

      Đối với bé, “cuốn sổ Jimmy” bìa đen dày cộp ấy khác gì người bạn riêng tư, bạn tâm giao đáng tin cậy để bé tâm về nhiều vấn đề dù chất chứa đến ngột ngạt trong lòng nhưng lại quá dễ kích động nên chẳng thể phó mặc rót vào tai bất cứ người nào. Ở trang trại Trăng Non bây giờ, muốn tìm bất cứ thể loại sổ trắng nào cũng khó chẳng kém gì bắc thang lên trời, và nếu nhờ ông Jimmy chắc Emily chẳng thể đào đâu ra cuốn nào. Chắc chắn bà Elizabeth cho bé rồi – bà Elizabeth vẫn cho rằng Emily lãng phí quá nhiều thời gian “cho cái thứ chữ nghĩa mèo cào vớ vẩn” như thế - còn bà Laura lại dám trái lời bà Elizabeth trong chuyện này – thêm nữa chính bà Laura cũng tâm nghĩ rằng có lẽ Emily nên tập trung vào công việc hơn. Bà Laura là phụ nữ đáng kính, nhưng vẫn có nhiều chuyện bà khó lòng hiểu nổi.

      Ông Jimmy lại chẳng hề e sợ bà Elizabeth, và chỉ cần trong đầu ông nảy ra suy nghĩ rằng rất có thể Emily muốn “cuốn sổ trắng” khác y như rằng cuốn sổ trắng đó ngay lập tức xuất , bất chấp những ánh mắt lườm nguýt của bà Elizabeth. Chỉ vì muốn kiếm được cuốn sổ ấy mà ngày hôm đó ông lặn lội xuống tận Shrewsbury ngay giữa lúc cơn bão ngược chiều bắt đầu quần thảo càng lúc càng hăng. Vậy nên, tắm mình trong ánh sáng lò sưởi vừa huyền ảo vừa thân thiện, Emily vẫn dạt dào niềm hạnh phúc dù gió thét gào hú huýt xuyên từ vườn cây lâu đời rộng mênh mông cho tới tận mạn Bắc Trăng Non, tung những tràng hoa tuyết khổng lồ chói lóa xoay tít văng từ đầu bên này sang đầu bên kia khu vườn trứ danh của bác Jimmy, xô cái đồng hồ mặt trời dạt hẳn sang chỗ khác, và rít lên những thanh kỳ quái xuyên khắp Ba Nàng Công Chúa – cách gọi quen thuộc của Emily đối với ba cây dương Lombardy trong góc vườn.

      “Nếu buổi tối phải ra ngoài trời bão tố tôi rất cơn bão giống như cơn bão này,” Emily viết. “Bác Jimmy và tôi buổi tối tuyệt vời lên kế hoạch cho khu vườn của hai bác cháu, chọn lựa cậy và hạt giống từ tập danh mục. Đúng tại địa điểm bị quần thảo ghê gớm nhất, phía sau nhà hóng mát, hai bác cháu dự định trồng thảm cúc thúy hồng, và hai bác cháu lấy những cây hạnh trổ hoa làm nền cho các nàng Người Dát Vàng – tức đám thủy tiên hoa vàng giờ đây mơ màng dưới cả mét tuyết. Tôi thích lên kế hoạch mùa hè như thế này, ngay giữa lúc bão tố thét gào. Như vậy, tôi cảm thấy dường như mình giành chiến thắng trước thứ lớn lao hơn tôi gấp vạn lần, chỉ nhờ tôi có đầu óc hơn, còn cơn bão chẳng là gì hết ngoài thứ sức mạnh tàn nhẫn, mù quáng – khủng khiếp đấy, nhưng lại mù quáng. Tôi cũng có cảm giác y như thế khi ngồi đây bên cái lò sưởi ấm cúng thân thương của mình, lắng nghe cơn bão cuồng nộ vần vũ bốn bề, và cười thẳng vào mặt nó. Và, có được điều đó là nhờ hàng trăm năm trước, cụ cố Murray xây ngôi nhà này và xây cách vô cùng cẩn thận. Tôi cứ băn khoăn mãi, biết trăm năm sau, liệu có ai giành được chiến thắng trước thứ nào đấy nhờ vào cái gì đó mà tôi để lại hay thực . Đây quả là ý tưởng đầy hứng khởi.

      “Tôi chẳng kịp suy nghĩ gì mà cứ thế viết dòng chữ in nghiêng kia rồi. Thầy Carpenter tôi sử dụng quá nhiều từ in nghiêng. Thầy đó là nỗi ám ảnh đầu thời Victoria, và tôi phải cố gắng từ bỏ nó . Sau khi tra từ điển tôi rút ra kết luận mình phải làm thế thôi, vì ràng chẳng có gì hay ho khi bị ám ảnh bởi thứ gì đó, mặc dù có vẻ như thà thế vẫn còn đỡ hơn là bị mất tự chủ. Đấy, tôi lại thế rồi: nhưng tôi cảm thấy lần này sử dụng từ in nghiêng là chính xác.

      “Tôi đọc từ điển cả tiếng đồng hồ liền – cho tới tận khi bác Elizabeth nổi ý nghi ngờ và cho rằng tốt hơn hết tôi nên mạng lại mấy cái tất rách của mình . Bác ấy thể lý giải xác đáng được có gì ổn khi tôi cứ mải mê nghiên cứu từ điển, nhưng bác ấy cảm thấy chắc chắn chuyện đó chẳng đúng đắn gì cả, vì bác ấy có bao giờ muốn làm thế đâu. Tôi đọc từ điển. (Vâng, sử dụng in nghiêng ở đây là hoàn toàn cần thiết, thưa thầy Carpenter. từ 'mê' thông thường làm sao mà diễn tả được cảm xúc của con chứ!) Ngôn ngữ thú vị đến thế đấy. (Lần này tôi mắc ở tiết đầu tiên!) thanh của vài từ - chẳng hạn như 'ma ám', 'huyền bí' – mang ánh chớp đến cho tôi. (Ôi chao! Nhưng tôi phải viết nghiêng từ ánh chớp. có bình thường đâu – nó là thứ đặc biệt nhất, tuyệt vời nhất trong cuộc đời tôi. Khi nó xuất , tôi dường như cảm thấy cánh cửa vừa bật mở bức tường trước mặt và giúp tôi thoáng nhìn thấy – đúng vậy đó, thấy thiên đường. Lại viết nghiêng nữa rồi! Ôi, tôi hiểu tại sao thầy Carpenter lại la rầy rồi! Tôi phải cố gắng bỏ cái thói quen này thôi.)

      “Những từ đao to búa lớn chẳng bao giờ đẹp cả... 'buộc tội'... 'ngỗ ngược'... 'quốc tế'... 'vi hiến'. Chúng làm tôi nghĩ đến những cây hoa cúc và hoa thược dược to khủng khiếp mà bác Jimmy dẫn tôi xem hồi mùa thu năm ngoài ở cuộc triển lãm tại Charlottetown. Hai bác cháu chẳng thấy chúng có chút xíu dễ thương nào hết, ấy vậy nhưng có mấy người lại cứ cho rằng chúng tuyệt vời. Những cây cúc vàng bé của bác Jimmy, giống như những vì sao mờ huyền ảo nhấp nháy vạt linh sam ở góc vườn phía Tây Bắc, còn đẹp hơn gấp chục lần. Nhưng tôi lại lan man chệch khỏi chủ đề của mình rồi – lại thói quen xấu khác của tôi, theo lời thầy Carpenter. Thầy tôi phải (lần này chính thầy mới là người dùng từ viết nghiêng nhé!) học cách tập trung – lại từ to tát khác và cũng là từ xấu xí để đâu cho hết.

      “Nhưng lúc đọc cuốn từ điển ấy, tôi rất vui, vui hơn nhiều so với lúc dành thời gian cho đám tất có gân kia. Giá như tôi có đôi tất lụa, chỉ cần đôi thôi cũng được. Ilse có ba đôi. Giờ hễ bạn ấy thích thứ gì là lại được cha cho ngay thứ nấy, vì bác ấy biết thương bạn ấy rồi. Còn bác Elizabeth bảo tất lụa là thứ phi đạo đức. Tôi hiểu nổi tại sao nữa... nó cũng có khác gì váy áo lụa đâu.

      “Lại đến chuyện váy lụa, dì Janey Milburn ở Ao Thành Kiến – ra bà ấy chẳng có quan hệ họ hàng gì cả, nhưng ai cũng gọi bà ấy như thế - thề rằng bà ấy bao giờ mặc váy lụa, trừ phi hết thảy thế giới ngoại đạo đều cải theo Cơ Đốc hết. Chuyện đó là hay. Tôi ước gì tôi cũng có thể hay ho được như thế, nhưng đành chịu thôi, tôi đồ lụa quá mất rồi. Nó mới đẹp đẽ và rực rỡ làm sao chứ. Tôi muốn lúc nào cũng được mặc đồ lụa, ấy là trong trường hợp tôi đủ dư dả để làm thế, nhưng có lẽ mỗi lần nghĩ đến bà dì Janey dấu và giới ngoại đạo vẫn chưa cải đạo, thể nào tôi cũng thấy cắn rứt lương tâm cho xem. vậy thôi chứ nếu có như thế cũng còn phải mất nhiều năm nữa tôi mới có đủ tiền để mua dẫu chỉ là chiếc váy lụa, mà từ giờ đến lúc đó, hằng tháng tôi vẫn phải san ít tiền bán trứng của mình cho các hội truyền giáo. (Bây giờ tôi có năm con gà, cả năm đều là con của nàng gà mái lông xám Perry tặng tôi nhân dịp sinh nhật lần thứ mười hai.) Nếu sau này có thể mua được chiếc váy lụa như tôi biết chiếc váy ấy trông như thế nào. phải màu đen, nâu hay xanh nước biển, những thứ màu vừa bền vừa đứng đắn, đúng màu truyền thống trang phục của nhà Murray ở Trăng Non – ôi, chao ôi, đâu! Nó là thứ lụa óng ánh, nhìn dưới ánh sáng này là màu xanh da trời, nhìn dưới ánh sáng kia lại lấp lánh màu bạc, giống y như bầu trời nhấp nháy, thấp thoáng qua khung kính cửa sổ mờ vì băng giá, và nó được điểm xuyết những sóng đăng ten, như những sợi lông vũ mảnh mai kết từ những bông tuyết cheo leo ngoài ô cửa sổ phòng tôi. Teddy bảo cậu ấy vẽ hình tôi mặc bộ váy ấy và gọi bức tranh đó là 'Thiếu nữ băng tuyết', còn bác Laura cười tủm tỉm rồi bằng giọng cực kỳ dịu dàng và nhún nhường, đúng cái kiểu tôi rất ghét, cho dù người có là bác Laura dấu chăng nữa,

      “ ' cái váy như thế ích lợi gì với cháu chứ, Emily?'

      “Có lẽ nó chẳng có ích lợi gì hết, nhưng khi khoác lên người bộ váy ấy, tôi cảm thấy như thể nó chính là phần bản thân mình, cảm thấy nó gắn liền với tôi chứ phải là món đồ chỉ được mua về rồi mặc vào người. Tôi luôn ao ước có bộ váy như thế trong đời. Và cả lớp váy lót bằng lụa... rồi tất lụa nữa!

      “Giờ Ilse chiếc váy lụa rồi, chiếc váy màu hồng nhạt. Bác Elizabeth bác sĩ Burnley cho Ilse ăn mặc quá già và quá sặc sỡ so với đứa trẻ. Nhưng bác Burnley chỉ muốn bù đắp lại hết thảy những năm tháng bác ấy chẳng cho Ilse ăn mặc gì hết. (Tôi có ý là bạn ấy trần truồng chẳng mặc gì đâu, nhưng nếu chỉ dựa vào bác sĩ Burnley có khi bạn ấy thành ra như thế cũng chừng. Toàn người khác phải chăm lo đến khoản quần áo của bạn ấy.) Giờ bạn ấy muốn gì bác ấy cũng chiều hết, và bác ấy còn cho phép bạn ấy thích làm gì làm. Bác Elizabeth bảo như vậy chẳng có gì hay ho cho Ilse cả, nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn thấy ghen tị với bạn ấy. Tôi biết thế là rất xấu tính, nhưng tôi chẳng kìm lòng được.

      “Mùa thu năm sau, bác sĩ Burnley gửi Ilse đến trường trung học Shrewsbury, và sau đó là tới Montreal để học diễn thuyết. Vậy nên tôi mới ghen tị với bạn ấy, chứ phải vì chiếc váy lụa. Tôi chỉ mong sao bác Elizabeth cho phép tôi tới Shrewsbury, nhưng chỉ e là chẳng đời nào có chuyện đó đâu. Vì mẹ tôi trốn nhà theo bố tôi nên bác ấy luôn cho rằng hễ sểnh ra cái để mắt đến tôi được là đừng hòng tin tưởng vào tôi. Nhưng đáng lẽ ra bác ấy chẳng cần phải lo sợ tôi trốn nhà theo tiếng gọi tình . Tôi hạ quyết tâm bao giờ lấy chồng. Tôi gắn bó trọn đời với nghệ thuật.

      “Teddy muốn mùa thu tới đến Shrewsbury, nhưng mẹ cậu ấy đồng ý đâu. thế có nghĩa là bà ấy sợ Teddy bỏ nhà theo tiếng gọi tình , chỉ là bà ấy thương cậu ấy quá đỗi nên thể rời xa cậu ấy được. Teddy muốn trở thành họa sĩ, và thầy Carpenter bảo rằng cậu ấy có năng khiếu trời phú và nên được trao cho cơ hội, nhưng chẳng ai dám gì với bà Kent cả. Bà ấy là phụ nữ nhắn- ra chẳng cao hơn tôi là mấy, lặng lẽ và rụt rè - ấy vậy nhưng ai cũng sợ bà ấy. Tôi... sợ đến chết được. Tôi luôn biết bà ấy thích mình-ngay từ ngày xửa ngày xưa cái thời tôi và Ilse lần đầu tiên đến Vạt Cúc Ngải để chơi với Teddy. Nhưng giờ bà ấy ghét tôi hẳn hoi – tôi dám chắc thế - chỉ vì Teddy quý tôi. Bà ấy thể chịu đựng được khi cậu ấy quý bất kỳ ai hay bất kỳ thứ gì khác ngoài bà ấy. Thậm chí, bà ấy còn ghen cả với tranh cậu ấy vẽ nữa. Vậy nên cậu ấy chẳng có nhiều cơ hội để tới Shrewsbury đâu. Perry . Cậu ấy chẳng có xu nào, nhưng dù gì cậu ấy cũng làm theo ý mình. Chính vì vậy vậu ấy định tới Shrewsbury thay vì Học viện Queen. Cậu ấy vẫn đinh ninh rằng ở Shrewsbury dễ kiếm việc làm thêm hơn, thêm nữa tiền trọ ở đấy cũng rẻ hơn.

      “ 'Bà bác Tom già lọm khọm của tớ cũng có ít tiền đấy,' cậu ấy bảo tôi, 'nhưng bà ấy chẳng cho tớ dù chỉ xu... trừ phi... trừ phi...'

      “Rồi cậu ấy nhìn tôi đầy ý.

      “Tôi chẳng thể kiềm chế được mà đỏ hết cả mặt, rồi sau đó lại giận điên lên với chính mình vì tội đỏ mặt, và cả với Perry nữa... vì cậu ta nhắc đến chuyện mà tôi muốn nghe chút nào... hồi xưa ấy, có lần bác Tom của cậu ta gặp tôi ở rừng cây bụi nhà ông John Ngạo Mạn, và làm tôi sợ đến chết được vì bà ấy cứ nằng nặc bắt tôi hứa cưới Perry khi nào chúng tôi lớn, chỉ thế bà ấy mới chịu nuôi cậu ấy ăn học. Tôi chưa từng kể với ai về chuyện đó – xấu hổ chết được – ngoài Ilse, và bạn ấy bảo,

      “ 'Nghĩ mà xem, bà Tom lại mong mỏi kiếm người nhà Murray cho Perry cơ đấy!'

      “Nhưng sau đó, Ilse tỏ ra khắt khe khủng khiếp với Perry, suốt ngày cãi cọ với cậu ấy, cả về những chuyện mà tôi chỉ thấy buồn cười thôi. Perry chẳng bao giờ thích bị bất kỳ ai qua mặt về bất cứ chuyện gì. Tuần vừa rồi, lúc chúng tôi dự tiệc ở nhà Amy Moore, chú của Amy kể cho chúng tôi nghe về con bê khá quái dị mà chú ấy từng nhìn thấy, nó chỉ có ba chân thôi, vậy là Perry bảo,

      “ 'Ôi dào, thế có là gì so với con vịt cháu từng nhìn thấy ở Na Uy chứ.'

      “(Đúng là Perry từng ở Na Uy . Ngày xưa hồi còn , cậu ấy từng cùng cha mình dong buồm lênh đênh khắp mọi nơi. Nhưng tôi chẳng tin bất cứ lời nào về con vịt đó. Cậu ấy dối – cậu ấy chỉ bịa chuyện thôi. Thầy Carpenter kính mến, con thể viết nghiêng được.)

      “Theo lời Perry con vịt ấy có bốn chân, hai chân nằm ở vị trí bình thường giống như những con vịt khác, còn hai chân nữa mọc ra sau lưng. Vậy nên khi nào phát mệt vì bằng đôi chân bình thường rồi lật ngửa mình lại bằng hai chân kia!

      “Perry kể câu chuyện bịa này với vẻ mặt rất nghiêm túc, và ai cũng đều phá lên cười, chú của Amy , 'Kể tiếp , Perry.' Nhưng Ilse lại giận điên lên và suốt đường về nhà thèm năng gì với cậu ấy. Bạn ấy bảo cậu ấy tự biến mình thành thằng ngốc, cố gắng 'ra vẻ ta đây' bằng câu chuyện ngu ngốc như thế, và chẳng quý ông nào lại cư xử theo kiểu đó hết.

      “Perry : 'Giờ tôi vẫn chưa phải quý ông mà chỉ là cậu bé làm thuê thôi, nhưng ngày nào đó, tiểu thư Ilse ạ, tôi trở thành quý ông hào hoa phong nhã hơn bất kỳ ai biết cho mà xem.'

      “ 'Có phải quý ông hay ,' Ilse đầy ác ý, ' từ khi sinh ra thế rồi. Họ thuộc kiểu người cố gắng thành, cậu biết đấy.'

      “Ilse hầu như bỏ hẳn thói quen gọi người khác là đồ này đồ nọ, giống như ngày xưa bạn ấy vẫn làm khi cãi lộn với Perry hoặc tôi, mà thay vào đó là những điều độc ác, cay độc. Chúng còn khiến người ta tổn thương hơn gấp nhiều lần so với bị gọi là đồ này đồ nọ, nhưng tôi tâm chẳng buồn để ý đến chúng – nhiều lắm – hay lâu lắm – vì Ilse chủ tâm thế và ra bạn ấy cũng quý tôi kém gì tôi quý bạn ấy. Nhưng Perry bảo những lời ấy cứ đeo đẳng tâm trí cậu ấy. Từ lúc đó cho tới tận khi về đến nhà, cậu ấy và Ilse chẳng năng gì với nhau nữa, nhưng hôm sau, Ilse lại công kích cậu ấy vì chuyện dùng sai ngữ pháp và đứng dậy khi có phu nhân bước vào phòng.

      “ 'Tất nhiên người ta cũng chẳng thể trông chờ cậu biết điều đó được,' bạn ấy bằng giọng cay độc hết mức, 'nhưng tôi dám chắc thầy Carpenter nỗ lực hết sức để dạy ngữ pháp cho cậu.'

      “Perry lời với Ilse mà chỉ quay sang với tôi.

      “ 'Cậu chỉ cho tớ các lỗi sai chứ?' cậu ấy hỏi. 'Tớ thấy khó chịu nếu cậu làm thế đâu... khi chúng ta lớn lên phải Ilse mà chính cậu mới là người phải chịu đựng tớ.'

      “Cậu ấy thế cốt làm Ilse giận, nhưng tôi còn giận hơn nhiều, vì nó bóng gió về chủ đề cấm kỵ. Vậy nên cả hai đứa tôi chẳng ai thèm chuyện với cậu ấy trong suốt hai ngày, và cậu ấy bảo dù sao nữa cậu ấy cũng cả người vì tạm thời thoát được những lời chỉ trích gay gắt của Ilse.

      “Perry phải người duy nhất ở Trăng Non bị rơi vào tình huống đáng xấu hổ. Tối qua tôi điều ngu ngốc, khiến cho mỗi khi nhớ lại tôi đều phải đỏ mặt. Hội Phụ nữ Cứu trợ họp mặt ở đây và bác Elizabeth mời họ ăn tối, vậy là chồng của các bà các trong hội cũng đến tham gia. Ilse và tôi đứng phục vụ ở bàn ăn bày biện trong bếp vì bàn phòng khách đủ rộng. Ban đầu mọi chuyện cũng khá vui, nhưng đến khi mọi người đều được phụ vụ đồ ăn thức uống đầy đủ khí có phần tẻ nhạt dần, và tôi đứng bên cửa sổ, vừa phóng ánh mắt ra ngoài vườn, vừa soạn trong đầu mấy vần thơ. Tôi say sưa với việc này đến nỗi chẳng mấy chốc quên bẵng tất cả mọi thứ khác, cho tới khi đột nhiên tôi nghe thấy bác Elizabeth gọi 'Emily' bằng giọng sắc lẻm, và rồi bác ấy hướng ánh mắt đầy ý về phía ngài Johnson, mục sư mới của chúng tôi. Tôi bối rối chộp lấy bình trà và kêu lên,

      “ 'Ôi, ngài Tách, ngài có muốn châm thêm trà vào Johnson của ngài ạ?'

      “Ai nấy đều phá lên cười, bác Elizabeth trông vô cùng cáu kỉnh và bác Laura xấu hổ tột độ, còn tôi chỉ ước gì mình chui xuống đất cho xong. Tôi trằn trọc gần hết đêm vì cứ nghĩ mãi về chuyện này. Lạ nỗi tôi tin chắc nếu thực làm sai chuyện gì đó tôi cũng chẳng cảm thấy bứt rứt và xấu hổ đến mức này. Tất nhiên đây là vấn đề về 'lòng kiêu hãnh của người nhà Murray', và tôi cho rằng chuyện này rất tệ hại. Đôi khi, tôi chỉ sợ rằng xét cho cùng, bà bác Ruth Dutton hóa ra đánh giá đúng về tôi.

      , bà ấy đúng!

      “Nhưng ở Trăng Non hình thành truyền thống rằng những người phụ nữ trong dòng họ cần phải có đủ khả năng đối phó với bất kỳ tình huống nào và lúc nào cũng phải tỏ ra duyên dáng đường hoàng. Ôi chao, còn gì là duyên dáng đường hoàng khi hỏi ngài mục sư mới câu như vậy chứ. Tôi dám chắc từ giờ trở , hễ gặp tôi là thể nào ông ấy cũng nghĩ đến chuyện đó cho xem, và tôi luôn khổ sở dằn vặt mỗi khi thấy ông ấy hướng ánh mắt về phía mình.

      “Nhưng bây giờ, khi viết lại câu chuyện này vào nhật ký rồi tôi còn cảm thấy quá khổ sở nữa. Dường như khi được viết ra rồi chẳng điều gì còn có vẻ to tát hay khủng khiếp – than ôi, cũng chẳng đẹp đẽ hay huy hoàng – như khi ta nghĩ hay cảm giác về nó. Dường như nó co lại ngay khi ta đem nó vào trong ngôn ngữ. Ngay cả câu thơ tôi vừa sáng tác ngay trước khi thốt lên câu hỏi ngớ ngẩn đó có vẻ như cũng chỉ còn giữ lại được nửa hay ho khi được tôi viết thành câu chữ:

      “ 'Nơi những bàn chân nhung của bóng tối êm ái bước qua.'

      “Nó phải vậy. Dường như nó mất mát ít nhiều vẻ đẹp rạng rỡ rồi. Tuy nhiên, lúc tôi đứng đó, phía sau toàn bộ đám đông vừa ăn uống vừa chuyện trò, và nhìn thấy bóng tối rón rén, êm ái lướt qua khu vườn và dãy đồi, chẳng khác gì phụ nữ xinh đẹp khoác tấm áo choàng đêm với đôi mắt chính là hai vì sao, ánh chớp đến, khiến tôi quên hết thảy mọi thứ đời, chỉ giữ lại niềm mong mỏi được mang chút gì đó của vẻ đẹp mà tôi cảm nhận được ấy vào trong lời thơ của mình. Khi câu thơ đó nảy ra trong tâm trí tôi, tôi cảm thấy dường như tôi hoàn toàn phải người sáng tác ra nó – dường như có Điều Gì Khác cố gắng mượn tôi để lên tiếng – và chính Điều Gì Khác đó khiến câu thơ có vẻ tuyệt diệu... ấy vậy mà bây giờ khi khoảnh khắc qua rồi câu chữ dường như nhạt nhẽo, ngu ngốc, và bức tranh mà tôi cố gắng vẽ nên nhờ ngôn ngữ lại chẳng hề tuyệt diệu đến thế.

      “Ôi, giá như tôi có thể mang mọi thứ vào trong ngôn ngữ ngay khi tôi nhìn thấy chúng! Thầy Carpenter bảo, 'Cứ cố lên... cố gắng hơn nữa... kiên trì vào... ngôn ngữ là phương tiện truyền đạt của trò... hãy biến chúng thành nô lệ cho trò... cho đến khi chúng cho trò nghe những điều trò muốn nghe.' Quả như thế ... và tôi thử rồi... nhưng tôi vẫn cảm giác như có thứ gì đó vượt ra ngoài ngôn ngữ... bất kỳ từ ngữ nào... hết thảy mọi từ ngữ... thứ gì đó luôn trốn thoát khỏi ta mỗi khi ta cố gắng nắm bắt... ấy vậy nhưng nó vẫn để rớt lại trong tay ta thứ nếu chịu với tay ra ta chẳng bao giờ có được.

      “Tôi vẫn nhớ ngày mùa thu năm ngoái, chú Dean và tôi bộ qua núi Ngoạn Mục để tới khu vườn phía bên kia – cây cối trong rừng chủ yếu là linh sam, nhưng có riêng góc dành cho những cây thông lâu năm lộng lẫy. Hai chú cháu tôi ngồi dưới gốc cây thông, chú Dean đọc cho tôi nghe truyện Peveril xứ Peak và cả mấy bài thơ của Scott nữa; rồi chú ấy ngước nhìn lên những cành cây to xòe rộng như sợi lông chim, và ,

      “ 'Các vị thần chuyện trò trong những cây thông... các vị thần của phương Bắc xa xưa... của những câu chuyện dân gian về người Viking. Sao Trời này, cháu có biết thơ của Emerson nhỉ?'

      “Và rồi chú ấy đọc đoạn thơ... tôi vẫn còn nhớ như in và từ đó đến nay vẫn luôn thích những vần thơ đó.

      “ 'Các vị thần chuyện trò trong hơi thở của thế gian,

      Họ chuyện trò trong cây thông đu đưa xào xạc,

      Lấp đầy bờ biển xưa rộng dài

      Bằng cuộc đối thoại thiêng liêng;

      Và nhà thơ nghe lỏm được

      từ ngẫu nhiên họ

      Chính là người định mệnh an bài

      Đến tuổi tác cũng đành tuân phục.'

      “Ôi, cái 'từ ngẫu nhiên' đó – nó chính là Điều Gì Đó trốn khỏi tôi. Tôi vẫn luôn lắng tai hòng nghe thấy nó... tôi biết mình chẳng bao giờ nghe thấy được... tai tôi đồng điệu với nó... nhưng tôi dám chắc thỉnh thoảng tôi vẫn nghe thấy tiếng vọng yếu ớt, xa xăm, nhạt nhòa của nó... và chính tiếng vọng ấy khơi dậy trong tôi niềm vui thích đớn đau cùng nỗi tuyệt vọng bởi thể truyền tải vẻ đẹp của nó bằng bất cứ từ ngữ nào tôi biết.

      “Ấy vậy nhưng, tiếc thay, tôi tự biến mình thành ngốc ngay sau trải nghiệm tuyệt vời đó.

      “Giá tôi có thể lướt tới phía sau mục sư Johnson, bằng những bước chân êm ái như bóng đêm, rồi duyên dáng châm trà cho ông từ chiếc bình trà bằng bạc của cụ cố Murray, hệt như bóng tối rót đêm vào chiếc tách trắng của thung lũng Blair, chắc hẳn bác Elizabeth hài lòng về tôi hơn gấp vạn lần so với khi tôi có thể sáng tác nên bài thơ đặc sắc nhất trần gian.

      “Bác Jimmy khác trời vực. Tối nay, sau khi hai bác cháu xem bảng danh mục xong, tôi đọc bài thơ của mình cho bác ấy nghe, và bác ấy thấy nó rất tuyệt. (Bác ấy chẳng thể biết rằng nó còn kém xa so với những gì tôi nhìn thấy trong tâm trí.) Bác Jimmy cũng sáng tác thơ. Ở nhiều chỗ, bác ấy rất khôn ngoan sáng suốt. Còn ở nhiều chỗ khác, những chỗ não bộ bị tổn thương do bác ấy bị bác Elizabeth đẩy ngã xuống cái giếng ở Trăng Non, bác ấy chẳng có gì hết. Ở đó chỉ có trống rỗng thôi. Vậy nên ai cũng bảo bác ấy là người ngây dại, bác Ruth thậm chí còn dám bác Jimmy chẳng đủ khôn ngoan để đuổi con mèo tránh xa chỗ kem. Ấy thế nhưng nếu ta ghép hết những chỗ khôn ngoan sáng suốt của bác ấy lại, ở cả cái làng Hồ Blair này, chẳng ai có nổi nửa thông minh đích thực của bác ấy đâu – kể cả thầy Carpenter chăng nữa. Mỗi tội ta chẳng thể ghép hết những chỗ khôn ngoan sáng suốt của bác ấy lại được... giữa chúng luôn có các khoảng trống. Nhưng tôi rất quý bác Jimmy, và ngay cả khi bác ấy bị những thứ kì quặc ám vào, tôi cũng bao giờ sợ bác ấy, dù chỉ nảy may. Người khác vẫn sợ - ngay cả bác Elizabeth, tuy nhiên bác ấy có lẽ phải sợ mà đúng hơn là ăn năn day dứt – chỉ trừ Perry. Perry lúc nào cũng khoe khoang cậu ấy chẳng sợ gì sất... chẳng bao giờ biết sợ là gì. Tôi nghĩ nếu được thế tuyệt biết bao. Giá như tôi có thể gan dạ như vậy. Thầy Carpenter sợ hãi là thứ xấu xa, là cơn cớ của hầu hết mọi sai lầm và những điều đáng ghét thế giới.

      “ 'Xua đuổi nó , Ngọc Bích,' thầy ... 'xua đuổi nó khỏi trái tim . Sợ hãi chính là thừa nhận yếu đuối. Thứ khiến trò sợ hãi mạnh mẽ hơn trò nhiều, hay ít ra theo trò nghĩ là vậy, nếu trò chẳng sợ nó. Hãy nhớ Emerson của trò... 'sợ điều gì hãy làm điều ấy'”.

      “Nhưng, như chú Dean đấy, đây đúng là kiểu lời khuyên hay hay nhưng có cơ thực , và tôi tin là mình có thể làm được. Thành , tôi sợ rất nhiều thứ, nhưng thế giới này chỉ có hai người khiến tôi sợ thực . là bà Kent, và là ông Morrison Khùng. Tôi sợ ông ấy khủng khiếp, và chắc hẳn tất cả những người khác cũng vậy. Nhà ông ấy ở Ao Thành Kiến, nhưng ông ấy chẳng mấy khi ở đó... ông ấy lang thang khắp mọi miền đất nước, tìm kiếm dâu mất tích của ông ấy. Ông ấy kết hôn cách đây lâu lắm rồi, nhưng mới được vài tuần người vợ trẻ qua đời, và kể từ ngày đó, ông ấy chẳng bao giờ còn tỉnh táo được nữa. Ông ấy cứ khăng khăng rằng bà vẫn chưa chết mà chỉ mất tích thôi, và có ngày ông tìm thấy bà. Theo năm tháng, ông ấy cứ thế già , lưng cứ thế còng xuống, và vẫn cứ mải miết tìm người vợ mất tích, nhưng với ông, bà vẫn luôn trẻ trung và xinh đẹp.

      “Hè năm ngoái, hôm ông ấy đến đây, nhưng vào nhà... chỉ đăm chiêu nhòm vào trong bếp rồi hỏi, 'Annie có ở đây ?' Hôm đó ông ấy khá hiền lành, nhưng thỉnh thoảng ông ấy hung dữ và điên rồ tả nổi. Ông ấy bảo lúc nào cũng nghe thấy tiếng bà Annie gọi... rằng tiếng của bà ấy luôn lờ lững phía trước ông... luôn luôn ở phía trước ông, y như cái từ ngẫu nhiên của tôi. Mặt ông ấy quắt queo chằng chịt nếp nhăn, và trông ông chẳng khác gì con khỉ già lụ khụ. Nhưng thứ tôi ghét nhất là bàn tay phải của ông ấy – nó đỏ thẫm như nhuộm máu – hằn vết bớt. Tôi thể giải thích lý do tại sao, chỉ biết rằng bàn tay đó khiến tôi kinh hãi tột cùng. Chỉ cần chạm vào nó cũng khiến tôi chịu nổi. Thêm vào đó, nhiều khi, ông ấy còn cười mình rất đáng sợ. Sinh vật duy nhất có vẻ thu hút được quan tâm của ông ấy là con chó già màu đen dính chặt ông ấy như hình với bóng. Người ta bảo ông ấy chẳng bao giờ xin xỏ cho bản thân dù chỉ mẩu thức ăn. Nếu được mời ông sẵn sàng chịu đói, nhưng ông cầu xin thức ăn cho chó của mình.

      “Ôi chao, tôi sợ ông ấy đến chết được, và hôm đó, tôi mừng húm vì ông ấy vào trong nhà. Lúc ông ấy quay lưng , mái tóc dài ngả màu muối tiêu phất phơ trong gió, bác Elizabeth dõi mắt nhìn theo mà ,

      “ 'Hồi còn trẻ, Fairfax Morrison rất bảnh bao, thông minh, với cả tương lại rực rỡ chờ đón. Thế đấy, chẳng ai lường trước được xếp đặt của Chúa.'

      “ ' vậy mới thú vị chứ ạ,' tôi .

      “Nhưng bác Elizabeth cau mày bảo tôi đừng có tỏ thái độ bất kính, đúng phản ứng quen thuộc của bác ấy mỗi khi tôi gì liên quan đến Chúa. Tôi chẳng hiểu nổi tại sao nữa. Bác ấy cũng cho Perry và tôi chuyện về Người, dù Perry lòng vô cùng quan tâm đến Người và mong muốn tìm hiểu tất tật mọi chuyện về Người. Có chiều Chủ nhật, bác Elizabeth tình cờ nghe thấy tôi bày tỏ với Perry suy nghĩ của tôi về Chúa, vậy là bác ấy bảo như thế đáng hổ thẹn.

      “Nhưng có phải vậy đâu! Vấn đề nằm ở chỗ Chúa của bác Elizabeth khác với Chúa của tôi, chỉ thế thôi. Tôi cho là mỗi người đều có Chúa riêng. Ví dụ như Chúa của bác Ruth trừng phạt kẻ thù của bác ấy... mang ' phán xét' đến cho họ. Theo tôi thấy, có vẻ như tình đối với bác ấy Người chỉ có mỗi lợi ích đó thôi. Jim Cosgrain thường mang Người ra để thề thốt. Còn dì Janey Milburn ngày ngày bước trong ánh sáng từ Chúa của dì ấy, và tỏa sáng cùng nó.

      “Tối nay tôi dốc cạn cảm xúc của mình rồi, và giờ tôi ngủ thôi. Tôi biết mình viết rất nhiều 'từ lãng phí' vào trong cuốn nhật ký này – lại thêm sai lầm văn chương của tôi, theo cách của thầy Carpenter.

      “ 'Trò lãng phí ngôn ngữ quá, Ngọc Bích ạ... trò vung vít chúng ra cách quá vô tội vạ. Hãy biết tiết kiệm và kiềm chế... đó chính là điều trò cần đấy.'

      “Tất nhiên thầy ấy rất đúng, và tôi cố gắng áp dụng lời khuyên nhủ của thầy vào trong các bài luận và truyện của mình. Nhưng nhật ký của tôi ngoài tôi ra có ai đọc đâu, hoặc nếu có cũng phải đợi cho đến khi tôi chết , vậy nên tôi chỉ muốn mặc cho cảm xúc của mình dẫn dến đâu đến đó.”




      Emily nhìn cây nến – nó cũng sắp tàn rồi. bé biết tối nay đừng mơ có thêm cây nến nào nữa – các quy tắc của bác Elizabeth cũng ngang bằng các quy tắc của dân Mede và dân Ba Tư: bé cất cuốn nhật ký vào cái tủ bệ lò sưởi bên phải, vùi ngọn lửa lụi dần, cởi quần áo và thổi tắt nến. Căn phòng chậm rãi chìm vào trong thứ ánh sáng nhợt nhạt, ma quái lòa nhòa ánh tuyết của buổi đêm vốn có trăng nhưng vầng trăng tròn lại bị khuất lấp phía sau những đám mây bão vần vũ. Nhưng ngay khi Emily sẵn sàng vùi mình chiếc giường cao đen sì cảm hứng bất chợt ập đến – ý tưởng mới toanh chói sáng về câu chuyện. bé thoáng rùng mình miễn cưỡng: căn phòng lạnh dần. Nhưng làm sao từ chối cái ý tưởng kia được chứ. Emily chuồi tay vào giữa lớp khăn trải giường nhồi lông chim và tấm đệm nhồi rơm rồi lôi ra cây nến còn phân nửa, vốn được giấu ở đáy phòng những lúc khẩn cấp như thế này.

      Tất nhiên, đây phải hành động đúng đắn gì cho cam. Nhưng từ trước tới nay, và ngay cả sau này cũng vậy, tôi chẳng bao giờ làm ra vẻ Emily là đứa trẻ luôn làm những chuyện đúng đắn. Sách truyện đâu có viết về những đứa trẻ chuyên làm những chuyện đúng đắn chứ. Như thế chúng nhạt hoen hoét đến độ chẳng ai buồn đọc nữa.

      Emily thắp nến, xỏ chân vào tất và khoác thêm chiếc áo choàng dày cộp, rồi lấy ra cuốn sổ Jimmy khác kín chữ quá nửa và bắt đầu viết, dưới ánh nến đơn độc, chập chờn vẽ nên ốc đảo ánh sáng nhợt nhạt giữa căn phòng vốn tối đen như mực. Emily viết giữa ốc đảo ánh sáng ấy, mái đầu đen cúi rạp quyển sổ, trong khi buổi tối chậm rãi trôi qua lặng lẽ, giữa lúc các cư dân khác của trang trại Trăng Non đều chìm sâu vào giấc ngủ; càng lúc người càng lạnh và tư thế cũng bắt đầu thiếu thoải mái, nhưng con bé gần như chẳng hề nhận ra. Đôi mắt nó bừng cháy... hai gò má ửng hồng rạng rỡ... ngôn ngữ tuôn trào như đoàn quân thần thánh răm rắp tuân theo tiếng gọi từ ngòi bút. Cuối cùng, đến lúc cây nến tàn xèo xèo hấp hối giữa vũng sáp dưới chân nến, con bé mới rùng mình thở dài quay về thực. Đồng hồ chỉ hai giờ sáng, Emily vừa lạnh cóng vừa mệt rũ; nhưng con bé hoàn thành câu chuyện của mình, và đó là câu chuyện đặc sắc nhất con bé từng sáng tác. Emily rúc vào trong cái ổ giờ lạnh ngắt, lòng tràn ngập cảm giác hân hoan mãn nguyện nhờ đáp ứng trọn vẹn thôi thúc sáng tạo của mình, và thiếp giữa tiếng ru hời của cơn bão đà suy yếu.

    3. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,824
      Chương 2: Thời thanh xuân non nớt




      Cuốn sách này hoàn toàn, thậm chí cũng phải phần lớn, được cấu thành bởi các đoạn trích từ cuốn nhật ký của Emily; nhưng, bằng việc kết nối các vấn đề dù chưa đủ tầm quan trọng đến mức xứng đáng được dành hẳn chương riêng nhưng lại thể thiếu nếu muốn hiểu cặn kẽ về tính cách và môi trường của bé, tôi giới thiệu phần cuốn nhật ký đó. Thêm nữa, khi người ta có sẵn chất liệu trong tay tội gì dùng chứ? Cuốn “nhật ký” của Emily, với hết thảy những chỗ viết nghiêng và những chỗ non nớt thiếu trau chuốt ấy, quả thực khắc họa hình ảnh Emily trong mùa xuân thứ mười bốn của cuộc đời cùng tâm hồn nhạy cảm giàu trí tưởng tượng của cách sắc nét hơn bất kỳ cuốn tiểu sử nào có thể làm được. Vậy nên, chúng ta hãy thử ngó thêm lần nữa vào những trang sách ố vàng của “cuốn sổ Jimmy” cũ kỹ vốn được viết từ ngày xửa ngày xưa trong “ canh chừng” của Trăng Non.

      “15 tháng Hai, 19...

      “Tôi hạ quyết tâm hằng ngày viết vào cuốn nhật ký này hết thảy mọi hành động cả tốt cả xấu của tôi. Tôi bắt gặp ý tưởng này trong cuốn sách, và vô cùng hứng thú với nó. Tôi muốn phản ánh cách chân thực nhất. Tất nhiên, viết về những việc làm tốt dễ quá rồi, nhưng còn việc làm xấu chẳng dễ gì mà được ra.

      “Hôm nay, tôi chỉ làm duy nhất được việc xấu – có nghĩa là việc duy nhất tôi cho là xấu. Tôi tỏ thái độ xấc láo với bác Elizabeth. Bác ấy nghĩ tôi rửa bát đĩa lâu quá. Tôi chẳng thấy có lý do gì cần phải vội vã cả, mà tôi lại còn bận sáng tác câu chuyện tên là Bí mật của chiếc cối xay. Bác Elizabeth nhìn tôi rồi nhìn đồng hồ, và thái độ gắt gỏng nhất trần đời,

      “ 'Cháu là chị em với loài ốc sên đấy à, Emily?'

      “ '! Ốc sên chẳng có dây mơ rễ má gì với cháu hết,' tôi kiêu kỳ đáp lại.

      “Vấn đề nằm ở câu của tôi, mà chính cách tôi mới thể xấc láo. Và tôi chủ tâm làm thế. Tôi tức đến nổ đom đóm mắt – hễ cứ bị ai chỉ trích là y như rằng tôi lại phát cáu. Chuyện xong rồi tôi lại thấy hối hận vô cùng vì cáu giận – nhưng tôi hối hận vì làm thế ngu ngốc và ra dáng đoan trang chứ phải vì thấy tội lỗi. Vậy nên chắc hẳn cũng thể coi đó là ăn năn hối lỗi đích thực được.

      “Về việc tốt hôm nay tôi làm được hai việc. Tôi cứu sống hai sinh mạng bé bỏng. Sal Ngổ Ngáo tóm được chú chim sẻ mắt đen đáng thương, và tôi đoạt lấy chú ta từ tay nàng. Chú sẻ hối hả bay mất, và tôi dám chắc chú ta vô cùng hạnh phúc. Sau đó, tôi xuống chỗ chạn bát trong hầm và phát ra con chuột bị kẹp chân vào bẫy. Con vật tội nghiệp nằm đó, sức tàn lực kiệt do vùng vẫy quá nhiều, trong đôi mắt đen là ánh nhìn đó. Tôi sao kiềm lòng được nên đành thả tự do cho nó, và dù chân cẳng như thế nhưng nó vẫn nhanh chóng chuồn mất dạng. Tôi chắc chắn lắm về hành động này. Tất nhiên xét từ điểm nhìn của con chuột đây là việc tốt, nhưng theo quan điểm của bác Elizabeth sao?

      “Tối nay, bác Laura và bác Elizabeth đọc nguyên hộp đầy ắp thư từ cũ rồi sau đó đốt sạch. Hai bác ấy đọc thành tiếng và bình luận về mấy bức thư đó, trong khi tôi ngồi trong góc nhà để đan tất. Những bức thư rất thú vị và tôi biết được vô khối điều tôi chưa bao giờ biết về nhà Murray. Tôi cảm thấy tuyệt vời xiết bao vì được làm thành viên trong gia đình như thế này. Chẳng trách dân làng Hồ Blair gọi chúng tôi là “Người Được Chọn” – mặc dù họ thế phải với ý khen ngợi. Tôi cảm thấy nhất thiết phải tuân thủ nghiêm ngặt những truyền thống của dòng họ mình.

      “Hôm nay, tôi nhận được bức thư dài từ chú Dean Priest. Chú ấy trải qua mùa đông ở Algiers. Chú ấy bảo đến tháng Tư về nhà và hè tới đến ở cùng với chị , bà Fred Evans. Tôi rất vui. tuyệt biết bao nếu chú ấy ở lại Hồ Blair suốt cả mùa hè. Chưa có bất kỳ ai trò chuyện với tôi giống như chú Dean. Chú ấy là người lớn tử tế nhất và thú vị nhất tôi từng biết. Bác Elizabeth bảo chú ấy là kẻ ích kỷ, giống hệt những người mang họ Priest. Nhưng hồi đó bác ấy đâu có quý gì nhà Priest. Lúc nào bác ấy cũng gọi chú ấy là Lưng Bình, và chẳng hiểu sao cứ nghe thế tôi lại thấy khó chịu. bên vai của chú Dean cao hơn vai bên kia , nhưng đó có phải lỗi của chú ấy đâu. Tôi từng có lần với bác Elizabeth rằng tôi mong sao bác ấy đừng gọi bạn tôi như thế, nhưng bác ấy chỉ bảo,

      “ 'Có phải ta đặt biệt danh cho bạn của cháu đâu, Emily. Từ xưa đến nay họ hàng nhà cậu ta lúc nào chẳng gọi cậu ta là Lưng Bình. Nhà Priest đâu có vang danh vì lịch thiệp đâu!'

      “ Teddy cũng nhận được thư từ chú Dean, và thêm cả cuốn sách nữa – Cuộc đời những họa sĩ vĩ đại - Michael Angelo, Raphael, Velasquez, Rembrandt, Titian. Cậu ấy bảo dám để cho mẹ cậu ấy nhìn thấy cậu ấy đọc cuốn sách này, thể nào bà ấy cũng đốt cho xem. Tôi tin chắc chỉ cần có cơ hội, Teddy rồi cũng trở thành nghệ sĩ vĩ đại như bất kỳ ai trong số đó thôi.”

      “18 tháng Hai, 19...

      “Hôm nay, tôi buổi tối rất dễ chịu khi mình dạo sau giờ học con đường ven suối chạy qua rừng cây bụi nhà ông John Ngạo Mạn. Vầng mặt trời màu kem là là màn tuyết trắng xóa, còn những cái bóng đổ xuống mảnh mai và u buồn đến thắt lòng. Tôi vẫn luôn cho rằng đời này, chẳng có gì đẹp bằng bóng cây. Và đến khi tôi bước vào vườn, cái bóng của tôi trông mới hay làm sao chứ, dài ngoằng ngoẵng đến độ vắt sang hẳn phía bên kia vườn. Ngay lúc đó, tôi sáng tác được bài thơ với hai câu,

      “ 'Nếu chúng ta cao ngang bóng của mình,

      bóng chúng ta cao đến mức nào.'

      “Tôi nghĩ câu thơ này rất đậm chất triết học.

      “Tối nay tôi viết truyện và bác Elizabeth biết thừa tôi làm gì nên tức giận lắm. Bác ấy mắng tôi vì tội lãng phí thời gian. Nhưng như thế đâu có lãng phí thời gian. Nhờ viết truyện, tôi trưởng thành hơn, tôi biết chắc như thế. Và chưa kể có nhiều câu khiến tôi rất thích nữa. 'Tôi e sợ cánh rừng xám' – tôi rất hài lòng với câu này. Và... 'bàng bạc oai nghiêm như ánh trăng, nàng dạo bước trong khu rừng tối'. Tôi thấy câu này khá hay. Tuy nhiên, thầy Carpenter lại bảo bất cứ khi nào cảm thấy cái gì đó đặc biệt hay tôi hãy cắt bỏ nó ngay. Nhưng chao ôi, tôi thể cắt câu ấy được, ít nhất chưa phải là bây giờ. Lạ ở chỗ, cứ khoảng ba tháng sau khi thầy Carpenter kêu tôi cắt bỏ thứ này thứ kia, tôi lại thấy thầy đúng và cảm thấy xấu hổ vì nó. Hôm nay thầy Carpenter tỏ ra chút nhân nhượng nào đối với bài luận của tôi. Thầy chẳng thấy hài lòng với bất cứ điểm nào ở nó hết.

      “ 'Trong đoạn mà có đến tận ba từ than ôi sao, Emily. Chỉ lần thôi cũng là quá nhiều trong cái năm đầy ơn phước này rồi!' 'Hấp dẫn khôn cưỡng hơn - Emily, vì Chúa, viết tiếng xem nào! Thế này chấp nhận được.'

      “Chuyện này cũng thế. Tôi tự mình đánh giá và cảm thấy nỗi xấu hổ lan tỏa khắp châu thân như con sóng đỏ bừng. Rồi, sau khi thầy Carpenter dùng bút chì xanh gạch gần như tất cả các câu văn, châm chọc hết thảy những đoạn văn hay ho của tôi và gần như động đến cấu trúc câu nào cũng đều lôi ra được lỗi, rồi còn bảo rằng tôi quá nghiện thể 'chủ nghĩa khôn ngoan' trong bài viết, thầy quăng cuốn vở bài tập của tôi xuống, xọc tay vào tóc và ,

      “ 'Trò mà đòi viết lách ấy hả! Ngọc Bích này, cầm lấy thìa rồi học nấu nướng !'

      “Rồi thầy sải bước bỏ , lẩm bẩm những câu nguyền rủa ' đao to búa lớn nhưng vô cùng thâm thúy'. Tôi nhặt bài luận tội nghiệp của mình lên, trong lòng cũng đến nỗi quá khổ sở. Tôi vốn biết nấu nướng rồi, thêm nữa thời gian qua, tôi ít nhiều hiểu thầy Carpenter. Bài luận của tôi càng đặc sắc, cơn giận dữ của thầy dành cho chúng càng dữ dội. Chắc hẳn bài luận này cũng tương đối ổn. Nhưng thầy vẫn giận dữ và mất kiên nhẫn vì thầy nhìn ra có những chỗ lẽ ra tôi còn có thể làm tốt hơn nữa, ấy vậy mà tôi lại làm được – vì cẩu thả, vì lười nhác hoặc vì thờ ơ. Mà thầy cách nào chịu nổi người dù có khả năng nhưng lại chịu làm cho tốt hơn. Và nếu cho rằng tôi có thể sớm đạt được điều gì đó chắc hẳn thầy cũng chẳng buồn bận tâm đến tôi.

      “Bác Elizabeth tán thành ý kiến của ngài Johnson. Bác ấy cho rằng thuyết thần học của ngài mục sư đúng đắn. Trong bài giảng đạo hôm Chủ nhật vừa rồi, ông ấy bảo đạo Phật cũng có nhiều điểm hay.

      “ 'Rồi hôm sau thể nào ông ấy cũng bảo rằng giáo hội La Mã cũng có cái hay cho xem,' bác Elizabeth phẫn nộ lên tiếng lúc ngồi ăn tối.

      Có thể ở đạo Phật cũng có nhiều điểm hay chứ. Khi nào chú Dean trở về, tôi phải hỏi chú ấy vấn đề này mới được.”

      “2 tháng Ba, 19...

      “Hôm nay, tất cả mấy bác cháu đều phải dự đám tang – của bà cụ Sarah Paul. Từ trước đến nay tôi vẫn thích dự đám tang. Khi nghe tôi thế, bác Elizabeth có vẻ choáng váng đến điếng người, còn bác Laura , 'Ôi, Emily dấu!' Kể mà có thể khiến bác Elizabeth choáng váng đến điếng người tôi cũng thấy khá thích thú, nhưng tôi bao giờ thấy thoải mái nếu lỡ làm phiền lòng bác Laura – bác ấy đáng mến đến thế cơ mà – vậy nên tôi bèn giải thích, hay đúng ra là cố gắng giải thích. Nhiều khi khó giải thích mọi chuyện với bác Elizabeth.

      “ 'Đám tang thú vị mà bác,' tôi . 'Và buồn cười nữa.'

      “Có lẽ tôi thế chỉ càng khiến cho tình hình thêm tồi tệ. Tuy nhiên, bác Elizabeth cũng biết chẳng kém gì tôi rằng thú vị xiết bao khi được chứng kiến mấy người họ hàng của bà Paul, những người suốt bao nhiêu năm nay vẫn căm ghét và thường xuyên cãi cọ với bà – lúc còn sống bà cụ cũng chẳng phải người thân thiện gì cho cam! – ngồi ở đó, vùi mặt vào khăn tay giả vờ nức nở. Tôi biết thừa từng người bọn họ cũng như tất cả những gì bọn họ nghĩ trong lòng. Jake Paul băn khoăn biết liệu có khả năng bà già cay nghiệt đó viết di chúc để lại chút gì cho ông ta ... còn Alice Paul, vốn biết mười mươi bà ta chẳng nhận được gì, hy vọng Jake Paul cũng phải chịu số phận tương tự. Nếu thế bà ta mới thấy mãn nguyện. Bà vợ của Charles Paul tự hỏi đến lúc nào bà ta được tùy ý xử lý ngôi nhà theo đúng cách bà ta khao khát từ lâu nhưng bà Paul chẳng bao giờ đồng ý. Còn dì Min sốt hết cả ruột, chỉ sợ có đủ bánh nướng phục vụ cho đám họ hàng xa bốn đời vốn chẳng bao giờ được họ chờ mong hay muốn gặp, trong khi Lisette Paul đếm người và lấy làm bực mình vì số người tham dự đông bằng đám tang của bà Henry Lister hồi tuần trước. Lúc tôi lại chuyện này với bác Laura, bác ấy nghiêm nghị ,

      “ 'Có thể mọi chuyện đúng như thế , Emily'-(bác ấy biết thừa đó là mà!) - 'nhưng tóm lại, có vẻ được đúng đắn lắm nếu mới tí tuổi đầu như cháu có thể... có thể nhìn ra những thứ này.'

      “Tuy nhiên, tôi thể nhìn ra những điều này. Bác Laura dấu lúc nào cũng cảm thấy tiếc thương vô hạn cho mọi người đến nỗi bác ấy chẳng thể nhận ra mặt khôi hài của họ. Nhưng tôi còn thấy cả những điều khác nữa. Tôi nhìn thấy Zack Fritz bé bỏng, cậu bé được bà Paul nhận nuôi và chăm sóc rất tận tình, đau khổ đến mức gần như suy sụp, và tôi còn nhìn thấy bà Martha Paul day dứt hổ thẹn khi nhớ đến cuộc cãi cọ gay gắt hồi xưa với bà Paul... tôi nhìn thấy khuôn mặt bà Paul, lúc sống vốn cau có khó đăm đăm là thế, vậy mà giờ lại thanh thản, oai nghiêm và thậm chí còn đẹp nữa... như thể cuối cùng Tử thần cũng làm bà thỏa mãn.

      “Phải, các đám tang quả là thú vị.”

      “5 tháng Ba, 19...

      “Tối nay, tuyết rơi . Tôi thích nhìn màn tuyết lất phất đâm xiên những thân cây tối sẫm.

      “Có lẽ hôm nay tôi làm việc tốt. Jason Merrowby đến đây giúp bác Jimmy xem gỗ, và tôi nhìn thấy ông ấy lẻn vào chuồng lợn, dốc chai rượu tợp hớp. Nhưng tôi hé răng kể lại chuyện này với bất kỳ ai... việc tốt của tôi là thế đấy.

      “Có lẽ tôi nên kể với bác Elizabeth, nhưng nếu vậy, bác ấy bao giờ thuê ông ấy nữa, mà ông ấy lại khát việc, vì còn phải trong nom người vợ và đàn con tội nghiệp. chẳng phải lúc nào cũng dễ dàng phân biệt được chắc chắn hành động của ta là tốt hay xấu.”

      “20 tháng Ba, 19...

      “Hôm qua bác Elizabeth cáu điên lên vì tôi chịu viết 'điếu thi' cho ông Peter Degeer mới chết tuần trước. Bà DeGeer đến đây nhờ tôi viết hộ. Nhưng tôi chịu... tôi cực kỳ phẫn nộ trước đề nghị kiểu thế. Tôi thấy làm thế chẳng khác nào báng bổ nghệ thuật của tôi... nhưng tất nhiên tôi như vậy với bà DeGeer rồi. Nếu ra thế thể nào bà ấy cũng đau lòng lắm cho xem, thêm nữa bà ấy cũng còn lâu mới hiểu dù chỉ xíu xiu ý tôi muốn . Đến cả bác Elizabeth cũng vậy, sau khi bà DeGeer rồi, tôi giải thích lý do từ chối với bác ấy, nhưng bác ấy có hiểu đâu.

      “ 'Cháu toàn viết hàng đống thứ vớ vẩn chẳng ai thèm,' bác ấy . 'Có lẽ cháu nên viết thứ được người khác mong muốn. Nó mang lại niềm vui cho bà cụ Marry DeGeer tội nghiệp. Lại còn “báng bổ nghệ thuật của cháu” nữa cơ đấy. Nếu nhất thiết phải giải thích sao cháu chọn cách cho có lý chút hả Emily?'

      “Tôi bèn tìm cách năng cho có lý.

      “ 'Bác Elizabeth,' tôi nghiêm túc, 'làm sao cháu có thể viết thơ điếu cho bà ấy chứ? Cháu thể viết bài điếu văn sai chỉ cốt để mang lại niềm vui cho bất kỳ ai. Mà chính bác cũng biết là muốn về ông Peter DeGeer làm sao có bài điếu văn nào vừa hay ho tốt đẹp vừa chân thực được chứ!'

      “Bác Elizabeth cũng biết vậy, thế nên bác ấy đâm ra bối rối, nhưng chính vì thế bác ấy lại càng bực mình với tôi hơn. Bác ấy cáu kỉnh quá đỗi đến mức tôi quyết định leo lên phòng viết 'điếu thi' về ông Peter, nhưng chỉ nhằm mua vui cho bản thân thôi. Hiển nhiên, viết điếu văn chân thực về người ta chẳng quý gì cho cam là công việc thú vị sao tả xiết. thế có nghĩa là tôi ghét ông Peter Degeer đâu nhé; tôi chỉ coi thường ông ta giống như thái độ của tất cả những người khác thôi. Nhưng bác Elizabeth khiến tôi bực mình, mà cứ khi nào bực mình là y như rằng tôi viết lách cay nghiệt ra trò. Và lại lần nữa, tôi cảm thấy Điều Gì Đó viết thông qua tôi... nhưng là Điều Gì Đó khác hẳn bình thường... Điều Gì Đó đầy ác ý và châm biếm háo hức chế nhạo ông lão Peter DeGeer giả nhân giả nghĩa, lố bịch, dối trá, vụng về, lười biếng, nghèo khổ. Ý tưởng... ngôn ngữ... vần điệu... tất cả dường như cứ thế rơi vào đúng nơi đúng chỗ trong khi Điều Gì Đó khúc khích cười khoái trá.

      “Tôi cảm thấy bài thơ ấy đặc sắc, khiến tôi thể cầm lòng được nên hôm nay mang nó đến trường cho thầy Carpenter đọc. Tôi cứ đinh ninh thầy thể nào cũng thích nó... mà có lẽ thầy cũng thích , xét phương diện nào đó, nhưng sau khi đọc xong, thầy bỏ bài thơ xuống và nhìn tôi.

      “ 'Có lẽ nhạo báng kẻ thất bại chuyện ít nhiều thú vị ,' thầy . 'Ông lão Peter khốn khổ là kẻ thất bại... và ông ấy chết... Đấng Tạo Hóa có thể khoan dung với ông ấy, thế mà đồng loại của ông ấy lại . Khi ta chết , Emily, lẽ nào trò cũng viết thế này về ta? Trò có năng lực... ồ, đúng vậy đấy, nó rành rành ở đây này... cái này quả thực rất đặc sắc. Trò có thể khắc họa yếu đuối, ngốc nghếch và xấu xa của nhân vật theo cách độc đáo đến mức đáng ngạc nhiên so với ở độ tuổi của trò. Nhưng... làm thế có đáng , Emily?'

      “ ' ạ... ,' tôi . Tôi quá xấu hổ và hối hận đến nỗi chỉ muốn trốn sang chỗ khác mà khóc. kinh khủng xiết bao khi nghĩ đến chuyện thầy Carpenter tưởng tượng ra tôi có khi nào đó viết thư như thế về thầy, sau hết thảy những gì thầy làm cho tôi.

      “ 'Nó đáng,' thầy Carpenter . 'Luôn có chỗ cho nhạo báng... có những chứng hoại tử chỉ có thể bị đốt đến kiệt cùng... nhưng hãy để việc đốt cháy đó cho những bậc thiên tài. Hàn gắn tốt hơn gây tổn thương nhiều. Những kẻ thất bại chúng ta biết điều đó.'

      “ 'Ôi, thầy Carpenter!' tôi kêu lên. Tôi muốn rằng thầy phải kẻ thất bại... tôi muốn hàng trăm điều... nhưng thầy ngăn tôi lại.

      “ 'Nào... nào, chúng ta đến vấn đề đó, Emily. Khi ta chết, hãy rằng, “Ông ấy là kẻ thất bại, và ai ý thức được điều đó cách sâu sắc hơn hay cảm nhận về nó cách cay đắng hơn chính bản thân ông ấy.” Hãy khoan dung với những kẻ thất bại, Emily. Cứ việc châm biếm những điều xấu xa nếu trò còn cách nào hơn... nhưng hãy thương cảm những người yếu đuối.'

      “Rồi thầy quay , gọi cả lớp vào học. Tôi dằn vặt yên suốt từ lúc ấy và tối nay thể nào cũng trằn trọc ngủ được cho mà xem. Nhưng ngay bây giờ, bằng thái độ nghiêm túc nhất, tôi ghi lại trong cuốn nhật ký lời thề này, Ngòi bút của tôi hàn gắn chứ gây tổn thương. Và, bất chấp có phải đầu thời Victoria hay , tôi vẫn viết nó bằng chữ nghiêng, bởi vì tôi cực kỳ cực kỳ nghiêm túc.

      “Tuy nhiên, tôi xé bỏ bài thơ ấy... tôi thể... nó quá hay khiến tôi đành lòng phá hủy. Tôi cất nó vào tủ riêng để khi nào thích lôi ra đọc lại lần nữa, nhưng tôi bao giờ đưa nó cho bất kỳ ai xem.

      “1 tháng Tư, 19...

      “Hôm nay, vị khách đến thăm làng Hồ Blair câu khiến tôi vô cùng bức bối. Tôi ở bưu điện tình cờ gặp vợ chồng ông Alec Sawyer, vốn sống ở Charlottetown. Bà Sawyer rất xinh đẹp, thời trang và thích ra vẻ kẻ cả. Tôi nghe thấy bà ta với chồng, ' chẳng hiểu sao dân tình ở cái xứ buồn tẻ này có thể tiếp tục sống ở đây hết năm này qua năm khác như thế nhỉ? Tôi phát điên lên cho mà xem. Chẳng có chuyện gì xảy ra ở đây cả.'

      “Tôi những muốn kể cho bà ta nghe vài điều về làng Hồ Blair. Lẽ ra tôi có thể trả thù bằng màn châm biếm. Nhưng, tất nhiên, người ở trang trại Trăng Non gây chuyện thị phi giữa chốn công cộng. Vậy nên tôi đành tự thỏa mãn bằng cách cúi chào cực kỳ lạnh lùng khi bà ta chuyện với tôi và rồi sau đó lướt qua bà ta. Tôi nghe tiếng ông Sawyer , ' đó là con cái nhà ai vậy?' và bà Sawyer trả lời, 'Chắc hẳn là con mèo nhà Starr đó rồi... ta có cái kiểu ngẩng cao đầu đúng phong cách Murray, thế đấy.'

      “Cứ thử nghĩ đến việc 'chẳng có chuyện gì xảy ra ở đây cả' xem! Sao chứ, ngay bây giờ xảy ra đầy chuyện đấy thôi... những chuyện ly kỳ hồi hộp. Tôi thấy cuộc sống nơi đây tuyệt vời bút nào tả xiết. Chúng tôi lúc nào cũng có đầy thứ để cười, để khóc, để chuyện trò.

      “Cứ thử nhìn lại hết thảy những chuyện xảy ra tại làng Hồ Blair ba tuần gần đây xem... cả bi cả hài đều đủ cả. Ông James Baxter bất thình lình thèm năng gì với vợ mình mà chẳng ai biết tại sao. Bà ấy cũng biết, tội nghiệp thay, và bà ấy vô cùng đau khổ vì chuyện đó. Ông cụ Adam Gillian, luôn ghét cay ghét đắng bất cứ hành động giả vờ nào, mới mất cách đây hai tuần, và câu cuối cùng của ông ấy là, 'Nhớ coi sóc sao cho đừng ai gào rú khóc lóc gì tại đám tang của ta.' Vậy là chẳng ai gào rú hay khóc lóc gì. Có ai muốn làm thế đâu cơ chứ, và vì ông ấy cấm đoán thế rồi nên cũng chẳng ai buồn giả vờ làm gì cho mất công. Trước nay Hồ Blair chưa từng có đám tang nào vui vẻ như thế. Tôi chứng kiến nhiều đám cưới còn sầu bi hơn thế nhiều, chẳng hạn như đám cưới của Ella Brice ấy. Chuyện phủ đám mây đen lên ngày cưới của ấy chính là lúc thay trang phục ấy quên béng mất phải giày trắng mà xỏ nguyên đôi dép trong nhà cũ rích bạc phếch hở cả ngón chân vào phòng khách. tình, cho dù ấy chẳng xỏ bất cứ thứ gì xuống đấy người ta cũng chẳng thể bàn tán nhiều hơn được. Vì chuyện này mà Ella khốn khổ khóc lên khóc xuống suốt buổi tiệc cưới.

      “Ông già Robert Scobie cãi nhau trận ra trò với em cùng cha khác mẹ, sau khi sống bên nhau suốt ba mươi năm mà chưa bao giờ to tiếng với nhau dẫu chỉ lần, dù nghe bà ấy rất hay khiến người khác bực mình. Từ trước tới giờ, bất kể bà ấy làm gì hay ông Robert cũng bao giờ giận dữ, nhưng có vẻ như hôm nọ, sau bữa tối chỉ còn thừa lại mỗi cái bánh rán, mà đây lại là món khoái khẩu của ông Robert. Ông ấy cất cái bánh vào trong chạn, định để dành ăn đêm, ấy vậy nhưng đến lúc quay lại lấy bánh ông phát ra bà Matilda chén sạch mất rồi. Ông ấy bèn nổi giận đùng đùng, kéo mũi bà ấy mà gọi bà ấy là mụ đàn bà xấu xa, rồi đuổi bà ấy ra khỏi nhà. Bà ấy bèn khăn gói đến sống cùng người em ở Ao Thành Kiến, và ông Robert sắp phải sống mình rồi. Hai người bọn họ chẳng bao giờ chịu tha thứ cho nhau đâu, người nhà Scobie là thế mà, và cũng chẳng ai còn có thể sống vui vẻ mãn nguyện được nữa.

      đêm trăng sáng từ cách đây hai tuần, George Lake đường từ Ao Thành Kiến về nhà bất thình lình nhìn thấy cái bóng đen sì sì ngay bên cạnh cái bóng của ta, lớp tuyết lấp loáng ánh trăng.

      Mà ở đó lại chẳng có bất cứ thứ gì để đổ cái bóng đó xuống.

      ta vội ba chân bốn cẳng chạy đến ngôi nhà gần nhất, sém chết vì sợ, và người ta bảo ta chẳng bao giờ trở lại như xưa được nữa.

      “Đây là chuyện ly kỳ nhất từng xảy ra. Đến tận lúc viết lại tôi vẫn còn thấy rùng mình. Tất nhiên George hẳn phải nhìn nhầm rồi. Nhưng ta vốn là người trung thực, và cũng uống rượu. Tôi biết phải nghĩ gì về chuyện này nữa.

      “Arminius Scobie là người thuộc dạng đo lọ nước mắm, đếm củ dưa hành, và luôn giành phần mua mũ cho vợ để ngừa trường hợp bà ấy tiêu quá nhiều cho món đó. Các cửa hàng ở Shrewsbury đều biết chuyện này, và ai cũng cười nhạo ông ta. Tuần vừa rồi, hôm ông ta đến cửa hàng 'Jones và McCallum' để mua mũ cho vợ, ông Jones bảo tặng cái mũ đấy cho ông ta nếu ông ta chịu đội cái mũ đó diễu từ cửa hàng đến nhà ga. Arminius làm theo ngay. Cửa hàng cách ga tầm phần tư dặm, và đám con trai ở Shrewsbury kéo hết ra đường chạy theo sau hú huýt chế giễu ông ta. Nhưng Arminius chẳng buồn bận tâm gì. Ông ta tiết kiệm được ba đô la bốn mươi chín xu còn gì.

      , tối, ngay tại Trăng Non, tôi đánh rơi quả trứng luộc lòng đào lên chiếc váy cashmere đẹp thứ nhì của bác Elizabeth. Đó đúng là kiện đấy. Cho dù vương quốc ở châu Âu bị sụp đổ cũng chẳng thể so được với độ chấn động ở Trăng Non khi ấy.

      “Vậy nên, thưa phu nhân Sawyer, bà nhầm to rồi. Thêm nữa, bên cạnh hết thảy những kiện đó, dân làng nơi đây đều rất thú vị. Tôi quý tất cả mọi người, nhưng tôi thấy ai cũng thú vị... bà Matty Small bốn mươi tuổi nhưng ăn mặc lòe loẹt kinh hồn... suốt mùa hè vừa rồi, lần nào đến nhà thờ bà ấy cũng mặc cái váy màu hồng xỉn kèm mũ màu đỏ tươi... rồi ông cụ Reuben Bascom, lười đến độ có hôm trời mưa tầm tã suốt đêm, nước tong tong từ mái nhà dột, thế mà ông ấy thà giương ô che cả đêm còn hơn đứng dậy kéo giường ra chỗ khác... Elder McCloskey, lúc kể câu chuyện về người truyền giáo trong buổi cầu nguyện tập thể, cứ đinh ninh rằng nhắc đến 'quần' được phù hợp lắm, vậy nên lúc nào cũng cách lịch là 'trang phục cho các bộ phận phía dưới của ông ấy'... Amasa Derry, mùa thu vừa rồi giành được bốn giải thưởng tại cuộc Triển lãm nhờ đống rau ông ta lấy trộm từ cánh đồng của Ronnie Bascom trong khi Ronnie chẳng kiếm được giải nào... Jimmy Joe Belle, hôm qua từ Ao Thành Kiến đến đây lấy ít gỗ xẻ để 'sây cái truồng gà tro trú tró bé bỏng của tôi'... ông Luke Ellitott, nghiện tính hệ thống đến đỗi vào ngày đầu năm vạch ra bản kế hoạch cho cả năm liền, rồi lập biểu đồ cho tất cả những ngày ông ta định say sưa bét nhè... và bám sát theo kế hoạch đó... tất cả bọn họ đều thú vị, khôi hài và hấp dẫn.

      “Đấy, tôi chứng minh cho bà Alex Sawyer thấy bà ta nhầm lẫn tuyệt đối rồi, vậy nên tôi cảm thấy khá thoải mái với bà ta, cho dù bà ta gọi tôi là con mèo.

      “Được gọi là mèo có gì khiến tôi thích chứ, loài mèo vốn đáng đến thế cơ mà. Và tôi thích được gọi là mèo con.

      “28 tháng Tư, 19...

      “Cách đây hai tuần, tôi gửi bài thơ hay nhất của mình, Khúc ca ngọn gió, cho tờ tạp chí ở New York, và hôm nay nó quay trở lại kèm theo mỗi mẩu giấy in viết, 'Rất tiếc, chúng tôi thể sử dụng tác phẩm này.'

      “Tôi cảm thấy khủng khiếp. Có lẽ tôi chẳng thể nào viết được bất kỳ thứ gì đó cho ra hồn.

      “Tôi có thể chứ. Rồi có ngày tờ tạp chí đó lấy làm vui mừng khi được đăng tải các tác phẩm của tôi.

      “Tôi kể với thầy Carpenter về chuyện gửi bài thơ này . Còn lâu tôi mới được thầy thông cảm. Thầy ấy bảo phải năm năm nữa mới đến lúc làm phiền các biên tập viên. Nhưng tôi biết nhiều bài thơ tôi đọc được chính tờ tạp chí đó chẳng có chút xíu gì đặc sắc hơn so với Khúc ca ngọn gió.

      có mùa nào trong năm khơi dậy cảm hứng làm thơ trong tôi cách mãnh liệt hơn mùa xuân. Thầy Carpenter bảo tôi hãy cố mà kiềm chế cơn bốc đồng . Thầy bảo mùa xuân phải chịu trách nhiệm cho nhiều thứ rác rưởi hơn bất kỳ thứ gì khác trần gian.

      “Cách của thầy Carpenter có ý vị nào đó.”

    4. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,824
      “1 tháng Năm, 19...

      “Chú Dean ở nhà. Hôm qua chú ấy đến chỗ chị và tối nay sang đây, hai chú cháu dạo bộ trong vườn, vừa lại lại con đường đồng hồ mặt trời vừa trò chuyện. tuyệt biết bao khi chú ấy quay trở lại, cùng đôi mắt xanh huyền bí và cái miệng đẹp đẽ.

      “Chúng tôi trò chuyện rất lâu. Chúng tôi chuyện về thành phố Algiers, về đầu thai của các linh hồn, về việc bị hỏa táng và về các khuôn mặt nhìn nghiêng... Chú Dean tôi có khuôn mặt nhìn nghiêng đẹp... 'người Hy Lạp thuần khiết'. Tôi luôn thích lời khen ngợi của chú Dean.

      “ 'Nhìn xem cháu lớn thế nào này, Sao Mai!' chú ấy kêu lên. 'Mùa thu năm ngoái ta bỏ lại đứa trẻ... và giờ về ta thấy phụ nữ!'

      “(Ba tuần nữa tôi mười bốn tuổi, và tôi khá cao so với bạn bè đồng lứa. Có vẻ chú Dean thấy chuyện này rất đáng mừng... khác hẳn với bác Laura, cứ mỗi khi đo váy cho tôi là bác ấy lại thở dài thườn thượt và thấy bọn trẻ con sao lớn quá nhanh.)

      “ 'Thời gian trôi qua như thế đấy,' tôi , trích dẫn câu cái đồng hồ mặt trời, và cảm thấy nó khá tinh tế.

      “ 'Cháu cao gần bằng chú rồi này,' chú ấy ; rồi bổ sung bằng giọng có phần cay đắng, 'tất nhiên Lưng Bình Priest đâu có cao lớn oai nghiêm gì.'

      “Cứ mỗi khi nghe nhắc đến lưng chú ấy, dù theo cách nào nữa, tôi đều thấy rùng mình, nhưng lần này, tôi ,

      “ 'Chú Dean, chú đừng cười nhạo bản thân như thế... ít nhất, cũng đừng làm thế với cháu. Cháu bao giờ nghĩ chú là Lưng Bình.'

      “Chú Dean nắm tay tôi, rồi nhìn thẳng vào mắt tôi như thể cố gắng soi thấu linh hồn tôi.

      “ 'Cháu có chắc chắn về chuyện đó , Emily? Lẽ nào cháu thường xuyên mong ước chú bị khập khiễng... và bị gù?'

      “ 'Cháu vẫn thường ước mong như thế vì chú,' tôi trả lời, 'nhưng đối với cháu, dù thế nào cũng có gì thay đổi cả... và mãi mãi luôn như thế.'

      “ 'Và mãi mãi luôn như thế!' chú Dean nhắc lại những lời này bằng giọng mạnh mẽ. 'Giá như chú có thể tin chắc vào chuyện đó, Emily... giá như chú có thể tin chắc vào chuyện đó.'

      “ 'Chú có thể tin chắc vào điều đó được chứ,' tôi nồng nhiệt tuyên bố. Tôi rất bực bội vì chú ấy có vẻ nghi ngờ chuyện đó... tuy nhiên vẻ mặt chú ấy có gì đó khiến tôi cảm thấy mấy thoải mái. Đột nhiên, tôi nhớ đến hồi chú ấy cứu tôi thoát khỏi mỏm đá vịnh Malvern, chú ấy từng bảo cuộc đời tôi thuộc về chú ấy kể từ khi chú ấy cứu mạng tôi. Tôi thích nghĩ rằng cuộc đời tôi lại thuộc về bất kỳ ai ngoài chính bản thân tôi... cho dù là bất kỳ ai cũng , ngay cả Dean, cho dù tôi rất quý chú ấy. Và xét số phương diện, tôi quý chú Dean hơn bất kỳ ai thế giới này.

      “Khi trời tối dần, các vì sao ló dạng và chúng tôi ngắm nhìn chúng thông qua cái ống nhòm mới tuyệt vời của chú ấy. thú vị biết bao. Chú Dean biết hết mọi thứ về các vì sao... tôi cứ có cảm giác cái gì chú ấy cũng biết. Nhưng khi tôi thế, chú ấy lại bảo,

      “ 'Có bí mật mà chú biết... chú sẵn sàng đánh đổi tất cả những thứ khác để biết về nó... bí mật... có lẽ chú chẳng bao giờ biết. Cách để giành được... cách để giành được...'

      “ 'Cái gì ạ?' tôi tò mò hỏi.

      “ 'Mong ước cháy bỏng của trái tim chú,' chú Dean vừa mơ màng vừa ngước nhìn vì sao lung linh dường như treo tít tận ngọn của trong Ba Nàng Công Chúa. ' tại nó có vẻ xa vời và đáng khao khát chẳng khác gì vì sao lung linh như viên ngọc kia, Emily ạ. Nhưng... ai mà biết được chứ?'

      biết thứ gì mà lại khiến chú Dean khát khao đến vậy nhỉ.”




      “4 tháng Năm, 19...

      “Chú Dean mang đến cho tôi cái cặp giấy đựng hồ sơ rất đáng mua từ Paris, và tôi chép vào mặt trong tấm bìa khổ thơ tôi thích nhất trích từ bài Hoa long đởm mắt rợp. Tôi đọc nó mỗi ngày và nhớ lại lời thề 'leo lên Đường Alps'. Tôi bắt đầu nhận ra mình phải nỗ lực bò lên từng chút , mặc dù có lẽ tôi từng mong ngóng mình phóng thẳng tới 'mục tiêu xa vời vợi đó' bằng đôi cánh chói lọi. Thầy Carpenter gạt phắt giấc mơ thơ ngây đó.

      “ 'Bấu ngón chân và nghiến chặt răng vào... đó là cách duy nhất đấy,' thầy .

      “Tối qua, lúc nằm giường, tôi nghĩ ra được mấy cái tên khá hay ho để đặt cho những cuốn sách tôi viết trong tương lai - Tiểu thư cao quý; Trung thành với đức tin và lời thề nguyện; Ôi, Margaret xanh xao quý giá (Tôi mượn ý này của Tennyson), Tầng lớp Vere de Vere (như ) và Vương quốc bờ biển.

      “Chao, giá như tôi có thể nảy ra các ý tưởng phù hợp với những cái tên kia!

      “Tôi viết câu chuyện lấy tên là Ngôi nhà giữa cụm thanh hương trà... cũng là cái tên rất hay, tôi cho là thế. Nhưng màn chuyện đương vẫn làm tôi thấy phiền quá. Cho dù có viết gì chăng nữa ngay khi vừa đặt bút xuống, tôi cảm thấy nó cứng nhắc và ngớ ngẩn đến độ tôi chỉ muốn phát điên. Tôi định nhờ chú Dean dạy tôi viết sao cho phải, vì hồi xưa chú ấy từng hứa dạy tôi rồi, nhưng chú ấy lại bảo tôi vẫn còn quá ... chú ấy thế với kiểu cách bí quen thuộc dường như luôn khiến người ta cảm thấy có quá nhiều ý đằng sau câu chữ đơn thuần. Tôi chỉ mong sao mình cũng có thể năng cách giàu ý nghĩa như thế, vì nó khiến ta trở nên vô cùng thú vị.

      “Tối nay sau khi từ trường về, tôi và chú Dean ngồi chiếc ghế đá giữa vườn, bắt đầu đọc lại Alhambra. Cứ mỗi lần đọc, cuốn sách lại khiến tôi có cảm giác như thể mình vừa mở cách cửa và bước thẳng vào vùng đất thần tiên.

      “ 'Ước gì cháu được đến thăm Alhambra!' tôi .

      “ 'Rồi có ngày chúng ta đến thăm nơi đó... cùng nhau,' Dean .

      “ 'Ôi, thế thích quá,' tôi kêu lên. 'Chú nghĩ liệu chúng ta có bao giờ làm được , chú Dean?'

      “Nhưng chú Dean chưa kịp trả lời tôi nghe thấy tiếng huýt sáo của Teddy vang lên trong rừng cây bụi nhà ông John Ngạo Mạn, tiếng huýt sáo thân thương khe khẽ với hai nốt cao ngắn và nốt trầm dài, đó chính là dấu hiệu của chúng tôi.

      “ 'Cháu xin lỗi, cháu phải rồi. Teddy gọi cháu,' tôi .

      “ 'Hễ Teddy gọi là cháu đều phải à?' chú Dean hỏi.

      “Tôi gật đầu giải thích,

      “ 'Cậu ấy chỉ gọi thế những lúc đặc biệt muốn gặp cháu, và cháu hứa gặp cậu ấy bất cứ lúc nào, miễn là cháu có thể.'

      “ 'Chú đặc biệt muốn gặp cháu đấy chứ!' chú Dean . 'Tối nay chú đến đây cốt để đọc Alhambra cùng cháu mà.'

      “Đột nhiên tôi cảm thấy vô cùng khổ sở. Tôi rất muốn lại ở cùng chú Dean, nhưng tôi lại cảm giác mình phải gặp Teddy. Chú Dean nhìn tôi bằng ánh mắt nhức nhối. Rồi chú ấy đóng sập cuốn Alhambra lại.

      “ ' ,' chú ấy .

      “Vậy là tôi ... nhưng chẳng hiểu sao, mọi chuyện dường như hỏng bét cả.”

      “10 tháng Năm, 19...

      “Tuần này tôi đọc ba cuốn sách chú Dean cho mượn. cuốn chẳng khác gì khu vườn hoa hồng, rất thú vị, nhưng hơi quá ngọt ngào. cuốn giống như rừng thông núi... nồng đượm mùi nhựa thơm. Tôi nó, nhưng nó lại đổ tràn trong tôi thứ cảm giác tuyệt vọng. Cuốn sách rất hay... tôi tin chắc mình bao giờ có thể viết được như thế. Còn cuốn kia y như cái chuồng lợn. Chú Dean đưa nhầm cuốn đó cho tôi. Lúc phát ra, chú ấy giận điên lên với bản thân... giận dữ và khổ sở nữa.

      “ 'Sao Trời... Sao Trời ạ... chú bao giờ đưa cho cháu cuốn sách như thế... bất cẩn chết tiệt của chú... hãy tha lỗi cho chú. Cuốn sách đó là bức tranh chân thực về thế giới... nhưng ơn Chúa, phải là thế giới của cháu... phải là bất kỳ thế giới nào thuộc về chúa. Sao Trời à, hứa với chú là cháu quên cuốn sách đó nhé.'

      “ 'Nếu quên được cháu quên,' tôi .

      “Nhưng tôi biết liệu mình có quên được . Nó quá gớm ghiếc. Từ lúc đọc cuốn sách ấy, tôi còn vui vẻ được nữa. Tôi cảm thấy như thể bàn tay mình chẳng hiểu sao bị vấy bẩn, và tôi chẳng cách nào rửa sạch được. những thế, tôi còn có cảm giác quái lạ khác, như thể cánh cửa nào đó sập lại sau lưng tôi, nhốt tôi lại trong thế giới mà dù hiểu hay thích tôi vẫn bắt buộc phải khám phá.

      “Tối nay tôi cố gắng viết bài miêu tả chú Dean trong cuốn sổ Jimmy tập hợp các phác thảo chân dung, nhưng tài nào làm được. Những thứ tôi viết ra giống như bức ảnh... phải chân dung. Dường như ở chú Dean vẫn có điều gì đó vượt ra ngoài tầm hiểu biết của tôi.

      “Hôm nọ, chú Dean chụp cho tôi bức ảnh bằng cái máy ảnh mới của chú ấy, nhưng chú ấy hài lòng với nó.

      “ 'Trông chẳng giống cháu gì cả,' chú ấy . 'Nhưng tất nhiên, ai mà có thể chụp ảnh được ánh sao kia chứ.'

      “Rồi chú ấy bổ sung, cách khá gay gắt, theo ý tôi là thế,

      “ 'Cháu nhớ bảo nhóc tiểu quỷ Teddy Kent ấy đừng có mà đưa khuôn mặt cháu vào tranh của cậu ta nhé. Chẳng căn cớ gì để tranh nào cậu ta vẽ cùng đều dính cháu vào hết.'

      “ 'Cậu ấy có làm thế đâu!' tôi kêu lên. 'Này nhé, Teddy chỉ vẽ mỗi bức về cháu thôi, đúng cái bức tranh bị bà Nancy đánh cắp ấy.'

      “Tôi khá hằn học và chẳng chút ngại ngần gì, vì cho đến tận bây giờ, tôi vẫn tài nào tha thứ cho bà Nancy vì tội giữ rịt lấy bức tranh đó.

      “ 'Cậu ta đặt chút gì đó của cháu trong mọi bức tranh,' chú Dean ngoan cố . 'Mắt cháu... đường cong của cổ cháu... dáng đầu nghiêng nghiêng của cháu... tính cách của cháu. Đó mới là điều tệ nhất... chú quá bận tâm đến đôi mắt và các đường nét hình thể của cháu, nhưng chú để thằng nhóc đó gắn phần linh hồn của cháu vào hết thảy những thứ cậu ta vẽ. Có lẽ cậu ta ý thức được mình làm gì... mà chính thế mới càng thành vấn đề.'

      “ 'Cháu chẳng hiểu chú gì cả,' tôi , giọng khá ngạo mạn. 'Nhưng Teddy là người tuyệt vời... chính thầy Carpenter thế.'

      “ 'Và Emily ở trang trại Trăng Non nhắc lại thế! Ôi chao, thằng bé đó có tài... ngày nào đó cậu ta làm nên chuyện nếu bị bà mẹ biến thái hủy hoại cuộc đời. Nhưng cậu ta hãy biết điều mà giữ bút chì và cọ vẽ tránh xa vật sở hữu của chú ra.'

      “Chú Dean cười lớn khi câu đó. Nhưng tôi vẫn ngẩng cao đầu. Tôi phải 'vật sở hữu' của bất cứ ai, cho dù chỉ là đùa thôi cũng vậy. Và tôi bao giờ trở thành như thế.

      “12 tháng Năm, 19...

      “Chiều nay, cả bác Ruth, bác Wallace và bác Oliver đều đến đây. Tôi mến bác Oliver, nhưng cảm tình dành cho bác Ruth và bác Wallace chẳng nhiều hơn trước là bao. Họ tổ chức họp gia đình gì đó trong phòng khách với bác Elizabeth và bác Laura. Bác Jimmy cũng được tham gia, nhưng tôi bị loại ra ngoài, mặc dù tôi dám chắc cuộc họp này thế nào cũng có liên quan đến tôi. Tôi nghĩ bác Ruth cũng được làm theo ý mình, vì suốt cả bữa tối, bác ấy ngừng tỏ thái độ khinh rẻ tôi, lại còn tôi càng ngày càng gầy rớt nữa chứ! chung, bác Ruth khinh thị còn bác Wallace ra vẻ kẻ cả với tôi. Tôi vẫn thích thái độ khinh rẻ của bác Ruth hơn, vì tôi chẳng phải làm bộ thích thú gì. Tôi cố gắng nhẫn nhịn chịu đựng, nhưng rồi cũng đến lúc giọt nước làm tràn ly. Bác Ruth bảo tôi,

      “ 'Em'ly, đừng có mà cãi,' cứ như thể bác ấy chuyện với đứa trẻ ranh vậy. Tôi nhìn thẳng vào mắt bác ấy và lạnh lùng đáp lại,

      “ 'Bác Ruth ạ, cháu nghĩ bây giờ cháu quá tuổi để bị năng theo kiểu đó rồi.'

      “ 'Cháu chưa đến tuổi được phép tỏ thái độ xấc láo vô lễ đâu,' bác Ruth , kèm theo cái khịt mũi. 'Và nếu ta mà là Elizabeth ta cho cháu cái bạt tai ngay đấy, tiểu thư ạ.'

      “Tôi ghét bị gọi là Em'ly, là tiểu thư và ghét bị khịt mũi như thế! Tôi có cảm tưởng bác Ruth hội đủ hết mọi khuyết điểm của người nhà Murray, và chẳng có lấy bất kỳ đức tính tốt đẹp nào của họ hết.

      “Andrew, con trai bác Oliver cũng đến cùng bác ấy và ở lại tuần. ta lớn hơn tôi bốn tuổi.”

      “19 tháng Năm, 19...

      “Hôm nay là sinh nhật tôi. Hôm nay, tôi tròn mười bốn tuổi. Tôi viết bức thư 'Từ tôi của tuổi mười bốn cho tôi năm hai mươi bốn tuổi', dán kín lại và cất vào tủ riêng, đợi đến sinh nhật năm hai mươi bốn tuổi mở ra. Tôi viết vào đó vài dự đoán. Chẳng biết đến khi tôi mở thư những chuyện đó xảy ra chưa.

      “Hôm nay bác Elizabeth trả lại cho tôi toàn bộ sách của cha. Tôi vui mừng sao tả xiết. Đối với tôi, những cuốn sách đó dường như lưu giữ phần con người cha. Cuốn sách nào cũng đều được cha ghi tên bằng chữ viết tay, lại còn có cả các ghi chú bên lề nữa. Chúng dường như những mẩu thư cha gửi. Tôi ngắm nhìn chúng suốt cả buổi tối, và dường như lại cảm thấy cha vô cùng gần gũi, khiến tôi buồn vui lẫn lộn.

      “Hôm nay xảy ra chuyện phá hỏng cả ngày. Ở trường, đúng lúc tôi bước lên bảng để giải bài toán, bỗng nhiên mọi người bắt đầu cười khúc khích. Tôi hiểu nổi có chuyện gì. Rồi tôi phát ra ai đó dính tờ giấy lên lưng tôi, bên có dòng chữ to viết bằng mực đen: 'Emily Byrd Starr, nữ tác giả của Con vịt bốn chân'. Bọn chúng càng cười tợn hơn khi tôi giật tờ giấy ném vào thùng đựng than. Tôi vô cùng tức giận vì mọi người chế nhạo những hoài bão của tôi theo cách đó. Đến tận khi về nhà, tôi vẫn còn giận dữ và đau đớn. Nhưng rồi, lúc tôi ngồi bậc thềm ngôi nhà hóng mát, ngắm nhìn suốt năm phút liền trong những cây hoa păng xê khổng lồ màu tím của bác Jimmy, mọi giận dữ đều trôi mất sạch. Ai có thể ôm ấp cơn giận khi suốt lúc lâu dõi mắt vào tận tâm bông hoa păng xê chứ.

      “Thêm nữa, rồi đến lúc bọn chúng cười nhạo tôi được nữa!

      “Hôm qua Andrew về nhà rồi. Bác Elizabeth hỏi tôi có quý ta . Từ trước đến nay bác ấy chẳng bao giờ hỏi xem tôi có quý ai , tình cảm mến của tôi chẳng bao giờ quan trọng đủ mức cả. Chắc hẳn bác ấy bắt đầu nhận ra tôi còn là đứa trẻ nữa rồi.

      “Tôi bảo ta là người tốt, khá tử tế, ngu ngốc và chẳng có gì thú vị.

      “Bác Elizabeth cáu kỉnh đến độ thèm gì với tôi suốt cả tối. Vì sao nào? Tôi phải chứ. Mà Andrew đúng là người như thế còn gì.”

      “21 tháng Năm, 19...

      “Hôm nay, lần đầu tiên trong mùa xuân này, Già Kelly đến đây, mang theo cả đống hộp thiếc mới toanh sáng loáng. Ông ấy mang cho tôi túi kẹo như thường lệ, và trêu chọc tôi về chuyện lấy chồng, cũng y như thường lệ. Nhưng có vẻ ông ấy bận tâm chuyện gì đó, và lúc tôi xuống khu chế biến bơ sữa để lấy cho ông ấy cốc sữa như ông ấy cầu, ông ấy bèn theo tôi.

      “ ' dấu,' ông ấy giọng bí . 'Ta gặp Lưng Bình Praste đường làng. Cậu ta năng đến đây lắm phỏng?'

      “Tôi nghiêng đầu theo đúng tư thế Murray.

      “ 'Nếu ông muốn đến chú Dean Priest' tôi đáp, ' chú ấy đến đây khá thường xuyên. Chú ấy là người bạn đặc biệt của cháu.'

      “Già Kelly lắc đầu.

      “ ' dấu... ta cảnh báo cháu rồi đấy... sau này đừng bao giờ bảo ta chưa cảnh báo cháu nhé. Hôm đưa cháu đến Ao Praste, ta bảo cháu đừng bao giờ lấy người nhà Praste. Nào, có phải ta bảo thế ?'

      “ 'Ông kỳ quá, Già Kelly ạ,' tôi , vừa tức giận nhưng lại cảm thấy phi lý khi tức giận Già Jock Kelly. 'Cháu chẳng cưới ai cả. Chú Priest đáng tuổi làm cha cháu ấy chứ, và cháu chỉ là bé được chú ấy giúp đỡ việc học hành thôi.'

      “Già Kelly lại lắc đầu.

      “ 'Ta biết những người nhà Praste, iu dấu ạ. Và khi họ quyết tâm theo đuổi cái gì cháu đừng mong có thể dễ dàng xoay chuyển được tình hình. Còn cái cậu Lưng Bình này... nghe cậu ta để mắt đến cháu từ hồi câu được cháu lên khỏi vách đá Malvern ấy... cậu ta chỉ đợi cho đến lúc cháu đủ lớn là theo đuổi ngay thôi. Nghe cậu ta chẳng theo đạo nào cả, và ai cũng biết đúng lúc được rửa tội, cậu ta với tay ra giằng mất cặp kính mắt ngài mục sư đeo. Vậy nên cháu trông chờ gì chứ? Ta bảo cháu chuyện cậu ta khập khễnh và gù lưng... cái đó tự cháu nhìn cũng thấy. Hãy nghe theo lời khuyên của Già Kelly ngớ ngẩn mà buông ra khi vẫn còn kịp. Nào, đừng có nhìn ta theo cái kiểu Murray thế chứ, iu dấu. Đúng thế đấy, và ta chuyện này cũng chỉ vì muốn tốt cho cháu thôi.'

      “Tôi bỏ , để mặc ông ấy. Chẳng thể tranh luận với ông ấy về vấn đề kiểu thế được. Ước gì mọi người đừng nhét những suy nghĩ đó vào đầu tôi. Chúng cứ bám chặt vào đấy dai như đỉa vậy. Giờ mất cả tuần tôi chẳng thể cư xử thoải mái với chú Dean được, cho dù tôi biết mười mươi mọi điều Già Kelly đều chẳng có nghĩa lý gì hết.

      “Sau khi Già Kelly rồi, tôi lên phòng viết vào cuốn sổ Jimmy bài miêu tả cặn kẽ về ông ấy.

      “Ilse mới tậu được cái mũ mới đính những đám mây bằng vải tuyn xanh và những quả đào đỏ chót, mấy cái nơ to tướng bằng vải tuyn xanh ôm dưới cằm. Tôi thích nó và thế với bạn ấy. Bạn ấy tức điên lên, bảo tôi ghen tị và thèm năng gì với tôi suốt hai ngày nay. Tôi suy ngẫm rất nhiều về chuyện này. Tôi biết chắc mình ghen tị, nhưng xét cho cùng, tôi phạm sai lầm rồi. Tôi bao giờ với ai điều gì như thế nữa. Dù thực có đúng như thế chăng nữa vậy chẳng khéo léo chút nào.

      “Hy vọng ngày mai Ilse tha thứ cho tôi. Lần nào bạn ấy giận tôi, tôi cũng đều nhớ bạn ấy đến phát điên lên được. Những lúc cáu kỉnh, bạn ấy rất đáng mến, rất vui vẻ và tuyệt vời.

      “Giờ Teddy cũng hơi giận tôi. Tôi nghĩ là do Geoff North bộ về nhà với tôi sau buổi cầu nguyện tập thể tối thứ Tư vừa rồi. Tôi hy vọng đó là lý do. Tôi thích cái cảm giác mình có ảnh hưởng lớn đến thế đối với Teddy.

      biết liệu tôi có nên viết lại điều này nhỉ. Nhưng là thế.

      “Giá như Teddy biết được, tôi rất khổ sở và xấu hổ về vụ việc đó. Thoạt đầu, lúc Geoff chọn tôi trong số tất cả những đứa con khác, tôi thấy khá hãnh diện. Đó là lần đầu tiên tôi được hộ tống về nhà, trong khi Geoff lại là chàng thành thị, rất đẹp trai bóng bẩy, và mọi nàng lớn tuổi hơn ở làng Hồ Blair đều mụ mị vì ta. Vậy nên tôi hiên ngang bước ra khỏi nhà thờ cùng với ta, cảm thấy như thể mình đột nhiên trưởng thành hẳn. Nhưng mới được đoạn tôi thấy ghét ta rồi. ta quá ra vẻ ta đây. Có vẻ như ta cho rằng tôi chỉ là con bé nhà quê khờ khạo chắc chắn bị choáng ngợp trước vinh dự được đồng hành cùng ta.

      “Mà ban đầu quả đúng thế ! Chính điều đó khiến tôi day dứt mãi. Nghĩ mà xem, tôi lại là con nhóc ngu xuẩn đến thế cơ đấy!

      “Mỗi khi tôi bình luận gì, ta lại nhai nhai lại câu ' tình, em làm ngạc nhiên đấy,' bằng giọng điệu kiểu cách, lè nhè. Và ta khiến tôi phát chán. ta chẳng biết năng hợp lý về bất cứ vấn đề gì. Hoặc do ta định làm thế với tôi. Lúc chúng tôi về đến Trăng Non, tôi cáu lắm rồi. Vậy mà đến lúc đó, cái đồ thể chịu đựng nổi ấy còn bảo tôi hôn ta chứ!

      “Tôi đứng thẳng đơ người lại... ồ, giây phút đó tôi đúng là người nhà Murray trăm phần trăm. Tôi cảm thấy trông mình y hệt bác Elizabeth.

      “ 'Tôi hôn con trai,' tôi khinh khỉnh .

      “Geoff phá lên cười và chộp tay tôi.

      “ 'Sao nào, ngốc, em nghĩ đưa em về nhà để làm gì chứ?' ta hỏi.

      “Tôi giằng tay ra và bước vào nhà. Nhưng trước khi làm thế, tôi làm việc khác.

      “Tôi tát vào mặt ta!

      “Rồi tôi lên phòng, hổ thẹn khóc nức nở vì bị sỉ nhục, và vì tỏ thái độ thiếu đứng đắn đến thế trong cơn phẫn uất. Giữ thái độ đứng đắn là truyền thống ở Trăng Non, và tôi cảm thấy mình phản bội nó.

      “Nhưng có lẽ tôi khiến Geoff North 'ngạc nhiên' cách thích đáng nhất!”

      “24 tháng Năm, 19...

      “Hôm nay Jennie Strang bảo tôi rằng Geoff North với của cậu ấy tôi là kẻ 'tầm thường nóng tính' và ta chịu đủ rồi.

      “Bác Elizabeth phát ra Geoff về nhà cùng tôi, vậy là hôm nay bác ấy bảo tôi được 'tin tưởng' để mình đến buổi cầu nguyện tập thể nữa.”

      “25 tháng Năm, 19...

      “Tôi ngồi trong phòng dưới ánh chiều tà. Cửa sổ mở toang và đàn ếch ca vang câu chuyện xảy ra từ lâu lắm. Dọc con đường bộ giữa vườn, Chàng Vui Vẻ giơ cao những chiếc cốc khía rãnh cỡ đại đựng hồng ngọc, vàng và ngọc trai. Lúc này trời mưa, nhưng mưa rả rích suốt cả ngày hôm nay – cơn mưa thấm đẫm mùi tử đinh hương. Tôi thích mọi loại thời tiết và thích trời mưa – những ngày mưa phùn lắc rắc khi Bà Gió chỉ nhàng rung ngọn vân sam; và cả những ngày mưa cuồng dã trắng trời trắng đất. Tôi thích bị mưa giam giữ, tôi thích nghe tiếng mưa nện sầm sập mái nhà, đập ầm ầm lên khung kính cửa sổ và chảy ồ ồ qua mai dua, trong khi Bà Gió như mụ phù thủy già điên dại gào rú đinh tai nhức óc giữa khu rừng và xuyên khắp vườn.

      “Tuy nhiên, nếu trời mưa đúng lúc tôi muốn đâu, tôi càu nhàu chẳng kém bất kỳ ai!

      buổi tối như thế này luôn gợi tôi nhớ đến đêm mùa xuân cha tôi mất ba năm trước, nhớ đến ngôi nhà cũ kỹ thân thương ở Maywood. Kể từ dạo ấy, tôi chưa lần nào quay lại nơi đó. Tôi biết liệu bây giờ có ai sống ở đó . biết Adam và Eva, Thông Gà Trống và Cây Cầu Nguyện có còn như xưa . biết ai ngủ tại căn phòng cũ của tôi, biết có ai quý những cây bu lô bé bỏng và chơi đùa cùng Bà Gió trong những vạt vân sam . Ngay khi vừa đặt bút viết từ 'vạt vân sam', ký ức ngày xưa bỗng ùa về. tối mùa xuân hồi tôi lên tám, tôi chạy quanh mấy vạt rừng, chơi trò trốn tìm cùng Bà Gió phát ra cái hõm lọt thỏm giữa hai cây vân sam phủ những chiếc lá xíu xanh mướt, trong khi hết thảy mọi thứ khác vẫn trong tông màu nâu phai. Cảnh tượng ấy đẹp đến độ ngay khi tôi vừa nhìn thấy ánh chớp lóe lên – đó là lần đầu tiên ánh chớp xuất với tôi. Có lẽ chính bởi vậy nên tôi mới nhớ thảm lá xanh bé đó cách rệt đến vậy. Chẳng ai khác nhớ đến chúng... chừng còn chưa ai nhìn thấy chúng bao giờ. Tôi quên hết những chiếc lá khác, nhưng riêng thảm lá ấy cứ hễ xuân đến là ký ức về chúng lại trỗi dậy trong tôi, đánh thức những cảm xúc vẹn nguyên mà giây phút tuyệt vời ấy mang lại.”

    5. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,824
      Chương 3: Đêm thao thức




      Trong chúng ta, nhiều người vẫn còn nhớ như in thời điểm đích xác chúng ta tiến tới cột mốc quan trọng nào đó đường đời... thời điểm diệu kỳ khi chúng ta tạm biệt thuở ấu thơ để bước vào quãng đời thiếu nữ; thời điểm lung linh huyền hoặc – hay có lẽ là choáng váng kinh hoàng – từ khi thiếu nữ bất chợt biến thành người phụ nữ trưởng thành; thời điểm ớn lạnh khi ta phải đối diện với cái thực tế rằng thời thanh xuân dứt khoát lùi lại đằng sau ta; thời điểm sầu bi, thanh thản khi ý thức được dòng chảy thời gian. Emily Starr bao giờ quên được buổi tối trải qua cột mốc đầu tiên, và vĩnh viễn bỏ lại thời thơ ấu phía sau.

      Mỗi trải nghiệm đều góp phần tô điểm cho cuộc sống thêm phong phú, và trải nghiệm càng sâu, phong phú mà nó mang lại càng lớn. Buổi tối kinh hoàng, bí và rạo rực cách kỳ lạ đó trao cho cả trí óc lẫn trái tim trưởng thành như được đúc kết qua hàng bao nhiêu năm.

      Đó là đêm đầu tháng Bảy. Cả ngày trời nóng hầm hập. Bà Elizabeth bị thời tiết này làm cho bức bối đến độ quyết định tham dự buổi cầu nguyện tập thể. Bà Laura, ông Jimmy và Emily vẫn . Trước khi rời nhà, Emily hỏi xin bà Elizabeth và được cho phép về nhà cùng Ilse Burnley sau buổi lễ, thậm chí còn được ở lại qua đêm. Đây đúng là niềm vui sướng hiếm hoi. Bà Elizabeth mấy khi đồng ý chuyện vắng nhà qua đêm.

      Nhưng bác sĩ Burnley phải xa, còn người quản gia tạm thời phải nghỉ việc vì rạn mắt cá chân. Ilse rủ Emily tối đó đến ở cùng, và Emily được phép làm vậy. Ilse biết chuyện này – ra, chẳng mấy hy vọng lời đề nghị được chấp thuận – nhưng rồi được thông báo tại buổi cầu nguyện tập thể. Giá Ilse đến muộn Emily cho biết chuyện trước khi buổi cầu nguyện “tiến hành” rồi, và như vậy rất có thể tránh được những cố may trong tối đó; nhưng, như thường lệ, Ilse đến muộn, thành ra cái sảy nảy cái ung.

      Emily ngồi hàng ghế cầu nguyện của nhà thờ Murray, ngay sát đầu giáo đường, cạnh khung cửa sổ trổ ra vạt linh sam và cây thích bao quanh ngôi nhà thờ màu trắng. Buổi cầu nguyện tập thể này phải buổi tụ họp định kỳ hằng tuần vốn chỉ lác đác vài con chiên ngoan đạo như thường lệ. Nó là “buổi họp mặt đặc biệt”, được tổ chức để chuẩn bị cho ngày Chủ nhật cộng đồng sắp tới, và diễn giả phải là cha Johnson trẻ trung tràn đầy nhiệt huyết luôn khiến Emily háo hức lắng nghe bất chấp sai sót ngớ ngẩn của ở bữa tối của Hội Phụ nữ Cứu trợ hôm vừa rồi, mà là nhà truyền giáo được Shrewsbury cho mượn tối. Nhờ danh tiếng của ông ta mà nhà thờ đông nghịt người, ấy vậy nhưng sau đó hầu như ai cũng tuyên bố thà nghe cha Johnson của họ giảng còn hơn. Emily nhìn ông ta chăm chú, đầy xét đoán và rút ra kết luận ông ta ăn quá ngọt xớt và chẳng ra dáng con người cao quý gì hết. nghe ông ta đọc từ đầu đến cuối bài kinh, thầm nghĩ,

      “Đưa ra lời khuyên sáng suốt của Chúa và lăng mạ quỷ đâu phải cầu nguyện chứ.”

      Sau khi lắng nghe diễn thuyết vài phút, rút ra kết luận ông ta chỉ là kẻ tư duy phi lý, thích bày trò giật gân và khoái gây chuyện lùm xùm, vậy là dửng dưng phớt lờ ông ta để thả mình vào cõi mơ – chuyện nhìn chung có thể làm tùy ý mỗi khi trong lòng bất an muốn trốn thoát thực trái ngang.

      Ngoài trời, ánh trăng vẫn được sàng qua những tán thích và linh sam, lắc rắc đổ xuống cơn mưa bạc, mặc dù đụn mây đầy đe dọa đùn lên đặc dần phía chân trời Tây Bắc, và tiếng sấm ầm ì văng vẳng phá tan bầu khí tĩnh lặng giữa đêm hè oi ả, đêm hầu như tịnh chút gió, dù thỉnh thoảng bất chợt luồng khí quẹt ngang đám cây cối, nghe giống tiếng thở dài hơn là cơn gió , và xô bóng cây túm tụm thành những hình thù kỳ dị nhảy múa. Vẻ đẹp thanh bình quen thuộc hòa quyện cùng những dấu hiệu báo bão về nhuộm bầu khí ban đêm bằng sắc màu kỳ lạ khiến Emily mê mẩn, và tận dụng hẳn phân nửa thời gian diễn thuyết của nhà truyền giáo để soạn thảo trong tâm trí bản thân miêu tả về cảnh tượng này dành cho cuốn sổ của Jimmy. Thời gian còn lại, nghiên cứu từng người trong số các thính giả lọt vào tầm nhìn. Trong các cuộc hội họp giữa chốn công cộng, Emily chẳng bao giờ chán trò này, và càng lớn càng thích hơn. Thú vị xiết bao khi nghiên cứu những khuôn mặt mỗi người vẻ ấy, khi ngẫm ngợi dò đoán vô vàn câu chuyện cuộc đời được viết đó bằng nét chữ tượng hình bí thời Ai Cập cổ đại. Hết thảy những người đàn ông đàn bà đó, ai cũng có những nỗi niềm thầm kín, những cuộc đời bí mật tỏ cùng bất kỳ ai ngoài chính bản thân và Chúa. Người ngoài chỉ có thể suy đoán về họ, và Emily rất say mê trò chơi suy đoán này. Quả thực, nhiều khi, còn cảm thấy dường như mọi thứ chỉ dừng lại ở mức suy đoán, dường như trong vài khoảnh khắc đặc biệt nào đó, có thể bước vào tâm hồn họ, có thể đọc được trong đó những động cơ, những đam mê vốn vị đào sâu chôn chặt mà có lẽ vẫn là ngay cả với những người sở hữu chúng. Bao giờ cũng vậy, chỉ cần cái khả năng ấy trỗi dậy là Emily lại khó lòng cưỡng nổi khao khát được làm điều này, dẫu rằng ngay cả khi đành lòng nhượng bộ, vẫn bao giờ thoát khỏi cảm giác áy náy, cho rằng mình xâm phạm vào đời tư của kẻ khác. Chuyện này khác hẳn với việc sải rộng đôi cánh tưởng tượng bay vào thế giới sáng tạo trong tâm tưởng, khác hẳn với vẻ đẹp tinh tế, huyền ảo của “ánh chớp”; ở cả hai trường hợp đó, có bất kỳ giây phút lưỡng lự hay ngần ngại nào. Nhưng khi rón rén bước xuyên qua cánh cửa tạm thời mở khóa như thế, rồi thoáng nhìn thấy những thứ vốn được bày tỏ, thể bày tỏ được che đậy trong sâu thẳm trái tim và tâm hồn người khác, hành động đó, bên cạnh ý thức về sức mạnh của nó, luôn mang đến nhận thức về cấm đoạn, thậm chí là ý thức về báng bổ thánh thần. Tuy nhiên, Emily biết liệu có khi nào cưỡng lại nổi sức quyến rũ của nó ... lần nào cũng như lần nào, luôn liếc qua cánh cửa và nhìn hết thứ này đến thứ kia, rồi tới lúc đó mới nhận thức được mình làm gì. Hầu như chúng luôn là những điều khủng khiếp. Bí mật thường khủng khiếp. Những thứ đẹp đẽ chẳng mấy khi bị che giấu làm gì... chỉ những thứ xấu xa, méo mó mới hay bị thế.

      “Vào thời xa xưa, Elder Forsyth chắc hẳn là kẻ ưa hành hạ người khác,” nghĩ. “Nhìn mặt ông ta giống thế lắm. Ngay lúc này đây, ông ta thích nhà truyền giáo vì ông ấy giảng về địa ngục, và Elder Forsyth chắc mẩm mọi kẻ thù của ông ta đều xuống đó hết. Đúng vậy, thế nên ông ta mới lộ vẻ mãn nguyện như thế. Mình nghĩ hằng đêm, bà Bowes vẫn cưỡi chổi bay lượn trời. Bà ta có vẻ thế lắm. Bốn trăm năm trước, bà ta hẳn phải là phù thủy, và Elder Forsyth đóng cọc thiêu cháy bà ta. Bà ta căm ghét hết thảy mọi người... hẳn phải kinh khủng lắm khi căm ghét tất cả mọi người, khi để tâm hồn tràn ngập hận thù. Chắc chắn mình phải tìm cách miêu tả người như thế trong cuốn sổ Jimmy. biết liệu hận thù căm ghét có xua đuổi toàn bộ tình thương ra khỏi tâm hồn bà ta , biết trong đó còn rơi rớt lại chút thương nào dành cho bất kỳ ai hay bất kỳ thứ gì . Nếu có rất có thể nó cứu vớt bà ta. Đây đúng là ý tưởng hay để viết truyện. Trước khi ngủ mình phải ghi lại mới được, mình mượn Ilse ít giấy vậy. cần... cuốn sách thánh ca của mình vẫn còn sót ít giấy trắng. Mình viết lại luôn.

      biết tất cả những người này gì nếu đột nhiên được hỏi họ mong muốn gì nhất, và bắt buộc phải trả lời thành nhỉ. biết trong số những cặp vợ chồng kia, có bao nhiêu người mong muốn được thay đổi nhỉ? Vợ chồng Chris Farrar chắc là có... chuyện đó ai mà chẳng biết. Chẳng hiểu tại sao, mình cứ cảm thấy chắc chắn James Beatty và vợ ông ta cũng thế. Họ có vẻ khá hài lòng về nhau, nhưng có lần, mình bắt gặp bà ấy nhìn ông ta đúng lúc bà ấy ngờ có người quan sát; ôi chao, cứ như thể qua đôi mắt bà ấy, mình nhìn thấu tận tâm hồn bà ấy, và bà ấy căm ghét ông ta... sợ hãi ông ta. Giờ bà ấy ngồi kia, ngay cạnh ông ta, bé, gầy còm, ăn mặc lạc mốt, tóc bạc da mồi cả rồi, nhưng bà ấy, chính bản thân bà ấy, là ngọn lửa phản kháng cháy đỏ hừng hực. Điều bà ấy mong muốn là được thoát khỏi ông ta... hay chỉ cần phản kháng lại dù chỉ lần. Thế là bà ấy thỏa mãn rồi.

      “Chú Dean ngồi kia... mình hiểu điều gì mang chú ấy đến buổi cầu nguyện tập thể chứ? Vẻ mặt chú ấy rất nghiêm túc, nhưng ánh mắt chú ấy tràn ngập vẻ giễu cợt dành cho ông Sampson... mà ông Sampson gì vậy nhỉ?... Ôi chao, lại chuyện gì đó về các trinh nữ khôn ngoan[1] đây mà. Mình ghét các trinh nữ khôn ngoan, mình thấy họ ích kỷ khủng khiếp. Nhẽ ra họ có thể san sẻ cho những khờ dại tội nghiệp kia ít dầu. Mình tin là ngợi ca mà Chúa Jesus dành cho họ nhiều hơn ngợi ca mà Người muốn dành cho viên quản gia bất lương; theo mình thấy, Người chỉ cố gắng cảnh báo những người khờ dại để họ được tỏ ra bất cẩn và khờ dại thôi, vì nếu họ mà như thế, những kẻ khôn ngoan ích kỷ chẳng đời nào giúp đỡ họ. hiểu liệu có đáng bị coi là xấu xa nếu mình cảm thấy thà ở bên ngoài với những người khờ dại để mà cố gắng an ủi giúp đỡ họ, còn hơn là ở bên trong tiệc tùng cùng những kẻ khôn ngoan. Như thế còn thú vị hơn nhiều.

      [1] Dụ ngôn về Mười trinh nữ chép trong sách Phúc Matthew: Mười trinh nữ cầm đèn đón chàng rể. Năm được xem là khờ dại vì mang đèn mà mang thêm dầu, còn năm kia được cho là khôn ngoan vì mang đèn còn chuẩn bị cả bình dầu đầy. Chờ mãi chưa thấy chàng rể đến nên cả mười đều ngủ thiếp . Nửa đêm, có tiếng hô: Chàng rể đến. Nhưng lúc này, đèn của năm khờ dại đều hết dầu nên tắt ngóm. Mượn dầu được, các đành chạy ra quán mua. Nhưng mua xong dầu về đến nơi cửa đóng, tiệc cưới bắt đầu. Năm khờ dại đành phải ra về trong hối tiếc.

      “Kia là bà Kent và Teddy. Ôi chao, bà ấy khát khao cháy bỏng thứ... mình biết là thứ gì, nhưng nó là thứ bà ấy bao giờ có thể giành được, và khát vọng giành được nó dằn vặt bà ấy suốt cả ngày lẫn đêm. Bởi vậy bà ấy mới suốt ngày kè kè bên Teddy như thế, mình biết mà. Nhưng mình biết cái gì khiến bà ấy khác hẳn so với những phụ nữ khác. Mình bao giờ có thể liếc vào trong tâm hồn bà ấy... bà ấy ngăn chặn mọi ánh nhìn... cánh cửa chẳng khi nào lỏng then mở khóa.

      “Còn mình mong muốn gì nhất nhỉ? Đó chính là leo lên tận đỉnh con đường Alps,

      “ 'Và viết lên bảng danh sách chói ngời

      Cái tên hèn mọn của người phụ nữ.'

      “Tất cả chúng ta đều đói. Tất cả chúng ta đều muốn chút bánh mì sống... ấy vậy nhưng ông Sampson lại thể trao nó cho chúng ta. biết ông ấy muốn gì nhất nhỉ? Tâm hồn ông ấy cứ sền sệt đến nỗi chẳng thể nhìn thấu được. Ông ấy có vô vàn mong muốn hèn hạ... ông ấy chẳng mong muốn bất kỳ thứ gì đủ độ để bị nó chi phối. Cha Johnson muốn giúp đỡ mọi người và thuyết phục mọi người làm điều đúng đắn... cha tâm muốn thế. Còn mong mỏi cháy bỏng nhất của dì Janey là được chứng kiến toàn bộ thế giới ngoại đạo đều cải sang Cơ Đốc giáo. Tâm hồn dì ấy chứa bất kỳ ước mong đen tối nào. Mình biết thầy Carpenter muốn gì... cơ hội từng tuột mất lần nữa quay trở lại. Katherine Morris muốn tìm lại tuổi thanh xuân... bà ấy căm ghét mọi đứa con trẻ tuổi hơn như bọn mình bởi vì bọn mình trẻ trung. Cụ Malcolm Strang chỉ ước ao được sống... chỉ cần thêm năm nữa thôi... lần nào cũng chỉ cần thêm năm nữa... chỉ cần được sống... chỉ cần phải chết. Hẳn phải khủng khiếp biết bao nhiêu khi sống mà chẳng có mục đích gì ngoại trừ trốn chạy cái chết. Nhưng ông ấy vẫn tin vào thiên đường... ông ấy vẫn chắc mẩm rồi đến đó. Ông già tội nghiệp ấy, giá như có thể nhìn thấy ánh chớp của mình đây dù chỉ lần thôi ắt hẳn ông ấy chẳng bày tỏ thái độ ghét cay ghét đắng như thế khi nghĩ về cái chết. Còn Mary Strang lại muốn chết... trước khi thứ khủng khiếp nào đó mà bà ấy e sợ hành hạ bà ấy cho tới chết. Nghe đó là bệnh ung thư. Còn có ông Morrison Khùng ở khu vực dành cho ban đồng ca nữa... mọi người đều biết ông ấy muốn gì... tìm thấy Annie của ông ấy. Tom Sibley có lẽ muốn mặt trăng... và biết ta bao giờ có thể lấy được nó... bởi vậy người ta mới bảo ta hơi điên điên khùng khùng. Amy Crabbe muốn Max Terry quay lại với chị ấy... ngoài chuyện đó ra chẳng còn gì quan trọng cả.

      “Ngày mai mình phải viết hết những chuyện này vào cuốn sổ Jimmy. Chúng hấp dẫn xiết bao... nhưng, xét cho cùng, mình vẫn thích viết về những điều tốt đẹp hơn. Chỉ có điều, ở chúng lại có ý vị mà những thứ tốt đẹp có được. Những cánh rừng ngoài kia... trông chúng lạ kỳ xiết bao giữa bóng tối và ánh sáng bạc. Ánh trăng trùm lên những tấm bia tấm màn kỳ lạ, khiến cho ngay cả những tấm bia xấu xí cũng trở nên đẹp đẽ hẳn. Nhưng trời nóng hầm hập, trong này chẳng khác gì cái lò nung, còn tiếng sấm ầm ì càng lúc càng dội lại gần hơn. Hy vọng Ilse và mình kịp về nhà trước khi bão nổi. Ôi chao, ngài Sampson à, ngài Sampson, Chúa đâu có phải vị Chúa giận dữ... ngài mà thế chứng tỏ ngài chẳng hiểu gì về Người hết... tôi dám chắc Người vô cùng phiền muộn khi chúng ta tỏ ra khờ dại xấu xa, nhưng Người phát điên phát khùng lên. Chúa của ngài và Chúa của bà Ellen Greene giống nhau như hai giọt nước vậy. Tôi chỉ muốn đứng bật dậy với ngài như thế, nhưng giữa nhà thờ mà trả lời cách xấc xược chẳng phù hợp với truyền thống của nhà Murray chút nào. Ngài bôi xấu Chúa... trong khi Người tốt đẹp nhường ấy. Tôi căm ghét ngài vì bôi xấu Chúa, đồ béo ị lùn tịt.”




      Và rồi đúng lúc đó, ông Sampson, vốn vài lần để ý đến ánh mắt thăm dò chăm chú của Emily và cứ đinh ninh ta đây gây được ấn tượng cực kỳ lớn lao khiến ý thức được ràng tình trạng được cứu vớt của bản thân, kết thúc bài giảng bằng những lời khẩn nài chốt hạ vô cùng khẩn thiết, và ngồi xuống. Vốn phải chen chúc giữa bầu khí ngột ngạt bức bí của ngôi nhà thờ đông đúc lờ mờ ánh đèn, các khán thính giả đều nhõm thở phào ra thành tiếng, và gần như chẳng buồn đợi đến lúc hát thánh ca và đọc kinh Tạ ơn, họ cứ thế ùn ùn kéo ra ngoài tìm đến với bầu khí trong lành hơn. Mắc kẹt giữa dòng người và bị tách ra khỏi bà Laura, Emily bị đẩy dạt ra bên, xuyên qua cánh cửa dẫn vào khu vực dàn đồng ca mà lọt vào ngay bên trái bục giảng kinh. Phải mất lúc mới chật vật thoát ra khỏi đám đông và hối hả vòng ra phía trước, hy vọng gặp được Ilse ở đó. Ở đây lại là đám đông nữa, nhưng chẳng mấy chốc vãn người, tuy nhiên vẫn thấy bóng dáng Ilse đâu. Đột nhiên, Emily nhận ra mang theo quyển thánh ca. vội vã lao ngược trở lại chỗ cửa dẫn vào khu vực dàn đồng ca. Chắc hẳn bỏ quên cuốn sách thánh ca ở chỗ ghế ngồi... trong khi lẽ ra bao giờ được phép để quên nó ở đó. Cốt để cho an toàn, kẹp vào giữa cuốn thánh ca mẩu giấy lưu lại vài ghi chép rời rạc được lén lút viết trong thời gian xướng bài thánh ca cuối cùng - bản miêu tả khá chua cay về Potter gầy giơ xương thuộc dàn hợp xướng, mấy câu châm biếm nhằm vào chính cha Sampson, thêm cả vài tưởng tượng ngẫu nhiên mà muốn giấu kín nhất vì nó chất chứa phần giấc mơ và tưởng tượng hẳn khiến cho bất cứ nhòm ngó nào từ những đôi mắt xa lạ cũng trở thành hành động báng bổ thánh thần.

      Lúc vào trong, cụ Jacob Banks, ông lão vừa mù dở vừa nghễnh ngãng nhận nhiệm vụ trông nom nhà thờ, tắt dần đèn đóm. Ông tắt đến hai cây đèn tường phía sau bục giảng kinh. Emily vớ lấy cuốn thánh ca của để giá... chẳng thấy mẩu giấy của đâu. Dưới ánh sáng lờ mờ do ông Jacob Banks tắt nốt cây đèn cuối cùng, nhìn thấy nó nằm sàn nhà, dưới cái ghế cầu nguyện phía trước. quỳ xuống, vươn tay ra với lấy mẩu giấy. Giữa lúc đó, cụ Jacob bước ra ngoài và khóa cánh cửa dẫn vào khu vực dàn thánh ca.

      Emily nhận ra ông lão trông coi nhà thờ mất; ngôi nhà thờ vẫn lờ mờ sáng dưới chiếu rọi của vầng trăng cho đến lúc này vẫn chưa bị nhấn chìm sau những đám mây dông ngừng đùn lên cuồn cuộn. Ấy vậy nhưng hóa ra đó vẫn phải mẩu giấy cần tìm... hiểu nổi nó ở đâu nữa?... ồ, rốt cuộc cũng thấy nó đây rồi. Emily nhặt mẩu giấy lên và chạy tới bên cánh cửa, nhưng cửa lại mở.

      Đến lúc đó, Emily mới nhận ra ông cụ Jacob Banks mất, chỉ còn lại mình trong nhà thờ. hì hục tìm cách mở cửa nhưng chỉ hoài công vô ích, rồi gọi ông cụ Banks nhưng cũng chẳng có tác dụng gì. Cuối cùng, lao giữa hai hàng ghế, chạy ra hiên trước. Giữa chừng, nghe thấy tiếng cỗ xe độc mã cuối cùng ken két xoay đầu bên cổng vào rồi chạy mất: cùng lúc đó, mặt trăng đột ngột bị những đám mây đen sì nuốt chửng và ngôi nhà thờ mất hút giữa bóng tối - bóng tối dày đặc, oi ả, bức bối, gần như có thể sờ mó được. Emily thét lên trong nỗi hoảng loạn bất ngờ... nện thình thịch vào cửa ra vào... điên cuồng vặn tay nắm cửa... rồi lại kêu lên. Ôi, mọi người đâu thể hết rồi cơ chứ... chắc chắn ai đó nghe thấy tiếng ! “Bác Laura ơi”... “Bác Jimmy ơi”... “Ilse”... rồi cuối cùng rền rĩ tuyệt vọng... “Ôi, Teddy ơi... Teddy!”

      dải chớp trắng xanh quét qua hiên, ngay sau đó tiếng sấm gầm lên. trong những cơn bão tồi tệ nhất biên niên sử làng Hồ Blair bắt đầu... và Emily Starr bị nhốt mình trong ngôi nhà thờ tối tăm giữa rừng thích... , vốn luôn luôn ấp ủ trong lòng nỗi sợ hãi vô cớ mang tính bản năng trước những cơn dông bão, nỗi hoảng sợ bao giờ có thể xóa than mà chỉ đủ sức kiềm chế được phần nào.

      Run rẩy, đổ sụp xuống bậc cầu thang dẫn đến khu vực dàn đồng ca, và cứ cuộn người thu lu ở đó. Chắc chắn có người quay lại khi phát ra mất tích. Nhưng liệu có ai phát ra ? Ai nhớ tới chứ? Bác Laura và Jimmy vẫn chắc mẩm ở cùng Ilse như dự tính. Trong khi Ilse, hiển nhiên mất rồi, vẫn đinh ninh Emily cùng mình được và bởi vậy cho rằng trở về trang trại Trăng Non. ai biết ở đâu... chẳng ai quay lại tìm cả. phải ở lại đây, giữa chốn tối tăm, hoang vu, đáng sợ tiếng vang này... ngay lúc này đây, ngôi nhà thờ vốn nắm như lòng bàn tay và thương hết mực bởi những mối liên kết bao năm với lớp giáo lý, với bài ca và những khuôn mặt chất phác của bao bạn bè thân mến trở thành nơi chốn xa lạ, ma quái tràn ngập những nỗi khiếp hãi đầy ám ảnh. Chẳng có lối thoát nào hết. Những ô cửa sổ kín như bưng tài nảo mở được. Nhà thờ được thông gió bằng những khung kính áp trần hệt những ô cửa sổ con con, được mở ra đóng vào bằng cách kéo sợi dây thép. thể leo lên tới tận đó, mà ngay cả có tới được đó cũng chẳng thể chui qua được.

      thụp xuống co rúm người bậc cầu thang, cả người run lên bần bật. Đến lúc này, sấm chớp nối tiếp nhau hết đợt này đến đợt khác, gần như ngừng nghỉ: mưa quất vào cửa sổ, phải từng hạt từng hạt mà giáng thành màn, thỉnh thoảng lại tuôn xối xả như quăng cả loạt mưa đá vào ô cửa. Gió đột nhiên nổi lên cuồn cuộn theo cơn bão, rú rít thét gào quanh nhà thờ. Đây phải “Bà Gió” mỏng manh sương khói với đôi cánh dơi, người bạn thân thiết từ thuở ấu thơ của , mà là cả đoàn phù thủy la hét. “Hoàng tử Quyền năng của Khí chế ngự gió,” từng có lần nghe ông Morrison Khùng thế. Sao lúc này lại nghĩ tới ông Morrison Khùng nhỉ? Chẳng hiểu sao cửa sổ cứ lạch cạch liên hồi thế chứ, y như thể bị những tên kỵ sĩ ma quái cưỡi bão đạp gió rung lắc vậy! từng nghe người ta kể lại câu chuyện rợn người, rằng cách đây vài năm, có người nghe thấy tiếng đàn organ vang lên giữa đêm trong ngôi nhà thờ vắng hoe vắng hoắt. Cứ thử tưởng tượng bây giờ tự nhiên tiếng nhạc bắt đầu vang lên xem! Có vẻ như chẳng tưởng tượng nào lại quá mức quái dị hay khủng khiếp đến độ chẳng thể trở thành thực. Có phải cầu thang kêu kẽo kẹt nhỉ? Bóng tối giữa những đợt chớp lóe ngột ngạt đến độ khiến người ta có cảm giác nó dày cồm cộp. Quá hoảng loạn sợ bị nó sờ vào người, Emily chỉ biết vùi mặt vào trong.

      Tuy nhiên, ngay sau đó, lấy lại can đảm và bắt đầu ngẫm ra phản ứng của lúc này hề phù hợp với truyền thống của nhà Murray. Người nhà Murray được phép suy sụp như thế này. Người nhà Murray hoảng loạn cách ngớ ngẩn giữa bão táp sấm chớp. Các bậc tổ tiên nhà Murray yên giấc trong khu nghĩa địa riêng phía bên kia hồ hẳn khinh thường kẻ hậu duệ thoái hóa như . Bác Elizabeth hẳn bảo đó là biểu của chất Starr trong . phải dũng cảm hơn: xét cho cùng, trải qua những thời khắc còn tồi tệ hơn thế này nhiều... cái đêm ăn phải quả táo độc của ông John Ngạo Mạn... buổi chiều ngã khỏi vách đá vịnh Malvern. Chuyện này xảy đến quá đột ngột, thành ra trước khi kịp huy động lòng can đảm để chống chọi lại chìm trong cơn hoảng sợ mất rồi. phải xốc lại tinh thần mới được. chẳng có chuyện đáng sợ gì xảy ra với hết... chẳng có gì tồi tệ hơn chuyện phải ở lại suốt đêm trong nhà thờ. Đến sáng mai, có thể thu hút chú ý của người qua đường nào đó. Giờ ở đây hơn tiếng đồng hồ rồi, và nào có gì xảy ra đâu cơ chứ, trừ chuyện tóc quả bạc trắng mất rồi, vì theo hiểu đôi khi tóc tai vẫn hay bị thế lắm. Thỉnh thoảng, ở chân tóc cứ râm ran cảm giác là lạ. Emily nắm chặt bím tóc đuôi sam dài, sẵn sàng chờ ánh chớp tiếp theo. Khi chớp lóe lên, nhìn thấy mái tóc mình vẫn nguyên màu đen nhánh. thở phào nhõm, bắt đầu thấy tinh thần phấn chấn hơn hẳn. Bão tan. Những hồi sấm càng lúc càng yếu dần và thưa thớt hơn, tuy nhiên mưa vẫn ngừng rơi, gió vẫn quay cuồng gào rú quanh nhà thờ, đổ những thanh rền rĩ kỳ quái xuyên qua lỗ khóa to tướng.

      Emily xốc thẳng lại vai, thận trọng thả hai chân xuống bậc thang thấp hơn. Có lẽ tốt hơn hết, nên thử quay trở vào trong nhà thờ xem sao. Nếu đợt sấm sét nữa nổi lên, gác chuông có khi bị đánh trúng cũng chừng; theo nhớ, các gác chuông chẳng lần nào thoát khỏi bị sét đánh cả: nó rất có khả năng đâm sầm xuống mái vòm ngay đầu . vào trong nhà và ngồi xuống dãy ghế cầu nguyện dành riêng cho nhà Murray: bình tĩnh, biết xét đoán và tự chủ: rất lấy làm xấu hổ vì nỗi hoảng loạn vừa rồi, nhưng nó khiếp đấy chứ.

      Giờ đây, bao phủ quanh là màn đêm nặng nề mượt như nhung, tuy nhiên vẫn gợi lên cảm giác kỳ quái giống hệt lúc nãy, cái cảm giác dường như chỉ cần vươn tay ra là ta chạm vào bóng tối, có lẽ tại nóng nực và ẩm ướt của đêm tháng Bảy. Hàng hiên này hẹp quá, nếu vào trong nhà thờ, còn thấy ngột ngạt bức bối như thế nữa.

      Emily đưa tay ra định túm lấy tay vịn cầu thang hòng làm điểm tựa kéo người đứng dậy đôi chân run rẩy. Bàn tay chạm vào... phải tay vịn cầu thang... lạy Chúa lòng lành, cái gì vậy nhỉ?... thứ gì đó lông lá... tiếng thét kinh hoàng đông cứng môi Emily... những bước chân êm ái bước xuống dãy bậc thang bên cạnh , ánh chớp lóe sáng và ngay dưới chân cầu thang là con chó đen khổng lồ, nó quay mình ngước nhìn trước khi bị nuốt vào trong bóng tối đen đặc trở lại. Dẫu vậy, vẫn kịp thoáng nhìn thấy đôi mắt đỏ rực của nó chiếu thẳng vào , y hệt đôi mắt quỷ.

      Chân tóc của Emily lại bắt đầu râm ran trở lại, sợi xích khổng lồ lạnh ngăn ngắt bắt đầu chậm rãi trườn lên xương sống . thể cử động được ngay cả khi tính mạng phụ thuộc vào điều đó. Thậm chí kêu lên nổi. Điều duy nhất có thể nghĩ tới trước hết là con chó săn đáng sợ của Manx Castle trong Peveril xứ Peak. Trong vài phút, nỗi kinh hãi của cuồn cuộn dâng trào đến độ rốt cuộc chính cơ thể cũng trở nên rời rã khó chịu. Rồi, bằng nỗ lực với quyết tâm hề giống như của đứa trẻ - tôi đồ rằng vào giây phút đó Emily hoàn toàn còn là đứa trẻ nữa rồi - xốc lại khả năng tự chủ. đầu hàng nỗi sợ hãi; nghiến răng, siết chặt đôi bàn tay run bần bật; dũng cảm... suy nghĩ hợp tình hợp lý. Đó chỉ là con chó rất bình thường ở làng Hồ Blair theo chân chủ nhân, cậu nhóc nghịch ngợm nào đó, vào trong khu vực dành cho dàn đồng ca, rồi bị rớt lại phía sau. Chuyện như thế này trước kia cũng từng xảy ra rồi. Ánh chớp lóe sáng soi tỏ cho thấy hành lang giờ vắng hoe. ràng con chó vào bên trong nhà thờ. Emily quyết định cứ ở yên tại chỗ. Dù hết hoảng loạn nhưng muốn giữa đêm hôm lại đột nhiên chạm phải cái mũi lạnh ngắt hay mạng sườn lông lá. tài nào quên được cái cảm giác khủng khiếp của giây phút chạm vào sinh vật đó.

      Giờ ắt hẳn mười hai giờ rồi; khi buổi cầu nguyện tan là mười giờ tối. Cơn bão hầu như tắt hẳn tiếng. Thỉnh thoảng vẫn vang lên tiếng chuyển động và tiếng gió rít gào, nhưng con lại là thinh lặng, chỉ bị phá vỡ bởi tiếng mưa dần hạt. Tiếng sấm vẫn ầm ì yếu ớt và chớp tỉnh thoảng vẫn lóe lên, nhưng ánh sáng dịu hơn, mờ nhạt hơn, phải ánh chói lòa rạch ngang bầu trời dường như bao bọc tòa nhà này dưới thứ ánh sáng xanh quá rực rỡ đến độ chịu nổi, khiến mắt nhức nhối. Dần dần, trái tim bắt đầu đập bình thường trở lại. Tư duy lý trí tìm lại được sức mạnh. Mặc dù hề thích thú với tình cảnh thời, nhưng bắt đầu phát ra ở nó những khả năng đầy kịch tính. Chao ôi, chương hay ho xiết bao dành cho cuốn nhật ký của - hay cuốn sổ Jimmy; và, hơn thế nữa, dành cho cuốn tiểu thuyết mà ngày nào đó được chấp bút! Đây là tình huống dành riêng cho nhân vật nữ chính; tất nhiên cuối cùng rồi nữ chính này được nam chính giải cứu. Emily bắt đầu xây dựng cốt truyện... thêm thắt cho nó... trau chuốt nó... săn tìm từ ngữ để biểu đạt nó. Xét cho cùng, chuyện này cũng có phần... thú vị. Duy có điều, chỉ mong sao biết được con chó kia từ đâu đến. Ánh chớp nhợt nhạt lập lòe những tấm bia có thể nhìn thấy xuyên qua khung cửa sổ hàng hiên phía đối diện kia mới kỳ quái làm sao! Dưới ánh sáng lúc tỏ lúc mờ, thung lũng thân thuộc phía xa xa kia trông mới khác lạ làm sao! Gió rền rĩ, thở than và phàn nàn mới dữ làm sao... nhưng nó trở lại là Bà Gió của riêng . Bà Gió là trong những sản phẩm từ thuở ấu thơ được mang theo vào quãng đời thiếu nữ, và giờ đây, được nó an ủi bằng ý thức về mối thân tình lâu năm. Những kỵ sĩ gió của cơn bão biến mất, người bạn tưởng tượng của quay về. Emily thở hơi dài hầu như mãn nguyện. Điều tồi tệ nhất qua... và tình, chẳng phải cư xử rất đúng mực đó sao? cảm thấy lòng tự trọng của mình bắt đầu quay trở lại.

      Đột nhiên Emily biết chỉ ở mình!

      thể được tại sao mình lại biết thế. nghe thấy gì... nhìn thấy gì... cảm thấy gì: ấy vậy nhưng, vượt hết thảy mọi nghi ngờ hay tranh cãi, biết rằng có Diện trong bóng tối giữa dãy cầu thang phía . xoay người ngước nhìn lên. Nhìn như thế quả rất đáng sợ, nhưng dù sao nếu cảm thấy Thứ Gì Đó ở trước mặt ta vẫn đỡ kinh khủng hơn chán so với việc cảm thấy nó ở phía sau. trợn mắt điên cuồng nhìn chằm chằm vào bóng tối, nhưng chẳng thể nhìn thấy gì. Rồi sau đó... nghe thấy tiếng cười khe khẽ vang lên phía mình... tiếng cười suýt chút nữa khiến tim ngừng đập... tiếng cười phi nhân, vô cùng đáng sợ của kẻ tâm trí bình thường. Chẳng cần phải nhờ đến ánh chớp chiếu sáng mới nhận ra ông Morrison Khùng ở đâu đó giữa dãy cầu thang bên . Nhưng ánh chớp lóe lên... nhìn thấy ông ta... cảm thấy dường như mình chìm dần vào trong cái vực băng lạnh lẽo nào đó... thậm chí còn chẳng kêu lên được. Mãi mãi bao giờ quên hình ảnh ông ta, được ánh chớp khảm vào trong trí não . Ông ta cúi lom khom phía năm bậc cầu thang, mái đầu hoa râm đâm bổ về phía trước. nhìn thấy ánh sáng điên cuồng trong mắt ông ta; bộ răng vàng khè như nanh chó sói nhe ra dưới nụ cười mỉm đáng sợ; bàn tay gầy guộc khều khào đỏ như máu vươn về phía trước, suýt nữa chạm tới vai .

      Cơn hoảng loạn vượt qua ngoài tầm kiểm soát đập vỡ tan tành trạng thái mụ mị của Emily. đứng bật dậy, kinh hãi bật lên tiếng thét đinh tai nhức óc.

      “Teddy! Teddy! Cứu tớ với!” điên cuồng ré lên.

      biết tại sao mình lại gọi Teddy; thậm chí còn chẳng nhận ra mình gọi cậu; mãi tận sau này mới nhớ đến nó, giống như người ta có thể nhớ lại tiếng thét đánh thức mình dậy giữa cơn ác mộng; chỉ biết rằng mình phải cầu viện trợ giúp, rằng chết mất nếu bàn tay khủng khiếp kia chạm vào . được phép chạm vào .

      Chẳng khác gì người điên, nhảy phắt xuống cầu thang, lao vào trong nhà thờ và chạy lên giữa hai hàng ghế. phải mình trước khi tia chớp tiếp theo xuất , nhưng phải trong dãy ghế của nhà Murray. Hẳn ông ta đến đó tìm . nhào vào dãy ghế giữa phòng và núp xuống sát sàn nhà tận trong góc. Mồ hôi lạnh như băng toát ra ướt đẫm toàn thân . Nỗi kinh sợ thể kiểm soát thít chặt từng sợi tế bào trong người . Điều duy nhất có thể nghĩ tới là được phép để nó chạm vào người... cái bàn tay đỏ như máu của ông già khùng đó.

      Mỗi giây trôi qua tưởng chừng như hàng năm trời. Ngay sau đó, nghe thấy tiếng bước chân... tiếng bước chân lúc gần lúc xa nhưng dường như từ từ tiến tới gần hơn. Đột nhiên, nhận ra ông ta làm gì. Ông ta định mò đến từng dãy ghế để sờ soạng tìm thay vì đợi ánh chớp. Vậy ra ông ta vẫn tìm bà ấy, từng nghe thỉnh thoảng ông ta lại bám theo các vì cứ ngỡ họ là Annie. Nếu bắt được họ rồi, ông ta dùng tay giữ họ lại, còn tay kia dịu dàng lùa vào tóc và vuốt ve khuôn mặt họ, trong khi ngừng lập cập lẩm bẩm những lời âu yếm ngu ngốc. Ông ta chẳng làm hại ai bao giờ, nhưng cũng chẳng đời nào thả tự do cho bất cứ ai tới tận khi họ được người khác giải cứu. Người ta đồn rằng Mary Paxton ở Ao Thành Kiến bao giờ còn bình thường trở lại được nữa; trí não bé vĩnh viễn thể phục hồi sau cú sốc.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :