1. QUY ĐỊNH BOX XUẤT BẢN :

       

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]

    ----•Nội dung cần:

    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)

    - Tác giả

    - Dịch giả

    - Đơn vị phát hành

    - Số trang ( nên có)

    - Giá bìa (nên có)

    - Ngày xuất bản (nên có)

    --- Quy định

    1 . Thành viên post có thể tự type hoặc copy từ nơi khác (để nguồn)

    2 . Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn

    3. Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ

    Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Dưới nắng trời châu Âu - Hoàng Yến Anh

Thảo luận trong 'Sách XB Hoàn'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      [​IMG]
      Dưới nắng trời Châu Âu
      Tác giả: Hoàng Yến
      Kích thước: 13 x 19 cm
      Số trang: 283
      Ngày xuất bản: 15-05-2013
      Giá bìa: 69.000 ₫
      Công ty phát hành: Thái Hà
      Nhà xuất bản: NXB Văn Học
      Chụp pic: ntm96
      Type
      tovo: 1-6
      giangnam83: 7-hết
      Beta: kararoxbee






      Giới thiệu


      Dưới nắng trời châu Âulà tập hợp những bài tản văn du lịch thú vị đầy cảm xúc của đặc biệt.​

      Đó là đón tiếp nồngnhiệt của gia đình người Việt ở Augsburg (Đức) thắp lên những suy nghĩ về cảm giác bình yên nhất đối với mỗi người là khi được ở bên gia đình. Hạnh phúc đôi khi giản đơn như khoảnh khắc được quây quần cùng bố mẹ trong bữa cơm chiều, để nhận ra “Cuộc đời vẫn thế, người ta luôn luôn khát khao những gì họ có”… (Augsburg - chốn bình yên). Đó là nỗi trăn trở khi rời Weggis (Thụy Sĩ) với hình ảnh về câu chuyện Đức luôn đau đáu về cội nguồn với nửa dòng máu Việt Nam chảy trong người.​

      ...​

      Đồng hành cùng Dưới nắngtrời châu Âu để biết tuổi trẻ phải chỉ là mùa của những thương, mà còn là mùa của những hành trình, khám phá nên có, cần có trong đời, để tầm nhìn và lý tưởng trước cuộc đời được cất cánh bay cao, bay xa hơn, vững vàng hòa vào biển lớn mà ngại gió giông vùi lấp…”​


      Hà Nội, 23h13’,20.02.2011

      Blogger LƯƠNG ĐÌNH KHOA

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Lời giới thiệu: Việt thắp nắng giữa trời Âu






      TÔI GỌI có nụ cười đẹp và rạng rỡ như “mùa thu tỏa nắng” mang tên Hoàng Yến như thế khi ngắm nhìn những bức hình trang blog cá nhân của . Mỗi lần ghé thăm là mỗi lần tôi hồi hộp với niềm háo hức, mong đợi được đọc tiếp entry mới trong loạt bài viết về vẻ đẹp đất nước, con người nơi mỗi thành phố phía trời Âu mà Yến qua.



      Trong mắt bạn bè cùng trang lứa tôi cũng thuộc dạng nhiều, khi bàn chân tuổi 25-26 rong ruổi những miền đất từ Bắc chí Nam, song cũng chỉ bó hẹp trong phạm vi của dải đất cong cong hình chữ S bên bờ biển Đông mà thôi. Tôi khát khao được bay cao hơn, xa hơn mà chưa thể. Còn Hoàng Yến khác. Ít ai có thể nghĩ được rằng người con mảnh khảnh với mái tóc đen dài rất nữ tính, rất Việt Nam ấy lại mình bươn chải với cuộc sống nơi đất khách quê người hơn 10 năm nay để theo đuổi ước mơ của mình, đồng thời sống những tháng năm tuổi trẻ đầy ý nghĩa bằng hành trình khám phá những điều kì diệu ở từng góc của châu Âu - điều mà phải bất kỳ người trẻ 8x nào như Yến cũng có thể làm được.



      “Ban đầu đơn giản chỉ là những chuyến theo lớp, theo trường và mình chỉ để cho biết thôi. Sau này càng càng say mê, càng thấy thế giới đẹp và nhiều người tốt lắm Khoa ạ. Những chuyến giúp mình có nhiều bài học để mình hiểu biết và nhận ra được giá trị của cuộc sống sâu sắc hơn.” Yến chia sẻ với tôi như thế về những chuyến của mình. Mỗi chuyến được đánh đổi bằng những giờ gia sư làm thêm sau thời gian học, bằng công việc bồi bàn lặng lẽ vào cuối tuần. “Tất cả cũng chỉ vì muốn dành dụm để khám phá tiếp những miền đất còn lại của châu Âu mà mình chưa được tới…”



      Và cứ như thế đều đặn mỗi tháng, Yến lại gửi tặng bạn bè và những người háo hức muốn được đồng hành, khám phá bao điều kỳ diệu. Dưới nắng trời châu Âu là tập hợp những bài tản văn du lịch thú vị đầy cảm xúc của đặc biệt này.



      “Tôi viết bài thơ cho ngọn cỏ may nâu nhạt



      mang trong mình dòng máu Việt Nam - theo gió lang thang, tháng ngày ruổi rong



      ngọn đồi xa xôi của nước Đức



      Ngọn cỏ may bé bản lĩnh và nghị lực



      Vươn mình đất khách - dẫu đơn!



      Ngọn cỏ may mang trái tim rực lửa thương



      Những trở trăn vơi đầy trang viết



      Những lời tâm rưng rưng nước mắt



      Ngọn đèn đêm thao thức nhớ quê nhà…



      Sắp đặt hành trình cho con tàu tuổi trẻ đời mình - là những chuyến xa



      Từ Berlin, Sevilla đến Paris, Amsterdam, Lucerne, Venice…



      Từ những thành phố yên bình xinh đến những kinh thành phồn hoa lộng lẫy



      Những cánh đồng, dòng sông, cánh rừng, đỉnh núi…



      Để gần hơn với đủ mọi kiếp người!...”



      Đó là vẻ đẹp Copenhagen - thiên đường của những giấc mơ, là những khoảnh khắc yên bình nơi thành phố Berlin, là Sevilla những ngày rực nắng, là vẻ đẹp của Thụy Sĩ qua Lucerne thơ mộng, hay đơn giản chỉ là ngày nắng đẹp ở London, những khu vườn xinh giữa lòng kinh thành Paris tráng lệ… Tất cả lên qua góc nhìn nồng nàn, mê đắm của người Việt trẻ biết xui những con chữ cất lời với những vẻ đẹp riêng và tươi mới, khác với những bài viết đơn điệu mang tính cung cấp thông tin hướng dẫn du lịch về những thành phố này mà tôi đọc được Internet. Hoàng Yến biết cách đặt tình của mình vào trong từng câu chữ, để rồi những xúc cảm nồng nàn ấy như nắng sớm mai, cứ dần lan tỏa và ấm lên trong lòng người đọc… Hoàng Yến vô tình trở thành có phép thuật khi biết rút ngắn khoảng cách và đưa những thành phố chứa nhiều vẻ đẹp kỳ thú từ phía trời Âu để đặt trong lòng bạn bè Việt Nam.



      chỉ dừng lại ở việc khám phá vẻ đẹp về đất nước - con người ở mỗi thành phố mình qua, mỗi bài viết của Hoàng Yến còn là những thông điệp quý giá với những trải nghiệm, trăn trở, suy tư về cuộc sống, tình đời, tình người trước, trong và sau mỗi chuyến , để rồi từ đó thấy mình lớn khôn thêm trước cuộc đời.



      Dưới nắng trời châu Âu của Hoàng Yến phải là tập sách đầu tiên viết về châu Âu qua góc nhìn của người Việt trẻ. Bởi trước đó, Dương Thụy (Pháp) và Giáng Uyên () cho ra mắt hai tập sách mang tên Venice và những cuộc tình Gondola và Ngón tay mình còn thơm mùi oải hương, song có lẽ đây là tập sách đầu tiên mang đến cho bạn đọc cái nhìn toàn cảnh, nhiều chiều về châu Âu với những bài viết thú vị đầy cá tính và cảm xúc về 15 đất nước và gần 30 thành phố của châu Âu mà tác giả từng qua (nhiều bài viết được đăng các báo Doanh nhân Sài Gòn, Tuổi trẻ, Nhịp cầu Đầu tư, Thế giới Doanh nhân…)



      Đồng hành cùng Dưới nắng trời châu Âu để biết tuổi trẻ phải chỉ là mùa của những thương mà còn là mùa của những hành trình, khám phá nên có, cần có trong đời, để tầm nhìn và lý tưởng trước cuộc đời được cất cánh bay cao, bay xa hơn, vững vàng hòa vào biển lớn mà ngại gió giông vùi lấp…



      Hà Nội, 23h13’, 20.02.2013



      Blogger LƯƠNG ĐÌNH KHOA













      Công viên St.James







      []






      London ngày nắng đẹp






      ĐẶT CHÂN TỚI LONDON vào sớm ban mai những ngày giữa tháng Mười hai, thủ đô của nước đón chúng tôi bằng trận mưa tầm tã. Ngồi xe, tôi tự hỏi lẽ nào mình “vô duyên” với thành phố này đến thế sao? Mười mấy giờ vật vã chiếc xe buýt du lịch xuyên qua Hà Lan, Bỉ, Pháp rồi khi đến Calais lại phải dừng lại để kiểm soát an ninh. Vì dù nằm trong châu Âu, nhưng khách du lịch mang quốc tịnh châu Âu khi qua vẫn phải xuất trình hộ chiếu. Sau đó, chúng tôi chuyển lên tàu thủy để tiến về phía nước trong lúc nửa đêm khiến niềm háo hức của tôi về London bị xẹp rất nhiều, nhưng may thay, khi xe dừng lại ở Pháo đài Tháp London những giọt mưa cuối cùng cũng ngừng rơi và mặt trời bắt đầu nhú lên ở phía đằng đông.



      Khi người tài xế của chuyến xe rằng: “Chúng ta có mặt ở London”, tôi vẫn tin vào mắt mình và với Maike - bạn cùng rằng: “Mình ở London rồi sao?” Thành phố buổi ban mai nên khí rất trong lành, khách du lịch cũng chưa xuống phố nhiều. Tôi rút tấm bản đồ đánh dấu sẵn những nơi muốn đến từ khi còn ở nhà ra và bắt đầu cuộc hành trình tìm kiếm vẻ đẹp của thành phố lừng danh và kém phần đắt đỏ này.



      Điểm dừng chân đầu tiên của chúng tôi là Pháo đài Tháp London (còn gọi là Tháp London), đây là di tích lịch sử nằm ngay giữa trung tâm thành phố, là Di sản văn hóa thế giới được UNESCO công nhận vào năm 1988. Đây là nơi lưu giữ các vương miện của Vương quốc , trước kia đây còn là nơi giam giữ các tù nhân trong hoàng gia có địa vị cao. Chúng tôi chỉ ngắm nhìn Tháp London từ phía bên ngoài, sau đó bộ ra dòng sông Thames nổi tiếng. Trước khi tới London, tôi tưởng tượng ra dòng sông Thames kiều diễm, đẹp thua gì dòng sông Seine ở Paris mà tôi từng được chiêm ngưỡng trước đó lâu. Nhưng khi nhìn thấy dòng sông Thames, tôi buột miệng thốt lên: “Ôi, dòng sông xanh trong mơ ước của tôi sao bẩn và đục ngầu như thế này?” thất vọng về dòng sông trong mơ của mình, Maike kéo tay tôi bước và chỉ về phía trước: “Xem này, Cầu Tháp London phía trước chúng ta kìa”. Tôi ngẩng mặt lên nhìn cây cầu đá kiều diễm - niềm tự hào của người dân London, những tia nắng mặt trời chiếu cây cầu bỗng làm tôi quên dòng sông Thames “ xanh” như tôi vẫn hình dung.



      Chúng tôi bách bộ dọc sông Thames, bước qua những cây cầu khác nữa như Southwark, Blackfriars, Waterloo và cuối cùng dừng lại ở Westminster. Mỗi cây cầu lại mang vẻ đẹp khác nhau. Có thể đối với nhiều người Cầu Tháp London là cây cầu rạng rỡ nhất London, nhưng với tôi, Westminster là cây cầu để lại nhiều ấn tượng nhất. Khi đứng cây cầu này, người ta chỉ nhìn thấy toàn bộ những cây cầu khác bắc qua dòng sông Thames, mà còn có thể dễ dàng nhận ra London Eye[1], BigBen[2] sừng sững hay Nhà Quốc hội London. khung cảnh đẹp và nên thơ, đúng như những gì tôi mơ tưởng về nước mù sương.



      [1] London Eye: Còn được biết đến với tên gọi Vòng quay thiên niên kỷ (Millenium Wheel) là vòng đu quay cao nhất ở Châu Âu và là điểm du lịch có thu phí đông nhất tại , với hơn ba triệu lượt khách năm.



      [2] Big Ben: Tên đầy đủ là Tháp đồng hồ của Cung điện Westminster, là cấu trúc Tháp đồng hồ ở mặt Đông Bắc của công trình Quốc hội ở Westminster, London. Mặc dù tháp này được biết đến với tên gọi Big Ben, nhưng thực ra tên này chính là tên của cái chuông đặt trong tháp.








      Tháp đồng hồ Big Ben



      Chúng tôi đến London trong những ngày gần lễ Giáng sinh nên các cây cầu có rất nhiều ông già Noel da đen đứng chơi những bản nhạc du dương, còn khách du lịch đứng ghé vào chụp hình làm kỉ niệm. Tôi đứng nhìn dòng người qua lại, mỉm cười và thấy thành phố lãng mạn ở ngay trước mắt mình. Bước xuống cây cầu Westminster, chúng tôi hòa vào dòng người đứng ở hội chợ Noel, ghé vào những cửa hiệu bằng gỗ bé xinh xắn bán những món quà lưu niệm, quà Giáng sinh hay chỉ vài món ăn và đồ uống nóng lót dạ cho khách du lịch, rồi sau đó vòng quay trở lại ngắm Tháp chuông đồng hồ Big Ben sừng sững phía bên đường, cạnh đó là Tòa nhà Quốc hội cổ kính. Đây cũng là nơi thu hút rất nhiều khách du lịch với những chiếc máy ảnh được hoạt động ở công suất tối đa. Thậm chí, chúng tôi còn gặp đôi bạn trẻ người chọn nơi này để chụp ảnh cưới. Có lẽ ai có thể biết được có bao nhiêu bức ảnh được ghi lại ở đây.



      Quảng trường Trafalgar hôm đó rất đông người, thời tiết chỉ chừng 5-7 độ nhưng vì có nắng nên mọi người kéo nhau ra ngồi ở hồ nước và thả lỏng mình trước gian thoáng đãng. Chuyện cho bồ câu ăn bị cấm từ nhiều năm nay nên quảng trường bây giờ rất sạch , những chiếc ghế như muốn mời gọi du khách tới ghé ngồi. Ở đó, người ta có thể quan sát mọi thứ xung quanh, ngắm nhìn dòng người qua lại hay những chiếc xe buýt đỏ hai tầng - hình ảnh thể thiếu của London.



      Cách đó xa là nhà thờ Westminster, nhà thờ này được xây bằng đá trắng và gạch đỏ bên ngoài. Đây cũng là nhà thờ Thiên Chúa giáo chính của Vương quốc và xứ Wales. Sau đó, chúng tôi đường vòng tới công viên St. James, ngồi những chiếc ghế gỗ ngắm nhìn những con chim bồ câu bay xung quanh. Đây cũng là công viên cổ nhất của Hoàng gia , nằm gần Cung điện Buckingham và đường Downing. Nhiều người London thường tìm đến đây để tận hưởng khí thanh bình và thư giãn, nạp năng lượng cho ngày làm việc mới hay đơn giản chỉ để khẽ nhắm đôi mắt nghỉ ngơi, thư giãn. Khi qua công viên này, chúng tôi tới Cung điện Buckingham. Trước cổng, du khách đứng xem người gác cổng lại với những động tác luôn được lặp lặp lại khiến tôi nhịn nổi cười. bạn cùng tôi quay sang : “Nhiệm vụ cao cả này sao chẳng khác gì việc làm trò cười cho thiên hạ thế nhỉ?” Xung quanh chúng tôi rất nhiều người đứng xem và tủm tỉm cười.



      Hyde là công viên được nhiều người Việt Nam biết tới, bởi công viên này rộng nhất London và cũng khá nổi tiếng với góc diễn giả[3]. Công viên này trước đây là nơi săn bắn của vua Henry VIII nhưng vào thế kỉ thứ XVII công viên này được mở cửa cho dân chúng. biết có phải vì công viên này được bao bọc bởi nhiều con đường mua sắm hay mà rất nhiều người London thường vào đây để tranh thủ nghỉ trưa. bạn thân người Đức của tôi trước đây từng đến London và chạy bộ trong công viên này kể lại rằng, vào giờ nghỉ trưa, những nhân viên làm việc gần đó thường mang đồ ăn đến đây để vừa ăn, vừa hít thở khí trong lành và ngắm nhìn gian xanh thoáng đãng. bạn còn kể rằng vào những ngày Chủ nhật, ở Góc diễn giả, mọi người được phép tranh luận những chủ đề khác nhau, tự do phát biểu ý kiến và khách du lịch cũng kéo vào đây tham quan rất đông.



      [3] Nguyên văn: Speaker’s Corner.



      Maike và tôi quay trở lại Tháp London bằng con đường cũ khi trời sẩm tối. Ở London, vào mùa đông, 5h chiều, trời tối và ánh đèn điện được chiếu sáng khắp nơi. Gần Giáng Snh nên những hàng cây ven đường cũng được trang trí lộng lẫy với nhiều màu sắc khác nhau. Tôi lại lân la tới cây cầu Westminster để ngắm London vào đêm, vẫn London Eye, vẫn Big Ben sừng sững, vẫn là những cây cầu níu giữ bao bước chân người London và du khách tới đây. Tôi bỗng thấy London đẹp cách lạ lùng, vẻ đẹp về đêm của London vừa lộng lẫy, kiêu sa, lại vừa lung linh, huyền ảo. Trong giây phút ấy, tôi quên dòng sông Thames “đục ngầu”…



      Tới Tháp London lúc 8h tối, còn tiếng nữa trước khi lên xe để trở về Đức, tôi và Maike xuống ngồi trong quán cà phê phía dưới Cầu Tháp London. Bên cạnh quán cà phê là khoảng sân trượt băng rộng lớn, tôi nhìn những lượt người băng qua mình mà thấy lòng chới với. Vậy là sắp phải lời tạm biệt với thành phố này rồi. Khi chiếc xe chở chúng tôi băng qua cây Cầu Tháp London, tôi nhìn ra phía xa, với London mà như với chính mình: “London ơi, có ngày tôi trở lại!”








      London Eye








      Peace Garden ở Sheffield









      Sheffield - Thành phố bảy ngọn đồi






      Trước khi tới Sheffield tôi biết nhiều về thành phố này ngoài việc nơi đây có trường đại học danh tiếng nằm trong top 100 trường đại học tốt nhất thế giới. Tất cả chỉ có vậy. Tôi tới Sheffield cũng hẳn vì sức hấp dẫn của thành phố này mà bởi lý do hết sức ngớ ngẩn: Muốn York cùng với đứa em học ở Sheffield, vì thấy nàng khen York đẹp và bình yên quá. Nhưng rồi cuối cùng tôi vẫn thực được ước mơ tới York trong chuyến hành trình tới UK của mình mà chỉ dừng chân lại được ở Manchester, Liverpool, Chester và Sheffield. Có lẽ việc tới được York lần này trong những lý do để tôi quay trở lại UK lần nữa trong ngày xa.



      Ấn tượng đầu tiên của tôi khi tới Sheffield đó là thành phố nhàng quá, đại như Liverpool, hỗn loạn như Manchester. Sheffield hiền như xinh với ánh mắt thoáng buồn. Thư bảo những ngày đầu mới sang, nhìn Sheffield buồn tẻ nhưng bây giờ nàng quen với cuộc sống bên này, quen với những con đường dẫn tới giảng đường, những buổi dạy tiếng tình nguyện cho người nước ngoài và quen với việc tự do rong ruổi khắp các thành phố của UK. Có lẽ khi ở nơi nào đó lâu lâu chút, người ta mới có đủ thời gian để khám phá ra vẻ đẹp của nơi ấy - điều mà đứa chỉ ở Sheffield có vài ngày như tôi chắc hẳn cảm nhận được. Và cũng đúng như Thư : “Càng ở em càng thấy có nhiều điều rất thú vị ở Sheffield và thấy Sheffield hề như em vẫn nghĩ.”



      Sheffield là thành phố bảy ngọn đồi thuộc phía Nam vùng Yorkshire với khoảng 170 khu rừng và 88 công viên và vườn. Với địa hình đặc biệt như vậy, Sheffield hoàn toàn xứng danh là thành phố xanh nhất Châu Âu mặc dù trước đây thành phố này nổi tiếng và phát triển rất mạnh với công nghiệp thép. Các nhà máy thép mọc lên rất nhiều trong khi nhân lực lại thiếu trầm trọng nên Sheffield phải đón tiếp rất nhiều công nhân từ châu Phi sang, họ làm việc rồi ở lại đây sinh sống luôn. Vì thế Sheffield cũng là thành phố có nhiều cộng đồng quốc tế sống nhất, trong đó nhiều người biết tiếng .



      Sheffield thu hút khách du lịch nhiều như London, Liverpool hay Cambridge, nhưng lại là nơi lý tưởng để tham quan các vùng lân cận như Vườn quốc gia Peak District - khu du lịch nổi tiếng, thắng cảnh hùng vĩ và cũng là trong những địa danh gợi nhiều cảm hứng nhất của nước . Từ Sheffield tới đó chỉ mất khoảng hơn 30 phút nhưng bạn được ngắm Chatsworth House - trong những lâu đài cổ được thích nhất dành cho những bá tước của Hoàng gia thời xa xưa. Lâu đài này nằm ngọn đồi thơ mộng bên dòng sông Derwent, có rừng, núi, thiên nhiên và các tòa nhà cổ kính, tất cả đều nằm gọn ở nơi này. Tôi tới đây vào những ngày cuối tháng , đúng vào thời gian lâu đài đóng cửa nên vào được, chỉ nghe qua lời kể của Thư mà cứ thầm tiếc mãi.



      tới Chatsworth House được, chúng tôi quyết định tới thung lũng Rivelin nằm cách trung tâm thành phố Sheffield chừng 20 phút xe buýt. ra ở Sheffield có nhiều thung lũng khác nhau nhưng chúng tôi chọn Rivelin vì thấy nơi này có vẻ lý tưởng hơn cả. Theo thông tin mạng mất khoảng 60 phút để dọc thung lũng này nhưng chúng tôi mất ba tiếng cho chặng hành trình của mình. Nhưng với tôi, đó là ba tiếng quí báu được hòa mình cùng với thiên nhiên. Chẳng biết phải dùng ngôn từ nào mới lột tả hết được vẻ đẹp của nơi này, nhưng bạn hãy cứ hình dung thế này nhé: con đường bạn , bên là đồi, bên là suối, vì là mùa đông nên những cành cây vẫn còn trơ trụi lá nhưng với tiếng suối chảy róc rách và những tia nắng dịu dàng soi vào mặt nước, Rivelin vẫn đẹp đến nao lòng. Mùa này, do thời tiết vẫn còn lạnh nên khách du lịch tới đây nhiều, thi thoảng chúng tôi mới bắt gặp vài người chạy bộ ngang qua hay vài người dẫn chó dạo, vì thế tôi có cảm giác như thể thung lũng này thuộc về riêng chúng tôi ngày hôm đó vậy. Rivelin trong ánh nắng chiều càng trở nên dịu dàng hơn bao giờ hết. Đạng mải mê chụp hình. Thư kéo tay tôi chỉ ra phía đằng xa và thốt lên: “Chị ơi, nhìn kìa!” Tôi ngẩng đầu lên theo phản xạ và quay sang phía bên trái, những tia nắng vàng ươm trải dài cả ngọn đồi xanh non màu cỏ. Thực lúc đó tôi hề nghĩ mình ở nước đồng quê nào đó xa xa. Chúng tôi trèo lên ngọn đồi và dang tay ôm nắng, chạnh lòng chợt nhớ tới câu hát năm xưa: “Em muốn ôm cả đất, em muốn ôm cả trời, mà sao ơi, mà sao ơi, ôm nổi trái tim con người…” Có lẽ vòng tay tôi quá để ôm giữ trái tim con người hay bởi trái tim người ấy mênh mông và sâu rộng quá? Cho đến giờ đó vẫn là câu hỏi lời giải đáp trong tôi.



      Thư chụp lại giùm tôi những khoảnh khắc bình yên ấy, sau này mỗi lần tâm trạng bộn bề giữa ngổn ngang công việc, thỉnh thoảng tôi vẫn mở file ảnh cũ ra và xem lại những bức hình ngọn đồi còn thơm mùi cỏ ấy, để nhận ra rằng hạnh phúc của ngày hôm qua luôn nhắc tôi nhớ và cố gắng hơn cho tại của ngày hôm nay.



      ©STE.NT



      Gần 4h chiều, những giọt nắng đông càng trở nên yếu ớt, trời bỗng lạnh hơn. Chúng tôi ghé vào quán cà phê và cùng nhau nhâm nhi ly cappuccino nóng hổi, cứ như thế chúng tôi “lặn lội” cả chặng đường ài để tự thưởng cho mình điều này. Cả hai đứa mỉm cười hạnh phúc, tận hưởng những giây phút bình yên ấy, bởi rất có thể ngày mai, chúng tôi lại phải chạy theo vòng quay của cuộc sống đời thường và ai dám chắc liệu mình có còn thời gian để “sống chậm” như giờ phút tại của ngày hôm nay nữa…



      chuyến xe buýt từ Rivelin trở về trung tâm thành phố, nhìn ánh đèn những ngọn đồi thấp thoáng phía xa xa, cả tôi và Thư đều quay ra nhìn và trầm trồ nức nở: “Đẹp quá!” Hình ảnh ấy khác hoàn toàn với những gì tôi vẫn hằng tưởng tượng về nước mù sương.



      điều đặc biệt ở Sheffield mà tôi rất thích, đó là vé tàu xe ở đây rất rẻ. Nếu đặt vé từ sớm lại càng rẻ hơn. Đôi khi tôi trộm nghĩ nếu giá vé tàu ở Đức mà cũng rẻ thế này chắc cuối tuần nào tôi cũng dám vi vu lắm. Từ Sheffield xuống London xe buýt mất bốn tiếng mà cũng chỉ hết có sáu bảng , trong khi giá ở Đức phải đắt gấp vài lần như thế. biết ở châu Âu có nước nào có giá tàu xe “bèo” như thế nữa. Ngoài ra, ở Sheffield cũng có xe buýt chạy miễn phí trong trung tâm thành phố, cứ bảy phút là có chuyến. Hôm Rivelin vì ra nhà ga quá sớm mà biết phải làm gì, tôi và Thư leo lên xe buýt ngồi và hai vòng quanh trung tâm thành phố, ngắm Sheffield ở góc khác thay vì “căng hải” như buổi sáng trước đó.



      Có bạn là thổ địa dẫn chơi thích. Chúng tôi dạo quanh tòa thị chính được xây dựng từ thế kỉ XIX và nằm ngay chính giữa trung tâm thành phố. Phía trước tòa nhà này là đài tưởng niệm những người đã hy sinh cho tự do và hòa bình của Sheffield trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất và thứ hai. Tới Sheffield phải ra ngoại ô chút mới khám phá được nhiều điều thú vị từ thiên nhiên, nếu ở trong trung tâm thành phố chỉ dạo vòng buổi sáng là hết. Tuy nhiên, có điều đặc biệt ở Sheffield đó là thành phố này có khá nhiều nơi để thư giãn, cực kì lý tưởng cho thời tiết mùa hè, ví dụ như Peace Garden. có gì tuyệt vời bằng việc ngồi những chiếc ghế gỗ trong những ngày nắng đẹp để đọc sách, nghỉ trưa hay đơn giản là ngắm dòng người qua lại.








      Những căn nhà cổ ở Sheffield



      Dù là cuối tuần nhưng Sheffield hề nhộn nhịp và hối hả như Manchester hay Liverpool, nhưng chính tĩnh lặng ấy của Sheffield lại khiến tôi thích thú. Sheffield cũng có nhiều cửa hàng nho rất dễ thương, người ta cứ phàn nàn về giá cả ở đắt đỏ nhưng tôi thấy đời sống nơi đây cũng khá bình dân sau khi đảo qua vài siêu thị và xem xét “giá cả thị trường”. Chỉ cần chịu khó để ý chút là bạn hoàn toàn có thể ăn rẻ và ngon ở nơi này như bao thành phố ở Đức khác, hoặc có thể do Sheffield là trong những thành phố sống rẻ nhất ở nước nên tôi nhìn thấy đắt đỏ của nó chăng?



      Những ngày ở Sheffield là những ngày đầy kỉ niệm, do tiếp xúc với nhiều bạn đến từ miền Trung Việt Nam nên khi trở về tự nhiên tôi cũng lại bắt đầu với “mô tê răng rứa”, với thứ ngôn ngữ thân thuộc thuở nào mà từ lâu tôi quên nhưng hầu như dùng tới nó nữa, để rồi bây giờ tự nhiên thắc mắc: “Chạ hiểu răng UK có mấy ngày mà khi về mình lại giọng miền Trung hay phết là răng hè”.



      Tôi rời Sheffield vào sáng sớm ban mai và lên đường tới sân bay Manchester khi thành phố vẫn còn ngái ngủ. Trời se se lạnh và dự báo có tuyết. Nhìn cái dáng mỏng manh của Thư bên sân ga khi đứng lặng nhìn con tàu của tôi lướt qua nhàng, tự nhiên tôi thấy thương em đến lạ kì. Chỉ còn vài tháng nữa thôi, em kết thúc khóa học và trở về Việt Nam tiếp tục nghiệp giảng day. Tôi tự hỏi biết có khi nào, nhìn sinh viên nào đó có nụ cười na ná như tôi, em có nhớ lại những tháng ngày cùng tôi rong ruổi giữa đất trời UK năm ấy? Còn tôi, chắc thể nào quên…













      Đồi Gloriett trong cung điện Schönbrunn













      [ÁO]






      Vienna và mối tình của xứ Bavaria






      TÔI ĐẶT CHÂN TỚI THỦ ĐÔ Vienna của nước Áo xinh đẹp, quê hương của thần đồng nhạc Mozart vào những ngày tháng Ba khi trời còn se lạnh. bạn ở Sài Gòn nhắn tin sang dặn: “Thủ đô Vienna tuyệt lắm, có dòng sông Danube, những quán cà phê, những chiếc xe ngựa và điệu valse đầy quyến rũ. Nhớ ghé Nhà thờ Stephan em nhé, đó thức tuyệt tác đấy!” Tôi mỉm cười và bắt đầu chuyến hành trình thú vị của mình.



      từ lâu người ta biết đến Vienna chỉ là thủ đô nhạc của thế giới mà còn là thành phố của kiến trúc với những tòa lâu đài tráng lệ và những công trình kiến trúc độc đáo bậc nhất châu Âu. Ấn tượng đầu tiên của tôi khi tới Vienna là những chiếc xe ngựa chạy thong dong đường phố, lẫn đâu đó là tiếng xe điện và những chiếc xe hơi đại. Vienna khoác lên mình vẻ đẹp của thành phố cổ nhưng cũng rất trẻ trung và đại.



      Cung điện Sch

      önbrunn


      Tôi lang thang mình trong cái lạnh của thành phố với tấm bản đồ tay, địa điểm đầu tiên tôi đặt chân đến là Cung điện Schönbrunn - trong những cung điện được xây dựng theo kiến trúc Baroque[1] lớn và tráng lệ nhất ở Trung Âu, nơi có khu vườn rộng lớn bao quanh và cũng là trong những dinh thự quan trọng nhất ở Áo. Schönbrunn dịch ra tiếng Việt có nghĩa là giếng nước đẹp, tên gọi này bắt nguồn từ giếng phun nước để cung cấp cho triều đình. Cung điện này có hồ nước rất đẹp và ở phía bên hồ là đồi Gloriette cao chừng 60m. Đứng ở đó, người ta có thể ngắm toàn bộ thành phố Vienna. Có lẽ quá ngạc nhiên khi ngày nay nơi này trở thành trong những điểm du lịch nổi tiếng nhất của Áo và cũng là nơi tổ chức các lễ hội quan trọng của người dân Vienna. Ban đầu, đây là nơi săn bắn cho các gia đình quý tộc của Đế quốc Áo, sau đó cung điện được dựng lên nhưng phần lớn cung điện này chỉ là nơi nghỉ hè cho các bà quả phụ của Hoàng đế Ferdinand II. Đến khi Hoàng đến Franz Joseph I lên ngôi, ông mới chọn nơi này là nơi ở chính của mình, bởi thế nên khi dừng chân ở đây, người ta dễ dàng liên tưởng tới câu chuyện tình giữa Hoàng đế Franz Joseph I và 16 tuổi xứ Bavaria mang tên Elizabeth mà sau này nhiều người được biết đến qua bộ phim Hoàng hậu Sissi do nữ tài tử điện ảnh quá cố Romy Schneider thủ vai. Nàng Elizabeth xinh đẹp, quý phái này là trong những người phụ nữ đẹp nhất châu Âu thế kỷ XIX, có điều bà chưa bao giờ Vienna. Lúc nào bà cũng muốn thoát khỏi những ràng buộc của dòng họ Habsburg bởi bà cảm thấy độc khi ở nơi đây. Là người tự do, thích du lịch và khám phá, bà luôn tìm mọi cơ hội để thoát khỏi nơi “đè nén” cuộc đời bà, nhưng vì tình dành cho Hoàng đế Franz Joseph I nên bà ở lại Vienna.



      [1] Kiến trúc Baroque: Là thuật ngữ dùng để mô tả phong cách xây dựng của thời kì Baroque, Ý, bắt đầu vào cuối thế kỷ XVII, tận dụng những ngôn ngữ của kiến trúc Phục Hưng theo cách thức mới, với vận động liên tục của những bức tường uốn lượn.








      Lâu đài Hoàng gia



      Lâu đài Hoàng Gia



      Rời Cung điện, tôi tới Lâu đài Hoàng gia (Hofburg) - biểu tượng của nền di sản văn hóa Vienna - được xây dựng từ năm 1275. Toàn bộ các công trình của cung điện này nằm diện tích khá rộng với những vườn hoa, đài phun nước và những tòa nhà dành cho Hoàng gia. Trước đây, Lâu đài Hofburg là Cung điện Mùa đông của hoàng tộc Áo nhưng nay, nơi đây phần trở thành Thư viện Quốc gia, phần thành Bảo tàng dân tộc và phần nữa thành phủ Tổng thống. Phía trước lâu đài có rất nhiều xe ngựa làm tôi liên tưởng đến cuộc sống ngày xưa ở Áo. Trong cung điện Hofburg là viện bảo tàng của Hoàng hậu Sissi và phòng ở của Hoàng đế. Vốn rất mê bà hoàng hậu của nước Áo nên khi tới đây tôi dành cả buổi chiều để ngắm nhìn mọi bức hình, đồ vật và tất cả những gì liên quan đến cuộc sống của bà thời xa xưa. Tôi cứ ngỡ như mình lạc vào chính nơi bà từng sống…



      Giữa trưa, ánh mặt trời len lỏi vào trong thành phố. Tôi hòa vào dòng người phố và bách bộ ra Heldenplatz (còn gọi là Quảng trường hùng) - biểu tượng của thống nhất và độc lập của Áo. Đây là quảng trường khá lớn, thu hút được rất nhiều khách du lịch. Quả là nơi lý tưởng để chiêm ngưỡng những vẻ đẹp tiềm của Vienna. Ngày trước, khi học lịch sử của Đức và Áo, tôi được nghe thầy giáo kể về Hoàng tử Eugène của xứ Savoie, người đánh bại quân Thổ Nhĩ Kỳ để mang lại vinh quang cho nước Áo. Thế nên, khi đến Vienna, tôi muốn tới bằng được quảng trường này. Ngoài bức tượng của hoảng tử Eugène, quảng trường còn có bức tượng người hùng Archduke Karl cưỡi ngựa khoe chiến thắng của mình trong trận Aspern - Essling năm 1809.



      Từ đây, người ta có thể xe buýt về hướng ga phía Đông để tới Cung điện Belvedere. Nếu như người ta đến Vienna và thích Schönbrunn tôi lại thích Belvedere hơn. Tôi lý giải được vì sao nhưng tôi thích cái cảm giác lang thang từ “cung điện ” xuống “cung điện dưới”, thích ngồi bên chiếc ghế đá ngắm những chiếc vòi phun nước và những luống hoa đủ sắc màu. Thích đứng ở “cung điện ” nhìn xuống “cung điện dưới” và có cảm giác như mình được ngắm bức tranh thiên nhiên thơ mộng. Những bức tượng, vườn hoa được chăm tỉa rất kĩ lưỡng. Lác đác xung quanh là những bạn trẻ ngồi đọc sách, nghe nhạc và tận hưởng “vùng trời bình yên” của riêng họ.



      đến Vienna thể tới nhà Hundertwasserhaus do nghệ sỹ người Áo Friedenreich Hundertwasser thiết kế. Bởi đây đơn thuần là khu căn hộ mà là tác phẩm nghệ thuật sinh động góp phần tôn vinh thêm vẻ đẹp cho thành phố vốn nổi tiếng về văn hóa, nghệ thuật và kiến trúc như Vienna. Cũng như người ta thể bỏ qua Stephandom với cái chóp cao chót vót và được người dân Áo gọi với cái tên trìu mến là “Steffl”. Với độ cao 137m, Stephandom cũng là thánh đường cao nhất ở châu Âu đồng thời cũng là biểu tượng của thủ đô Vienna. Tôi thích những buổi chiều khi nắng vừa tắt và những ánh đèn điện bắt đầu được bật lên, xung quanh là tiếng nhạc của người nghệ sĩ đường phố, là hò reo của những người đứng xem ảo thuật, là tiếng xuýt xoa của các em khi nhìn những bức hình của những người họa sỹ vẽ “y như ”, là những tiếng cười của những đôi tình nhân nắm chặt tay nhau. Dường như khi màn đêm bắt đầu buông xuống, xung quanh Stephandom là nơi lý tưởng để gặp gỡ, hẹn hò. Tự nhiên tôi ước giá như mình cũng có người để… hẹn hò ở đấy, để học lại cách nắm tay người, điều mà từ lâu rồi tôi còn làm nữa.



      Dọc theo con đường Ringstraße - nơi tập trung những địa danh nổi tiếng của thành phố như Tòa nhà Quốc hội, Lâu đài Hofburg, Bảo tàng Mỹ thuật, tôi lang thang những con đường, có rất nhiều nhạc sĩ đường phố với những bản nhạc tên hoặc cũng có thể là những bản nhạc bất hủ của Mozart, của Strauss được vang lên. từ lâu, Vienna được mệnh danh là chiếc nôi nhạc cổ điển của châu Âu, có lẽ vì thế nên tới đây, tôi cũng quá ngạc nhiên khi thấy ngay cả những con hẻm bé nhất ở Vienna, những điệu nhạc vẫn được vang lên. Ở nơi đây, người ta dễ dàng thấy những quán cà phê xinh đẹp, thu hút rất nhiều khách du lịch. Dường như đối với người dân Vienna, những quán cà phê ấy là phần thể thiếu trong cuộc sống của họ. Bước vào các quán cà phê, du khách như lạc vào thế giới khác. Hình thức các quán cà phê cũng rất bắt mắt, những bức tường thường được chạm trổ rất kì công và trần nhà còn treo những chùm đèn pha lê lơ lửng.



      Tới Vienna, người ta thể ghé thăm Nhà hát Vienna Opera House - trong những nhà hát lớn và đẹp nhất thế giới được xây dựng từ năm 1861 tới năm 1869. Nhà hát này được mệnh danh là Trung tâm ca kịch của thế giới bởi công trình kiến trúc hùng vĩ mang phong cách La Mã này gồm sáu tầng với 1.600 chỗ ngồi, riêng tầng sáu có sức chứa hơn 500 khán giả. Mỗi năm, nhà hát có khoảng 300 buổi biểu diễn.



      Trước khi đến Vienna, tôi tự nhủ là phải đến bằng được Naschmarkt - khu chợ lớn nhất của Vienna. Tôi từ đầu chợ tới cuối chợ và từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Ở đây cái gì cũng có, nhất là các món ăn, đặc biệt là pho mát và ô liu. Mùi thơm của các loại trái cây như mít, sầu riêng và cả mùi phở làm tôi nhớ đến những ngày còn ở Việt Nam. Khi hết con đường, tôi vòng lại và dừng chân ở quán ăn Việt Nam, mùi bún bò Huế thơm lừng khiến tôi thấy mình sống những khoảnh khắc đặc biệt ở nơi phải quê hương mình.



      Có lẽ đến với Vienna cũng là cách để và hiểu thêm về dòng sông Danube. Dòng sông dài thứ hai của châu Âu này khi tôi đặt chân tới này vẫn xanh và hiền hòa như tôi từng tưởng tượng. Mùa hè ở đây luôn tấp nập khách du lịch, những quán cà phê và nhà hàng mọc lên ở khắp nơi. dòng sông, có rất nhiều đôi tình nhân rủ nhau chèo thuyền. Biết bao nhiêu người từng ao ước được ngắm dòng sông ấy lần, còn tôi đứng giữa nơi này, chợt nhớ về câu chuyện tình đẹp và buồn của Sissi - người mà sau này từng rằng trở thành Hoàng hậu của nước Áo là điều bà vô cùng hối tiếc.



      Tôi tới Vienna vào buổi tối mùa đông se lạnh và rời Vienna vài ngày sau đó vào sáng sớm tinh mơ buốt giá. đưa tôi ra ga mà tôi thấy lòng mình trĩu nặng. Dù chưa lần vào quán cà phê để ngồi nghe những bản nhạc cổ điển, dù chưa ngồi lên xe ngựa để dạo quanh thành phố như người ta vẫn thường làm khi tới Vienna, nhưng kỉ niệm về thành phố này có lẽ còn theo tôi suốt những chặng đường phía trước.








      Thành phố Salzburg nhìn từ cao









      Salzburg - Giai điệu tình






      TỪ MUNICH, TÔI ĐẾN Salzburg vào những ngày đầu tháng Ba cùng chị bạn khi những bông tuyết còn sót lại pháo đài Hohensalzburg hòa cùng tiếng nhạc của Mozart vang lên những góc đường và những con phố dẫn vào lòng thành phố.



      Trước đây, khi nghe đến Salzburg, tôi chỉ biết đó là quê hương của nhà soạn nhạc nổi tiếng, đồng thời cũng là đứa con cưng của Salzburg: Wolfgang Amadeus Mozart. Nhưng khi tới Salzburg rồi, tôi mới biết, nơi này chỉ có nhạc mà còn có cả thơ mộng, trữ tình và vẻ đẹp cổ kính mà người ta khó có thể tìm thấy ở bất cứ nơi nào khác thế giới.



      Chúng tôi lái xe vào trung tâm thành phố, tìm chỗ đậu xe, rồi dừng chân tại ngôi nhà của Mozart - bây giờ trở thành viện bảo tàng. Chị Bình mua hai chiếc vé và chúng tôi bước vào căn nhà chứa đầy những kỉ vật thời xa xưa của người nghệ sĩ tài hoa này: những bản nhạc viết tay, những bức hình theo dấu thời gian vẫn chưa ngả màu. Tôi có cảm giác như mình lạc vào căn phòng của Mozart thuở xưa với những tiếng nhạc vang lên đâu đó xung quanh mình.



      Rời viện bảo tàng, chúng tôi qua cây cầu bắc ngang dòng sông Salzach và bước vào khu phố cổ. Dù thời tiết còn se lạnh nhưng người ta vẫn cảm nhận được ấm áp của thành phố bé này. Bên trong những quán cà phê, tôi tưởng tượng ra khung cảnh những cặp tình nhân ngồi nhâm nhi ly cà phê và nghe nhạc Mozart, tận hưởng bình yên của cuộc sống.



      Từ năm 1997, khu phố cổ ở Salzburg được công nhận là Di sản văn hóa thế giới, bởi thế nên khi qua những con phố như Getreidegasse, Judengasse, Goldgasse, người ta có thể chiêm ngưỡng nhiều công trình kiến trúc cổ, đan xen nhiều nét đại. Tôi thích nhất là được ngắm nhìn những đồ lưu niệm bé xinh xắn có in hình Mozart và cách bày biện của người dân Salzburg để “níu chân” khách du lịch khi đặt chân tới đây, khiến họ thể “về ”.



      Hầu hết những địa điểm tham quan trong thành phố này đều nằm rất sát nhau nên mọi con đường đều dẫn đến những nơi chúng tôi muốn tới thăm. Chị Bình và tôi dừng lại trước tiệm Imbiss[1] và mua xúc xích ăn tạm, tôi chọn xúc xích trắng, chị chọn xúc xích màu và hai chị em đứng ăn ngon lành giữa mùi xúc xích nóng và cái lạnh căm căm ở ngoài trời, dù đeo găng tay nhưng tôi vẫn thấy cái lạnh tìm cách len lỏi vào từng thớ thịt trong người mình. Chúng tôi dừng chân ở Nhà thờ Dom uy nghi và lộng lẫy. Khi bước vào, chị Bình xuýt xoa: “Nếu được cưới lại lần nữa, chị làm lễ cưới tại nhà thờ này!” Tôi bật cười và mường tượng ra cảnh chị xúng xính trong chiếc váy dâu bước vào nhà thờ. Đúng lúc đó, tôi nhận được tin nhắn từ người đặc biệt: “Em ở đâu đấy?” Tôi cầm điện thoại và nhắn lại: “Em ở trong Nhà thờ Salzburger Dom ở Salzburg, có muốn em nguyện cầu điều gì ?” Tin nhắn trả lời chỉ vẻn vẹn dòng chữ: “Hãy cầu nguyện cho chúng ta, em nhé?”



      [1] Quán ăn nhanh có chỗ ngồi và có nhà vệ sinh.








      trong những cửa hàng bán đồ lưu niệm về Mozart



      Tôi quan sát nhà thờ - nơi ngày xưa từng làm lễ rửa tội cho cậu bé Mozart. Nhà thờ này được khánh thành vào ngày 24 tháng 9 năm 774 và cũng là nhà thờ lớn nhất ở Salzburg. Kể từ ngày ra đời, nhà thờ này bị cháy vài lần và sau đó liên tục được tu sửa và nâng cấp, nếu để ý kĩ ở phía bên ngoài, bạn nhìn thấy những con số: 774, 1628 và 1959 - đây là ba thời điểm đánh dấu hoạt động trở lại của nhà thờ sau mỗi lần bị hủy hoại.



      Đứng trước Nhà thờ Salzburger Dom, tôi nhìn thấy Pháo đài Hohensalzburg ở cao, lúc đầu tôi bảo chị Bình: “Mình trèo thang bộ lên đó nhé, trèo cho lãng mạn, ngắm được nhiều cảnh hơn” nhưng cuối cùng, chúng tôi cũng phải đầu hàng vì chẳng thấy ai lãng mạn như mình cả, có lẽ bởi nó dốc và phải trèo quá nhiều bậc thang mới lên được đến đỉnh nên cả hai chị em ngậm ngùi mua vé để “ thang máy”. Ở phía nhìn xuống, chị Bình xuýt xoa: “May mà chị nghe lời em bộ lên đây, chứ nếu chắc chị phải mất ba ngày mới lên được đến đây mất!” Pháo đài Honhensalzburg nằm đỉnh núi sát bờ sông và cũng là biểu tượng của thành phố Salzburg. Pháo đài này được hình thành vào năm 1077 và sau đó liên tục được mở rộng thêm. Ngày nay, pháo đài là Viện Bảo tàng Nghệ thuật Quân của Áo. Với hơn 900 năm tuổi, pháo đài này được xem là pháo đài cổ và nguyên vẹn nhất Trung Âu. Nghe nguyên nhân của việc xây pháo đài này bắt nguồn từ cuộc xung đột giữa nhà thờ với triều đình và pháo đài này được xây dựng để chống lại tấn công của lính triều đình. dạo ở phía bên trong pháo đài, người ta có thể chiêm ngưỡng các căn phòng từ thuở xa xưa và đời sống thời Trung cổ với những vật còn được trưng bày và lưu trữ trong các ngăn tủ kính. biết pháo đài có tất cả bao nhiêu căn phòng nhưng tôi thầm nghĩ nếu được chơi trốn tìm ở đây có lẽ khó mà tìm ra nhau. Từ pháo đài, người ta có thể nhìn thấy những khu phố cổ, thấy dòng sông Salzach thơ mộng và ở phía xa là những dãy núi trùng trùng điệp điệp phủ đầy tuyết trắng. Tôi đoán rằng chắc chắn ở núi cao kia trong những khu trượt tuyết nổi tiếng nhất của nước Áo. từ lâu, chỉ khách du lịch từ nước Đức láng giềng mới khăn gói sang Áo trượt tuyết mà người dân ở các nước Trung Âu khác cũng đua nhau tới nơi này trong mùa đông khi tuyết bắt đầu rơi.



      Có lẽ Salzburg nổi tiếng chỉ bơi Pháo đài Hohensalzburg và ngôi nhà của Mozart mà còn bởi vô số những lâu đài khác. Trước khi quay trở lại bãi đỗ xe, chúng tôi dạo vòng quanh Lâu đài Mirabell. Lâu đài này được tổng giám mục Wolf Dietrich von Raitenau cho xây dựng vào năm 1606 cho người tình của ông là Salome AIt. Bà sinh cho ông 15 người con và là mối tình lớn nhất của ông. Ông xây dựng lâu đài này cho bà và các con của mình. Những khu vườn rất rộng với những vòi phun nước đẹp, tôi thầm tiếc vì tới thăm lâu đài này khi trời vẫn còn quá lạnh và hoa chưa kịp nở dù giờ là gần nửa tháng Ba. Có lẽ nếu đến đây vào mùa xuân, khi hoa nở rộ khắp khu vườn, người ta dễ dàng cảm nhận được bình yên và thư thái khi bộ xung quanh đó. Ngày nay, lâu đài trở thành trụ sở làm việc của thành phố và tòa thị chính.



      Trước khi rời Salzburg để trở về Munich, tôi và chị Bình bằng mọi giá phải ghé thăm lâu đài Hellbrunn. Tôi nhìn thấy bảng hướng dẫn chỉ đường phố nên cứ nghĩ là nó cũng nằm đâu đó xung quanh đây nhưng mãi mà vẫn thấy, trong khi biển bảo ngoài đường chỉ hướng về Munich. Chúng tôi dừng lại hỏi người đường và người Áo ấy chỉ sang phía bên kia đường, ra từ trung tâm thành phố lái xe tới đây cũng phải mất hơn 30 phút. Lâu đài này được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới với rất nhiều hang động và nhiều hình thức trình diễn bằng sức nước. Ngoài ra, còn cósở thú trong khuôn viên lâu đài này, nhưng khi chúng tôi tới phần lớn những loài thú vẫn còn ngủ đông, nên chỉ có số ít con vật người ta vẫn để ở bên ngoài cho du khách tới chiêm ngưỡng.



      Rời Salzburg, nơi được mệnh danh là thiên đường bé của nước Áo, tôi cứ nghĩ mãi về khung cảnh bình yên của nơi này. Khác với vẻ đẹp lộng lẫy của Vienna, Salzburg khoác lên mình chiếc áo thơ mộng, thanh bình hơn. Thành phố bé này làm say đắm biết bao nhiêu người từng tới đây và bây giờ tôi cũng biết: Salzburg chỉ có Mozart mà còn nhiều, nhiều hơn thế nữa!

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      góc chợ Hala Targowa ở Wroclaw













      [BA LAN]









      Wroclaw - Nơi tình mãi ru người






      BA LAN LÀ NƯỚC láng giềng cuối cùng của Đức mà tôi quyết định dừng chân trong chuyến hành trình khám phá châu Âu năm nay. Khác với mọi chuyến khác, tôi đặt vé tàu và khách sạn chỉ hơn tuần trước khi nên hy vọng là tìm được vé rẻ. Nhưng ơn trời, có lẽ là do ăn ở tốt nên cuối cùng tôi vẫn “săn” được hai tấm vé mà tôi biết giá của nó thể rẻ hơn được nữa, đến nỗi khi ra nhà ga hỏi mua vé, nhân viên bán vé còn trịnh trọng xin lỗi và bảo tôi rằng có giá nào rẻ như thế cả sau khi đưa đầy đủ thông tin nơi và nơi đến vào máy tính. Nhưng tôi kiên quyết bỏ cuộc và bảo ông vào trang web của DB Bahn (tập đoàn đường sắt lớn nhất của Đức), sau hồi tìm kiếm, cuối cùng tôi cũng mua được hai tấm vé đúng như số tiền mình muốn trả. Nhân viên bán vé nhìn tôi mỉm cười và cảm ơn vì nhờ có tôi mà ông biết thêm được điều thú vị. Sau này, khi kể cho cậu bạn học cùng lớp nghe, chàng phá lên cười và bảo: “Câu bây giờ trở thành chuyên gia săn lùng vé rẻ rồi còn gì. Sau này có đâu, tớ nhất định phải hỏi cậu trước khi liên hệ với nhân viên bán vé vì kiểu gì cậu cũng tìm được cho tớ vé rẻ hơn họ.”



      Tôi tới Ba Lan với rất nhiều cảm xúc lẫn lộn, hệt như là tìm lại dấu chân của ông bà nội nuôi người Đức của mình năm nào. Còn nhớ khi ông nội nuôi của tôi còn sống, mỗi lần tôi tới chơi, ông đều kể cho tôi nghe rất nhiều kỉ niệm về đất nước và con người Ba Lan, về ngôi nhà tuổi thơ và thành phố lẽ ra là của Đức nhưng sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, mảnh đất đó thuộc về Ba Lan. rất nhiều lần muốn tới thăm miền đất ấy nhưng rồi lúc nào tôi cũng nghĩ: “Ba Lan ngay bên cạnh, lúc nào chẳng được, giờ phải ưu tiên đến những đất nước xa xôi khác ,” thế nên tôi cứ lần lữa mãi. Cuối cùng, nhân chuyến thăm người bạn thân ở Chermnitz, tôi quyết định ghé Wroclaw lần cho thỏa lòng.



      Chỉ ở Wroclaw có ba ngày nhưng trong ba ngày ngắn ngủi đó, tôi thực bị người Ba Lan chinh phục. Tôi quên hình ảnh người Ba Lan tặng cho tôi hai chiếc vé xe buýt khi tôi còn loay hoay tìm đường từ ga về nhà trọ. Tôi cũng quên hình ảnh chàng người Ba Lan áy náy vì được tiếng nên chẳng biết giải thích cho tôi cách rút tiền như thế nào bèn kiên nhẫn đứng hướng dẫn cho tôi từng bước bằng tiếng Ba Lan máy ATM. Tôi cũng quên hình ảnh hai nhân viên làm ở nhà ga trong buổi chiều mưa lạnh tôi run lập cập đứng đợi tàu về lại Đức. Khi biết mình thể giúp được tôi, họ nhờ doanh nhân người Ba Lan lại gần và giúp đỡ tôi khi tôi còn loay hoay biết đợi ở đường ray nào vì nhà ga trong giai đoạn tu sửa nên mọi thứ theo trật tự nào cả. Tôi mang theo về nước Đức những tình cảm ấy cùng tất cả vẻ đẹp của đất nước, con người Wroclaw. và trở về để biết rằng thế giới đẹp và đâu đó xung quanh ta, vẫn còn rất nhiều những tấm lòng đầy bao dung, trìu mến…



      Sau gần tiếng lang thang đường phố để tìm nhà trọ (về đến nơi rồi tôi mới phát ra là mình vòng tròn), cuối cùng chúng tôi cũng tìm ra được khu nhà của mình. Khi đặt vé Hostelworld, địa chỉ của nhà trọ ghi là Kazimierza Wielkiego 27, nhưng khi tới nơi và nhìn đúng số nhà tôi lại thấy đề là Europeum Hotel khiến tôi biết phải làm thế nào. Vào hỏi nhân viên quán bar họ chỉ tôi tới con đường bên cạnh, nhưng mãi vẫn chẳng thấy, đến khi quay lại tôi mới phát ra ngõ vào bên trong và thốt lên: “ ra nó nằm ở trong cái góc này.” Việc tìm nhà trọ được xử lý êm xuôi dù có phải hơi vòng vèo chút, tôi cũng bắt đầu thấy đói nhưng trong ví tiền chỉ toàn tiền euro, mà theo lời dặn của người phụ nữ người Ba Lan ngồi chuyến tàu “Ở Wroclaw, người ta nhận tiền euro, thế nên cháu phải đổi sang tiền Ba Lan. Ngay ở nhà ga có cái Kantor[1], cháu vào đó đổi mất thêm lệ phí gì cả”, nhưng do nhà ga tu sửa nên tôi chẳng tìm thấy cái Kantor nào cả, thế là tôi cứ ung dung về nhà trọ, đến lúc đói mới cuống cuồng lên tìm máy ATM để rút tiền và dĩ nhiên mất oan tiền lệ phí, nhưng ơn trời, tiền euro đổi sang tiền Ba Lan cũng lời kha khá, sau khi xem xét giá cả các quán ăn và thấy rẻ hơn nhiều so với ở Đức, chúng tôi quyết định vào nhà hàng sang trọng nằm ngay bên Tòa thị chính và thưởng thức món cá mang đậm phong cách Ba Lan vô cùng ngon với giá cả rất phải chăng cho cả hai người kèm đồ uống - chưa đầy 20 euro.



      [1] Kantor: Quầy đổi tiền ở Ba Lan.








      Bên dòng sông Odra thơ mộng



      Wroclaw trong đêm rực rỡ dưới ánh đèn, thành phố lung linh và huyền ảo. khó tưởng tượng được trong chiến tranh, thành phốày gần như bị phá hủy hoàn toàn, thế mà giờ đây Wroclaw nhanh chóng khôi khục và trở thành trong những điểm du lịch hàng đầu của Ba Lan. Chúng tôi dạo bước bên quảng trường Rynek - trong những trung tâm kiến trúc nổi bật của Wroclaw và chỉ dành cho người bộ được bao bọc bởi rất nhiều nhà hàng và cửa hiệu mua sắm. Ban ngày, số lượng người tập trung ở đây nhiều, hầu hết chỉ là khách du lịch tới ngắm nhìn những ngôi nhà nhiều sắc màu. Trong cuộc bình chọn 10 thành phố màu mè nhất thế giới Wroclaw vinh dự đứng ở vị trí thứ bảy, mặc cho những công trình kiến trúc lâu đời nhưng vẻ ngoài trông vẫn còn rất mới vì chúng liên tục được đổi màu. Khi màn đêm bắt đầu buông xuống quảng trường bắt đầu trở nên tấp nập. Bên những vòi phun nước, mọi người ngồi những chiếc ghế đá trò chuyện, uống cà phê và tận hưởng bình yên của cuộc sống. Tôi nhớ trong bài phỏng vấn, khi phóng viên hỏi: “Những điều gì các du khách nên biết về Wroclaw?”, thủ thành của MU, Tomasz Kuszczak về quê hương của mình rằng: “Đó phải là trong những thành phố nổi tiếng nhất tại Ba Lan nhưng nó rất đẹp. Wroclaw có rất nhiều tòa nhà với tuổi thọ hàng trăm năm và tất cả đều vô cùng đẹp. Quảng trường chính - trong tiếng Ba Lan được gọi là ‘Rynek’ có tất cả mọi thứ - nhà hàng, quán cà phê, quán bar hay các cửa hiệu lớn. Tôi luôn dành thời gian đến những nơi đó khi tôi về nhà. Chúng tôi cũng có vài công viên khá đẹp và tôi cũng thể nhắc đến vườn thú tại Wroclaw.”



      ©STENT



      Công bằng mà Wroclaw lớn, chỉ trong vòng ngày chúng tôi có thể tham quan hết được “danh lam thắng cảnh” ở nơi này. Từ Rynek, chúng tôi tới Hala Targowa, đây là khu chợ nổi tiếng ở Wroclaw với rất nhiều rau quả tươi, giá cả cũng rất phải chăng. Tôi nhìn gương mặt của những người bán hàng, họ buôn bán ở khu chợ này quanh năm nhưng dường như họ vẫn rất lạc quan. Suy cho cùng có lẽ ai cũng cần tiền nhưng phải ai cũng phải cố gắng kiếm nhiều tiền bằng mọi giá. Chúng tôi dạo vòng quanh khu chợ, chụp vài bức hình lưu niệm rồi về phía cây cầu Most Tumski mà người dân Wroclaw vẫn gọi đó là cây cầu của những người nhau do khung cảnh xung quanh cây cầu khá đẹp và thơ mộng, màu xanh của cây cầu hòa vào màu xanh của dòng sông Odra tạo nên một Wroclaw thơ mộng, trữ tình. Most Tumski cũng là cây cầu nối khu phố cổ với Thánh đường Isle - trong những thánh đường rất đẹp. Chúng tôi vào cầu nguyện rồi sau đó dạo dọc quanh dòng sông Odra trong cái nắng tháng Mười tươi đẹp. Tôi nhớ mãi câu của Steve Jobs khi ông biết mình mắc bệnh ung thư: “hời gian của các bạn có hạn, vì thế đừng lãng phí nó vào việc sống cuộc đời của ai khác. Đừng nhốt mình trong những suy nghĩ giới hạn của người khác. Đừng để quan điểm của người khác làm át tiếng bên trong bạn. Và quan trọng nhất, hãy can đảm theo trái tim và trực giác của chính mình. Vì chỉ có bạn mới biết được mình muốn gì. Tất cả những gì còn lại chỉ là phụ mà thôi… Hãy luôn khát khao. Hãy cứ dại khờ.”



      Miên man theo dòng suy nghĩ, chúng tôi tới Hala Ludowa tự khi nào chẳng hay. Đây là tòa nhà được thiết kế vào đầu thế kỉ XX với mái vòm tròn độc đáo tượng trưng cho kiến trúc thời đại mới. Nằm ngay cạnh tòa nhà này là vòi phun nước lớn và gian xanh vô cùng thoáng đãng. Những đôi bạn trẻ người Ba Lan thường vào đây chụp ảnh cưới, còn những cụ già thong thả dạo trong công viên với những cây cầu bé xinh xinh và khu vườn Nhật Bản ngập xác lá vàng bay. Thời tiết tháng Mười dễ chịu, nhưng dường như trong khắp cả công viên, chỉ có hai đứa chúng tôi lang thang ở đó, bác bảo vệ thỉnh thoảng lại qua, nhìn chúng tôi khẽ mỉm cười. Tôi tự hỏi tại sao có khu vườn đẹp và thơ mộng thế này mà người dân Ba Lan tới tận hưởng, phải chăng họ quá quen thuộc với điều này hay bởi vì Wroclaw nơi nào cũng bình yên và dễ chịu như thế? Tôi buông mái tóc dài nuôi suốt nhiều năm qua bên dòng suối và đắm mình trong vẻ đẹp của mùa thu…



      Ánh nắng cuối ngày tắt dần, chúng tôi rời công viên và quay trở về khu phố cổ, tôi chợt nhận ra là ở Wroclaw có khá nhiều cây cầu lộng lẫy với đủ những sắc màu xanh, vàng, đỏ. Khi hoàng hôn buông xuống cây cầu Most Grunwaldzki, Wroclaw càng trở nên dịu dàng và đằm thắm. loay hoay với cái bản đồ để tìm lại đường nhanh nhất về khu phố cổ người đàn ông trung niên bỗng dừng lại và ngần ngại dắt chiếc xe đạp của mình bộ cùng chúng tôi đoạn đường dài. Ông ông là người Hà Lan và sống ở Wroclaw hơn hai năm nên thuộc mọi ngõ ngách ở nơi này. Ông cuộc sống và con người ở đây nhưng ông vẫn nhớ Amsterdam vô cùng và quay trở lại vào ngày xa. Tình cảm của những con người xa lạ mảnh đất người quen ấy khiến tôi vô cùng xúc động. Sau này khi trở về Đức, mỗi khi nhớ lại những ngày ở Wroclaw, tôi vẫn thấy tiếc vì mình tới nơi này sớm hơn. Nhưng có hề gì, rồi tôi còn quay trở lại, có thể ở nơi nào đó chẳng ai chờ đợi tôi, nhưng tôi luôn khát khao được gặp lại những con người nơi đó.



      Wroclaw, tình mãi ru người…













      Nhà thờ Saints-Michel-et-Gadule










      [BỈ]









      Brussels - Mùi thơm quyến rũ






      TÔI CÓ Ý ĐỊNH TỚI Brussels từ lâu, hồi Pháp cũng có ý định ghé Brussels, nhưng vì thời gian quá cập rập nên tôi đành lùi lại, hẹn tới cuối hè cùng Jean Paul. Nhưng trong lúc chàng còn mải mê vi vu ở châu Á, tôi thầm lẻn sang Brussels mà lời thông báo. Đến khi quay trở lại châu Âu, tôi mới “thú tội” là qua Brussels rồi, cũng may là trước đó ngày tôi nhận được email của thông báo: “Cuối hè này về lại Việt Nam, đơn giản vì đất nước nào tuyệt vời hơn thế”. Thế là tôi lấy cớ luôn: “Em nằm mơ thấy cuối hè về Việt Nam thế là em qua Brussels trước rồi. Định bụng cùng qua Bruges và Ghent nữa nhưng lại về Việt Nam mất rồi”.



      Trước khi tới Brussels, tôi được vài người bạn cùng công ty bảo: “Trời! Bộ còn chỗ nào nữa hay sao mà qua Bỉ” hay vài người về toàn than vãn các diễn đàn là: “Brussels bé xíu, ngày là hết. có gì thú vị cả!” nhưng chừng nào chưa thấy tận mắt tôi vẫn chưa tin. Vả lại, qua 12 nước châu Âu mà tôi đặt chân đến, tôi nhận ra chân lý rằng có thành phố nào xấu cả, có thành phố nào “ có gì đáng xem cả” mà chỉ là người ta nhận ra vẻ đẹp, chịu tìm những thứ thú vị, hấp dẫn của thành phố đó mà thôi. Tôi tới Brussels với niềm háo hức bởi bất kì nơi nào tôi chưa có dịp đặt chân tới ở châu Âu đều chứa nhiều hấp dẫn cần khám phá.



      Tôi tới Brussels vào ngày nắng đẹp, thời tiết khoảng 22 độ, lý tưởng. K. Ngọc và tôi ghé vào siêu thị trong nhà ga mua bánh mì ăn lót dạ, sau đó ngồi nghiên cứu tấm bản đồ thành phố. Địa điểm đầu tiên chúng tôi tới là Quảng trường Lớn. Quảng trường này tuy rộng lớn như những quảng trường khác của châu Âu nhưng nó được bao bọc bởi nhiều tòa nhà cổ với những kiến trúc vô cùng độc đáo. Đây cũng là trong những khu phố cổ đẹp nhất châu Âu và là trung tâm thương mại lâu đời của Bỉ mặc dù nơi đây chỉ có tòa thị chính với mái được thiết kế theo kiến trúc Gothic. Nằm bên quảng trường này, nếu để ý kĩ người ta thấy tòa nhà với tấm biển Karl Marx, bởi đây là nơi mà Marx và Engels từng ở trong suốt ba mươi năm tại Bỉ để hoàn thành tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản.



      Tôi đứng giữa quảng trường ngắm nhìn dòng người qua lại và những cửa hàng bán tranh phong cảnh đẹp như mơ của nước Bỉ, như để du khách biết rằng họ sai lầm khi dừng chân ở đây.



      Nằm ở phía Nam quảng trường là bức tượng được mạ vàng của người phụ nữ. Du khách chen nhau chạm vào nó và chụp hình làm kỉ niệm. K. Ngọc bảo tôi “chạm tay vào đó gặp may mắn, nếu ai mà ước được có con có.” Tôi bảo: “Nếu người ta chưa muốn có con, nhỡ chạm tay vào đó và có con sao?” Tôi đùa và cũng luôn vì tôi mấy tin tưởng vào những điều như thế. Tất cả chỉ là cảm nhận của mỗi người. Sau này khi trở về nhà, tôi mới biết bức tượng đó tạc nữ hùng của thế kỉ XIV Everard Serclaes.








      Quảng trường Lớn được bao bọc xung quanh bởi những tòa nhà cổ với kiến trúc độc đáo



      Chúng tôi tản bộ tới những khu phố với những cửa hàng lưu niệm. Mùi sô--la ngào ngạt quyến rũ, những cửa hàng bán bánh quế kèm dâu tây thơm lừng khiến ai qua cũng phát thèm. Bỉ cũng là vương quốc dẫn đầu trong việc sản xuất sô--la, khắp mọi nẻo đường đều trưng bày sô--la với nhiều mùi vị và mẫu mã khác nhau. Trước khi về Đức, tôi cũng mua hộp sô--la để làm quà.



      điểm tham quan ở Brussels mà những ai tới đây đều “ muốn” bỏ qua, đó là tượng Manneken Pis - hình cậu bé đứng đái tè. Bức tượng xíu nhưng từ lâu trở thành niềm tự hào của người dân nước Bỉ, có thể đó chính là biểu tượng của thủ đô Brussels. Người dân Brussels vẫn hay thích đoán về ra đời của bức tượng này, ai xuất xứ của nó. Theo những thông tin từ trang miovista người ta truyền miệng kể rằng cậu bé đó là Herzog Gottfried III von Brabant, người trong trận chiến nhạo báng lính đối phương. câu chuyện tương tự khác lại kể lại rằng, các nghệ sĩ lấy người cảm hứng từ cậu bé có tên là Juliaanske, người lấy nước tiểu của mình thổi vào cầu chì của quả bom để cứu thành phố khỏi ngọn lửa. cần biết cậu bé nghịch ngợm này là ai, nhưng cho đến ngày nay hầu như ai cũng phải dừng chân ở đây khi ghé thăm Brussels. Bất cứ nơi đâu, ở cửa tiệm nào người ta cũng lấy bức tượng này ra để pha trò và bán thành đồ lưu niệm. cách kiếm tiền lạ nhưng độc đáo.



      Đến gần 2h trưa, khi bụng đói meo, chúng tôi quyết định ăn trưa. Tôi chọn món ốc nổi tiếng của Bỉ kèm cà chua và pho mát thơm lừng nhưng đĩa chỉ có vẻn vẹn 12 con nên ăn “ thoáng hết”. Có lẽ vì nỗi thèm ốc (tự dưng lại nhớ đến món bún ốc, cơm hến và canh cua ở Việt Nam) của tôi, nên tối hôm đó tôi được mời ăn nồi ốc to đùng. Đến Brussels mà lại ăn hải sản quả hơi lạ nhưng cứ dọc con phố ăn uống Gretrystraat với hàng chục cửa hàng hải sản thơm lừng xen lẫn với những cửa hiệu Pizza của Ý mà dừng chân lại ăn bữa e là khó mà bước tiếp được. Sau khi tôi “chiến đấu” xong gần hết nồi ốc no căng bụng, cái tội “tham thâm” nên giờ nhìn thấy ốc là tôi nổi da gà, nhưng bù lại tôi được lần ăn ốc Brussels đời. Tôi bảo đùa K. Ngọc “Ở Copenhagen mọi con đường đều dẫn tới biển, còn ở Brussels mọi con đường đều dẫn tới các … quán ăn”.



      Sáng hôm sau, chúng tôi thăm Metro Atominum - Viện bảo tàng Khoa học kỹ thuật có cấu trúc nhưphân tử với chiều cao 102m và được xây dựng từ năm 1958. Đây là công trình kiến trúc khá nổi bật ở Brussels. Khách đến thăm Brussels đều thể bỏ qua được điểm đến này. Chúng tôi xếp hàng mua vé và trong lòng các ống sắt nối các khối cầu kim loại lại với nhau, mỗi quả cầu có bán kính tới 19m. Leo bậc thang mãi mà vẫn lên tới ̉nh cầu vì có một dây chắn ngang cho chúng tôi tiếp. Chúng tôi đành bước xuống tầng và xếp hàng thang máy vì đoán là lên được đến đỉnh cầu để có thể nhìn ngắm thành phố từ cao. Chúng tôi được đền bù xứng đáng, mặc dù thời gian chúng tôi ở đó nhiều bằng thời gian xếp hàng mua vé và đứng chờ đến lượt mình vào thang máy. Từ đỉnh, tôi nhìn xuống và thấy toàn bộ Mini Europe. Khi tới Brussels tôi bảo K. Ngọc rằng kiểu gì cũng phải vào Mini Europe, K. Ngọc bảo hết nửa châu Âu rồi, ngắm tận mắt còn chưa chán hay sao mà lại thích vào đây ngắm mô hình người ta làm lại và “xúi” tôi nên vào. Nhưng những ai có dịp châu Âu thường xuyên nên vào công viên châu Âu thu này. Khoảng hơn 300 danh lam thắng cảnh của hơn 10 nước châu Âu đều có mô hình được xây dựng lại ở đây, như Tháp nghiêng Pisa ở Ý, tháp Eiffel ở Pháp, Cổng Brandenburg ở Berlin, cối xay gió ở Hà Lan… Có thể công viên này lưu lại được rất nhiều thành tựu văn hóa lịch sử của châu Âu từ xưa đến nay.



      Khác với nhiều nước châu Âu khác, thủ đô Brussels luôn tràn ngập cây xanh. Nhìn từ cao, những gian xanh của Brussels trông như những cánh rừng, cây cối xanh tươi và sum sê. Rừng nằm giữa thành phố, rừng tràn xuống những con đường lát đá bằng phẳng. đường trở về khách sạn, lần nữa tôi cho phép mình thong thả dạo qua những con phố để tận hưởng mùi hương quyến rũ ở nơi đây. Chẳng biết lúc nào tôi mới có dịp quay trở lại vùng đất này, nhưng chắc chắn điều rằng mùi hương ấy mãi khắc ghi trong từng nỗi nhớ và rất nhiều giấc mơ sau này của tôi.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Bức tượng nàng tiên cá trong công viên Tivoli







      [ĐAN MẠCH]









      Copenhagen - Thiên đường của những giấc mơ






      SAU GẦN ĐÊM LANG thang ở Hamburg, chuyến tàu hơn 7h sáng xuất phát từ Hamburg đưa chúng tôi tới Copenhagen bằng cả đường sắt lẫn đường thủy. Khi tàu tới cửa biển và chui luôn vào chiếc tàu thủy rộng lớn tự lúc nào, tôi vẫn chưa khỏi ngỡ ngàng. Từ trước đến nay, tôi mới chỉ biết đến việc xe hơi được vận chuyển bằng tàu thủy còn việc chiếc tàu hỏa với tốc độ di chuyển gần như nhanh nhất nước Đức chui cả vào trong chiếc tàu thủy vẫn còn quá mới mẻ với tôi. Khi tàu ở trong, chúng tôi buộc phải ra khỏi toa tàu hỏa và lên tàu thủy ở ngay cầu thang bên cạnh. Chiếc tàu thủy rộng lớn đưa chúng tôi tiến về phía thủ đô. tàu có đầy đủ mọi tiện nghi: những nhà hàng hải sản nho nhưng sang trọng, những cửa hàng bán đồ lưu niệm, mỹ phẩm… Ở đây, người ta có thể dạo thoải mái, như thể có thành phố thu tàu vậy. Chúng tôi bước ra boong tàu, gió thổi mạnh như muốn quật ngã tôi. Nhưng vẫn có rất nhiều người chịu khó chịu lạnh để ngắm đại dương trong nắng, khoảnh khắc ấy đẹp biết bao.



      Copenhagen đón tôi vào buổi trưa tháng Năm se lạnh. Nằm ở phương Bắc nên thời tiết ở đây có lạnh hơn chút so với các nước châu Âu khác. Sau khi làm thủ tục nhận phòng và nghỉ ngơi chút, tôi và Việt tìm tấm bản đồ thành phố để bắt đầu khám phá thủ đô bé nhưng vô cùng đáng này.



      Đan Mạch là nước nằm trong Linh minh châu Âu nhưng vẫn có đồng tiền riêng, nên để thuận tiện chúng tôi đổi sang tiền bản xứ. Sau phút ngỡ ngàng vì thành phố quá đẹp, tôi giật mình bởi ở đây dường như cái gì cũng đắt. từng tới Paris và London, tôi cứ ngỡ đó là những thành phố đắt đỏ nhất châu Âu, nhưng khi tới Copenhagen rồi tôi mới biết Paris vẫn còn thua xa. chai nước lọc loại 0,5l giá ở Đức chỉ khoảng 40 - 50 cent nhưng ở đây lên tới gần hai euro. Đồ ăn còn “kinh khủng” hơn nhưng nỡ để em Yến ăn bánh mì chống đói nên Việt hay mời tôi ở quán ăn “Yam Yam”. Chúng tôi mua ít cơm và rau trộn với cái giá cắt cổ rồi sau đó ăn chung. Tôi nhận ra rằng mức sống của người dân Đan Mạch khá cao, ít nhất là cao hơn tôi tưởng tượng rất nhiều.



      Copenhagen hấp dẫn du khách với các kiến trúc cổ xưa, các lâu đài, các nhà thờ và những con kênh chảy qua thành phố. Chúng tôi dạo trong ánh nắng chiều vàng óng hắt lên những ngôi nhà cao tầng và soi bóng dưới mặt nước. Chiều Copenhagen bình yên trong tiết trời se lạnh do ảnh hưởng của gió biển. Chúng tôi băng qua những cây cầu và dạo những con đường lát đá mỏng với những ngôi nhà chung cư treo hoa lơ lửng ban công. Do địa hình khá bằng phẳng nên xe đạp rất phổ biến ở Copenhagen. Lần đầu tiên bước ra đường phố Copenhagen, tôi ngỡ đây là Amsterdam thứ hai của châu Âu. thêm đoạn nữa, chúng tôi dừng chân cây cầu màu trắng, Việt bảo tôi: “Quay lại phía sau mà xem em kìa, nắng vàng phủ đầy những ô cửa kính phía cao”. Tôi quay lại, ngước lên nhìn và ngỡ ngàng. Chao ôi, nắng chiều ở bán đảo Scandinavia đẹp biết bao nhiêu. Chiều Copenhagen ra bình yên trong cái se se lạnh của gió biển. Gió luồn lách qua từng con đường lát đá mỏng, vi vu từng cây cầu, chui cả vào các khu nhà chung cư đùa giỡn cùng giàn hoa lơ lửng ban công và lao theo đoàn người chạy xe đạp phố.



      Stroget - con đường cổ nhất Copenhagen



      Xuyên qua trung tâm thành phố, ở hai đầu là hai quảng trường rộng lớn, Stroget dài hơn 2km, chỉ dành cho người bộ và luôn đông nghịt người qua lại. Có rất nhiều quán ăn tập trung con đường này, từ những nhà hàng Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kì đến Ý, Pháp và dĩ nhiên cả Đan Mạch nữa. Từ những quán ăn bình dân cho đến những quán ăn đắt đỏ, du khách tới đây luôn có rất nhiều lựa chọn phù hợp với túi tiền của mình. chỉ có vậy, con phố này cũng có rất nhiều bảo tàng trưng bày những đồ vật lạ kì, hấp dẫn.



      Từ con đường này, có khá nhiều con hẻm tỏa khắp nơi. Những con hẻm lúc ban mai dường như vẫn còn ngái ngủ, thậm chí ngay cả những cửa tiệm bán đồ ăn sáng trông rất bắt mắt cũng vẫn còn thưa thớt người. Cách trưng bày của những tiệm ăn ngoài trời ở Copenhagen khá ấn tượng. Khách ngồi dưới ánh nắng sớm mai nhấm nháp chút đồ ăn, những chiếc ghế mây họ ngồi bao giờ cũng có tấm chăn mỏng để nếu cần ai cũng có thể quàng lên người cho đỡ lạnh.



      Những bước chân vô định đưa chúng tôi tới Christianborg, nơi có trụ sở Quốc hội, Tòa án tối cao và cũng là văn phòng của thủ tướng. Từ đây, chúng tôi thẳng tới bờ biển, mặt nước xanh được nhuộm những tia nắng vàng lóng lánh. Tôi để cho gió hất tung mái tóc mình và hít hà mùi hương của biển… Chợt nhớ lại lời bài hát của Trịnh Công Sơn năm xưa “Ngày mai em , biển nhớ tên em gọi về…” và tôi tự hỏi biết ngày mai tôi , biển nơi này có còn nhớ dấu chân tôi? Tôi bảo với Việt rằng em có thể ngồi đây cả giờ đồng hồ để phơi nắng và ngắm mặt biển mà thấy chán. Chưa bao giờ tôi thấy Copenhagen đẹp như trong khoảnh khắc ấy.



      Nguồn ebooks: http://www.luv-ebook.com



      Từ Christianborg, chúng tôi tới Quảng trường Kongens Nytory và ăn trưa ở đó. Chao ôi, giá cả Copenhagen lại lần nữa làm tôi sững sờ. Một ly bia bình thường chỉ chừng ba euro, nhưng ở đây lên tới tận bảy euro, thế Việt uống xong lại chê là ngon, hóa ra bia Đức vẫn là nhất. cốc côca loại 300ml cũng lên tới tận bốn euro và món ăn rẻ nhất cũng chừng 20 euro. Thôi đành thực chiến lược “xót tiền ngon bụng” vậy. Dòng kênh đào Nytory qua quảng trường này được kiến tạo cách đây 300 năm nhằm mục đích buôn bán bằng đường thủy được thuận lợi. Dọc hai bên bờ kênh là những ngôi nhà cổ nhưng sặc sỡ sắc màu do người ta sơn quét lại cho đỡ cũ kĩ và cũng để thu hút du khách. Khi xưa, đây là nơi ăn chơi của các thủy thủ từ nhiều châu lục khác nhau nhưng bây giờ, nơi này phần lớn đều để phục vụ du khách. Những chiếc thuyền kênh sẵn sàng đưa khách du lịch tham quan vòng, bất cứ ai còn muốn nán lại thưởng thức bữa ăn “ngay dưới bầu trời”, theo cách gọi của người Đan Mạch.



      Cung điện Amalienborg (Cung điện Mùa đông của Hoàng gia) nằm cách đó xa và được xây dựng từ năm 1794 theo lối kiến trúc của Pháp. Báo chí vẫn thường ca ngợi rằng đây là trong những cung điện đẹp nhất châu Âu. Cung điện này được Vua Frederik III xây dựng từ năm 1667 đến năm 1673 và được đặt theo tên của Hoàng hậu Sophie Amalie. Cung điện bị cháy vào tháng Tư năm 1689, chỉ còn lại khu vườn và được giữ nguyên cho đến năm 1748. Năm 1750, Cung điện Amalienborg được xây dựng lại mảnh đất có hình tám cạnh với lối kiến trúc Baroque. Chúng tôi đến đây vào buổi chiều nên được chứng kiến nghi lễ đổi gác vì nghi lễ này thường bắt đầu lúc 12h trưa.



      đường tới Kongen Havens chẳng biết thế nào mà chúng tôi lại lạc vào nơi triển lãm những chiếc xe hơi cực kì nổi tiếng và đắt đỏ. Đây phải là cuộc triển lãm chính quy mà giống buổi tụ họp, những ai sở hữu những chiếc xe đẹp nhất, đắt nhất và đời mới nhất cứ mang đến “khoe” và cho người lạ thưởng thức (hay ganh tị và thèm thuồng?). Ban đầu, tôi tưởng đây chỉ là cuộc trình diễn xe cộ nên để Việt xem mình, còn tôi ngồi góc đợi. Nhưng đợi mãi chẳng thấy chàng quay lại, đúng là đàn ông thấy xe hơi quên ngay phụ nữ nên tôi quyết định tìm chàng và sững sờ khi nhìn thấy những chiếc xe rẻ nhất cũng cỡ 200.000 euro. Tôi chiêm ngưỡng để thưởng thức nó, Việt chiêm ngưỡng chắc vì… thèm. Để lưu lại kỉ niệm đẹp ấy, mỗi đứa chúng tôi làm sêri ảnh “người mẫu quảng cáo xe” để lúc nào có thèm lấy ảnh ra ngắm lại.



      Rất lâu sau, tôi có đọc bài báo Phụ nữ Việt Nam với tựa đề “Đàn ông mê xe hơi” về cuộc điều tra gần đây, rằng tuy rất mê xe hơi nhưng nếu phải lựa chọn giữa xe và người số đàn ông lựa chọn người vẫn cao hơn xe hơi 3%. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của người phụ nữ trong mắt đàn ông hay chính xác hơn, đàn ông thông minh khi biết lựa chọn phụ nữ trước xe hơi, nhưng tôi vẫn thể nhịn được cười khi cuối cùng, tác giả bài viết lại kết luận rằng: “Thông minh là thế, nhưng đàn ông vẫn ngây thơ. Họ quên mất rằng phụ nữ đẹp có làm người mãi cũng đến ngày thành… vợ. Và giai thoại khủng khiếp về vợ lại bắt đầu. Mà vợ bao giờ thích chồng quá ưu ái xe hơi.”








      Dòng kênh đào Nytory



      Chúng tôi dừng chân ở ngôi chùa - nơi mà nhìn sang bên phải là biển, còn bên trái là gian xanh vô cùng rộng lớn và thoáng đãng. Tìm được nơi tuyệt vời như thế hề dễ dàng. Sau này, khi đã về Đức rồi, trong vài giấc mơ, tôi vẫn thấy mình tung tăng đâu đó giữa chốn thiên đường ấy.



      Chúng tôi dừng chân ở Lâu đài Rosenborg - lâu đài cổ màu hồng theo kiến trúc Phục Hưng, được xây dựng vào thế kỷ XVII. Nghe nơi đây lưu giữ nhiều vật quý nhưng khi chúng tôi đến nơi hết giờ mở cửa nên chỉ được đứng bên ngoài nhìn vào và dạo xung quanh. Lâu đài này được bao quanh bởi khu vườn xinh đẹp, lúc ấy là mùa xuân nên những bông hoa tulip đua nhau khoe sắc.



      Có lẽ ai tới Copenhagen cũng đều mong được nhìn thấy bức tượng Nàng tiên cá nổi tiếng, đặt tảng đá ở cảng Langilinic, do Edward Eriksen chế tạo theo “đơn đặt hàng” của ông chủ hàng bia Carlsberg. Trước đây, khi đọc những câu chuyện cổ tích của Andersen, tôi cũng từng mơ về nó và nghĩ rằng hạnh phúc khi được chiêm ngưỡng và ôm nó vào lòng. Nhưng đáng thương cho tôi, nàng tiên cá “bị” mang sang Thượng Hải để phục vụ cho buổi triển lãm diễn ra vào cuối tháng Mười. Tôi đành ngậm ngùi, thôi đành vào Tivoli ngắm bức tượng giả cũng xinh đẹp kém vậy.



      Tivoli là nơi mà có lẽ ai từng đến Copenhagen đều thể bỏ qua, đây là khu giải trí năm sao vô cùng lộng lẫy. Tôi từng phàn nàn là đời sống ở Copenhagen đắt đỏ nên Việt cứ bóng gió luôn: “Yến chơi là cứ phải vào chỗ nào năm sao cơ”. Tôi biết phải thanh minh và lý luận thế nào vì chàng chuẩn quá nên đành chữa vội: “Ừ mất chì rồi cho mất cả chài luôn, bõ công đến đây rồi mà”. Khu giải trí này nằm ngay ở trung tâm Copenhagen và được xây dựng từ năm 1843, nó có sức thu hút với tất cả những ai đến Copenhagen ( ngoại trừ tôi).



      Với diện tích 80.000m2, tại đây có đủ mọi thứ, từ các quán ăn Á, Âu, các quán giải khát, các trò chơi truyền thống và đại đến những vườn hoa rực rỡ sắc màu và đài phun nước. Từ những chiếc đu quay kiểu cổ điển dành cho trẻ em đến những toa xe chạy những đường trượt uốn lượn dành cho những người trẻ tuổi. Rồi những lính bảo vệ trong trang phục Hoàng gia thuở xưa diễu hành hộ tống những đứa trẻ ngồi trong những cỗ xe ngựa. Tivoli cũng là khu giải trí dành cho các kiện văn hóa với các rạp chiếu phim và nhà hát ngoài trời.



      Ngắm Tivoli vào đêm quả còn gì tuyệt vời hơn. Ban đêm, vườn hoa này được chiếu sáng bởi 100.000 bóng đèn màu. Tôi vẫn cứ ngỡ đây là thành phố chỉ dành cho vua chúa thời xưa và nay chúng tôi có may mắn được hưởng diễm phúc đó.



      Khi bộ từ Tivoli về chỗ trọ để chuẩn bị cho chuyến Thụy Điển vào ngày hôm sau, tôi tự nhủ khi có điều kiện, nhất định trở lại nơi này. Tôi thành phố mà mọi con đường đều có thể dẫn ra biển này, những cơn gió se lạnh và cả ánh hoàng hôn của mặt trời phương Bắc nhuộm vàng những ngôi nhà nghiêng nghiêng. Tôi cái xứ sở mà nhiều người vẫn gọi là “nơi hạnh phúc nhất thế giới” với nền công nghiệp xanh và lối sống lành mạnh. Tôi biết rằng đây phải là lần cuối cùng tôi tới xứ sở của những câu chuyện cổ tích thần tiên này.













      Nhà thờ lớn Berliner Dom







      [ĐỨC]









      Lưu luyến Berlin






      ĐẶT CHÂN TỚI BERLIN lần đầu tiên vào mùa thu năm 2001, thành phố đẹp như những gì tôi tưởng tượng. Giữa những ngày tháng Mười, tôi lang thang khắp các nẻo đường để tìm lại những gì day dứt từng bỏ lại ở quê hương, để rồi trong lá thư đầu tiên gửi về cho mẹ, tôi viết: “Mẹ ơi, ở bên này con chẳng thấy !”



      người lãng mạn, trong tôi mùa thu luôn là thứ gì đó mang cho con người nhiều cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến, bồi hồi. Vậy mà trong tôi lúc ấy chỉ là trống rỗng, tôi bỗng nhớ những chiều thu Hà Nội đến nao lòng.



      Để rồi mãi đến lần thứ tư trở lại Berlin, tôi mới dám khẳng định tình của mình dành cho thành phố này. Sống ở Đức nhiều năm, được khắp các thành phố lớn nhưng mỗi lần tới Berlin, lòng tôi luôn dấy lên nỗi niềm khó tả.



      Là thành phố nằm ở phía Đông của nước Đức với nhiều di tích lịch sử, kể từ khi Bức tường Berlin sụp đổ, Berlin là nơi thu hút khách du lịch từ khắp mọi nơi thế giới phải bởi vẻ đẹp trang hoàng, lộng lẫy mà bởi những nét đẹp văn hóa còn lưu lại cho đến ngày hôm nay. Và có lẽ cũng quá ngạc nhiên khi xếp Berlin vào danh sách những thành phố đẹp nhất châu Âu!



      Tôi cứ nhớ mãi cái khoảnh khắc trong lần đầu tiên tôi tới Berlin, với tôi Berlin là thành phố xanh-sạch-đẹp và dường như chẳng bao giờ ngủ vào ban đêm. Những ấn tượng của tôi về người Berlin trong lần đầu tiên ấy mấy thân thiện! Tôi sống ở vùng quê yên ả, bình yên của miền Tây Bắc Đức, khi ra ngoài đường, bất kể người lớn hay trẻ con, họ đều có thói quen chào nhau “Hallo” (xin chào) hoặc nở nụ cười, nhưng ở Berlin đó là điều thể. Khi tôi đem thắc mắc này ra hỏi thầy giáo tôi, ông nhàng giải thích cho tôi rằng: “Ở thành phố với lượng người đông như thế, người ta thể ‘Hallo’ suốt cả ngày được, thế nên em đừng trách người Berlin”. Tôi tạm bằng lòng với lời giải thích như thế dù trong lòng vẫn còn rất nhiều hoài nghi, để rồi rất lâu sau tôi mới biết thầy đã đúng.



      Bất cứ thủ đô nào thế giới đều mang vẻ đẹp riêng tượng trưng cho đất nước của mình và Berlin cũng vậy. Đến Berlin, bạn thể ghé thăm cổng thành Brandenburg - biểu tượng của thành phố. Cổng thành cao 26m, rộng 66,5m, trước đây từng là vạch phân chia ranh giới giữa hai miền Đông và Tây Đức. Cổng Brandenburg được bắt đầu xây dựng từ năm 1788 và mãi đến năm 1791 mới được hoàn thành. Vua Friedrich Wilhelm II là người cho xây chiếc cổng này như biểu tượng của hòa bình. Hầu như bất cứ du khách nào đến Berlin cũng đều phải ghé qua cổng thành này.



      Tôi phải là người say mê lịch sử, nhưng khi đến Berlin tôi dành thời gian ghé thăm gần hết các viện bảo tàng - nơi ghi dấu những gì còn sót lại của cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Nhiều người bạn Việt Nam từng hỏi tôi: “Lịch sử nước Đức có gì thú vị?”. Tôi chỉ cười. khó giải thích điều đó bởi hầu như bất cứ ai khi nghĩ về lịch sử Đức cũng gắn liền với hai chữ “Hitler”. Người dân Đức bác bỏ điều này, thế hệ trẻ của Đức ngày hôm nay vẫn phải hứng chịu những cái nhìn soi mói khi học về lịch sử nước nhà. Còn tôi, tôi học để biết và cũng để hiểu rằng những gì vào lịch sử cũng nên biết đến lần.



      tại ở Berlin, người ta vẫn lưu giữ những bức tường còn sót lại từ năm 1991 và trong những cửa hàng lưu niệm bạn có thể mua những mô hình nho bằng ngón tay để làm kỉ niệm. Khi ngoài đường, nếu để ý kĩ, bạn còn được nhìn thấy vạch phân chia ranh giới giữa hai miền ngày xưa. Tôi tìm đến Checkpoit Charly, đây là trong những những trạm kiểm soát của Mỹ ngày xưa đóng tại Berlin để kiểm soát giấy tờ khi người dân muốn di chuyển từ Đông Đức sang Tây Đức hoặc ngược lại. Khách du lịch đến đây thường chụp những bức hình làm kỉ niệm để hồi tưởng lại khí ngày xưa. Sau khi nước Đức thống nhất trạm kiểm soát này bị hủy bỏ nhưng từ năm 2000 người ta cho xây dựng lại trạm kiểm soát được phỏng theo bản gốc để khách du lịch đến tham quan, chụp ảnh.



      Sau khi xem được gần hết các công trình lịch sử và các viện bảo tàng, tôi bắt đầu khám phá gương mặt khác của Berlin - nơi là lịch sử còn đóng vai trò chủ đạo của thành phố, mà thay vào đó là những dòng sông, những cây cầu, những cung điện tạo cho thành phố vẻ đẹp nên thơ, tao nhã. Vào mùa hè, những thảm có trong những công viên hay thậm chí chỉ là bãi cỏ ven đường, giới trẻ thường tận dụng đó làm nơi nghỉ mát, hóng gió, hàn huyên hay ngồi đọc cuốn sách hay, ngắm vài lượt người qua lại. những cây cầu khi nắng tắt và hoàng hôn bắt đầu buông xuống, Berlin khi đó còn là thành phố với những tòa nhà chọc trời mà là thành phố yên bình và đáng . Người dân Berlin ồn ào, vội vã, cuộc sống dẫu tất bật nhưng họ vẫn tìm cho mình những giây phút để thư giãn. những tàu điện ngầm hay những chuyến xe buýt, tôi hề thấy biểu của hớt hải, bon chen, kẻ lên người xuống vẫn với những bước chân nhịp nhàng. Tôi vẫn nhớ những buổi sáng sớm thức dậy, đứng kí túc xá tầng 15 từ phòng của Trang nhìn xuống, ngắm thành phố từ phía cao, để gió, để mặt trời tỏa vào đôi mắt biếc, cảm giác dễ chịu.



      Người ta đặt cho Berlin rất nhiều những cái tên mỹ miều, nào là “Trái tim của châu Âu”, “Nơi gặp nhau của quá khứ và tại” hay “Thành phố của nghệ thuật”. Còn tôi lại gọi Berlin là thành phố của yên bình, bởi mỗi lần quay trở lại nơi này tôi đều bồi hồi, xúc động. Thành phố này luôn mang tới cho tôi cảm giác của bình yên, bỏ lại phía sau những tính toán đời thường để sống cuộc sống của người trẻ tuổi mang trong mình những hoài bão và khát vọng tự do. Khó có ai nghĩ rằng hơn nửa thế kỉ trước Berlin vẫn còn bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh khi ghé đến thăm thành phố này. Ở Berlin, sinh viên Việt Nam và châu Á khá nhiều, thế nên vào các ngày nắng đẹp, họ thường tụ tập cùng gia đình, bạn bè ở Thaipark nướng thịt, thưởng thức các món ăn châu Á khác nhau, trong đó có món chè và nộm đu đủ của Thái Lan, cùng món thịt nướng kiểu Lào là những món ăn tôi tâm đắc vô cùng.



      Tôi thích nhất là được ngắm Berlin vào mỗi buổi đêm, được lang thang con đường lộng gió, trút bỏ những nhọc nhằn của ngày qua và đắm mình trong hơi thở của thành phố. Ở Berlin có hai địa điểm mà bạn nên dừng lại và ngắm nhìn vào buổi đêm đó là Alexander Platz, bạn có thể ngước nhìn lên tháp truyền hình với độ cao 368m và những người sợ độ cao có thể xếp hàng mua vé lên đỉnh tháp để ngắm nhìn toàn bộ Berlin vào ban đêm với những ánh đèn lấp lánh đủ sắc màu.








      Thư giãn trong công viên ở Berlin



      Còn Postdamer Platz là nơi từng bị chia cắt bởi hai miền nước Đức, khi tới đây bạn có thể nhìn thấy vạch ngăn cách bức tường ngày xưa, nay bị phủ bằng những lớp đá. nay, quảng trường này là nơi có mật độ giao thông gần như cao nhất ở Berlin, những tòa nhà cao tầng, khách sạn và nhà hàng mọc lên rất nhiều. Quảng trường này cũng là nơi “cực kì giản dị”, bởi đây là nơi trải chiếc thảm đỏ thu hút các ngôi sao tài tử, minh tinh màn bạc từ khắp nơi thế giới. Họ đến đây để làm áp phích quảng cáo cho bộ phim sắp được trình chiếu và giao lưu cùng khán giả. Tôi còn nhớ cái lần theo chân chị Trang tới Postdamer Platz chỉ để chờ và chiêm ngưỡng tận mắt hai diễn viên chính trong bộ phim Transformer. Trước đó, tôi hề biết đến tên tuổi của hai tài tử điện ảnh này, nhưng hình như sau bộ phim này, họ bắt đầu nổi tiếng ở Hollywood. Thế mà rồi tôi cũng “mò” lên được hàng đầu tiên (dáng người mảnh khảnh khiến việc luồn lách của tôi rất dễ dàng), được đạo diễn và hai tài tử tận tay kí tặng. Tôi cười toe toét trong tiếng hò reo khản cổ của những bạn trẻ xung quanh.





      Xe bia đường



      đến Berlin là thể nhắc tới Đồng Xuân - khu trung tâm mua bán của người Việt tại Đức. Khi lạc vào đây, tôi cứ ngỡ mình ở Việt Nam, bởi số lượng người Việt buôn bán ở trong này chiếm tới hơn 60%, 40% còn lại được chia cho người Trung Quốc, người Thổ, người Ấn Độ và Đức. Người ta có thể mua bất cứ thứ gì họ cần, sách báo, băng đĩa cho đến cả những món đặc sản mà nhiều người vẫn nghĩ chỉ ở Việt Nam mới có thể mua được. Thế mới biết người Việt Nam mình, dù sống ở đâu cũng muốn có đủ đầy hương vị quê nhà. Lần nào tới đây, tôi cũng được chiêu đãi những món ăn Việt Nam truyền thống, nào là bún ốc, phở bò và các loại chè thập cẩm khác nhau, ăn cho no nê rồi mới quay trở lại trung tâm thành phố.



      Ở Berlin, ngoài việc tới Đồng Xuân để thưởng thức những món ăn Việt Nam, bạn cũng nên tranh thủ nếm thử những món đặc sản khác cũng kém tuyệt vời, như xúc xích cà ri (Currywurst), salad khoai tây, giò heo ăn kèm bắp cải muối, bánh rán Berlin (Berliner). Tôi nhớ mùa hè năm ngoái trước khi lên Berlin. Thủy có nhắn tin cho tôi bảo dẫn tôi ăn món Döner Kebab ngon nhất Berlin khiến tôi háo hức vô cùng. ra các cửa hàng bán Döner Kebab ở Berlin hầu như ở con đường nào cũng có nhưng phải cửa hàng nào cũng ngon. Từ Alexander Platz, chúng tôi phải đổi tàu điện tới hơn ba lần mới tới được cái lều bán Döner của hai chàng người Thổ Nhĩ Kỳ. Trước chúng tôi có chừng hơn 20 người xếp hàng ở đó dù lúc đó mới chỉ hơn mười rưỡi trưa và bữa ăn chính của người dân Berlin chưa bắt đầu. uổng công xếp hàng chờ đợi, đúng như những gì Thủy , tôi được thưởng thức món Döner Kebab ngon nhất trong đời ở Berlin.



      Viết về Berlin chẳng biết đến khi nào cho đủ, bởi mỗi lần trở lại Berlin, tôi luôn khám phá ra được rất nhiều điều mới lạ. Từ khi nào tôi thấy tha thiết thành phố này. Rất lâu rồi, tôi nhớ có lần mình ngồi khóc giữa quảng trường Alexander Platz chỉ vì lý do hết sức ngớ ngẩn, đó là nhìn thấy gia đình người Việt chơi cùng nhau, tiếng cháu gọi ông bà, tiếng người con gọi mẹ, tôi bỗng thấy nhớ gia đình của mình biết bao nhiêu và thèm được trở về những ngày tháng xưa trong vòng tay thương của cha mẹ. Nhưng tôi biết, thời gian trở lại bao giờ. Nước mắt tôi lã chã rơi cho những điều gọi là số phận. Và như thấu hiểu được nỗi niềm chất chứa đó ở trong tôi, Tú mời tôi về nhà mình ở ngoại ô Berlin để ăn bữa tối cùng bạn và gia đình, cho tôi được sống những giờ phút ấm cúng trong khí gia đình.



      Căn nhà của bố mẹ Tú nằm ở ngoại ô Berlin, khí rất trong lành và xung quanh là thiên nhiên bao bọc. Dọc theo trục đường chính, Tú dẫn tôi về phía quả đồi trong chiều nhạt nắng, cùng nhau hái mận, hái hoa và tận hưởng những khoảnh khắc bình yên mà tôi biết phải lúc nào mình cũng có được.



      Kỉ niệm về Berlin luôn song hành cùng tôi suốt những năm tháng tuổi trẻ. Tôi vẫn thường với bạn bè tôi rằng đó là thành phố tôi thấy mình có duyên nhiều nhất. Nhất định tôi còn trở lại nhiều và nhiều lần nữa vì chẳng có lý do gì để mà trở lại, bởi khi có duyên rồi xa mấy cũng có ngày tìm lại với nhau”. Và quan trọng hơn cả, ở Berlin, tôi cũng tìm thấy mùa thu của mình.














      Dresden - nhìn từ dãy núi Sächsische Schweiz









      Dresden - Giữa sắc trời thiên nhiên






      SỐNG Ở ĐỨC GẦN MƯỜI năm cũng lang thang hết gần nửa châu Âu nhưng tôi lại chưa khám phá hết vẻ đẹp của Đức. Sau khi kết thúc kì thi tốt nghiệp, tôi tự thưởng cho mình chuyến dài tới miền Đông trước khi tiếp tục theo ngành học mới. Đây là cơ hội để cho tôi được hiểu hơn về quê hương thứ hai của mình. Dù cùng nằm trong mảnh đất của nước Đức nhưng cuộc sống, con người, phong cảnh ở Dresden cũng khá khác biệt và lần này tôi muốn được chứng kiến và cảm nhận khác biệt đó bằng chính đôi mắt và trái tim mình.



      Biết đến Dresden từ lâu qua báo chí va các phương tiện truyền thông, nhưng suốt những năm tháng sống và học tập ở Đức, tôi chưa lần được đặt chân tới đó. Dresden trong kí ức của tôi chỉ là hình ảnh Nhà thờ Đức Bà nguy nga, lộng lẫy, bên dòng sông Elbe hiền hòa. Và những hiểu biết của tôi về thủ phủ của tiểu bang Sachsen này chỉ dừng lại ở đó. Có lẽ tôi cũng chẳng biết được nhiều hơn nếu tự bắt mình thực cuộc hành trình tới miền đất phương Đông này.



      Sau những ngày rong ruổi ở Berlin, tôi mua vé tàu thẳng tới Dresden. Hương - người bạn sống và học tập ở Dresden đón tôi ở ga rồi sau đó hai đứa lang thang trong thành phố. là tuyệt khi có hướng dẫn viên nhiệt tình và tốt bụng như Hương cùng, mặc dù trước đó chúng tôi chưa biết nhiều về nhau. Vừa Hương vừa bảo: “Các danh lam thắng cảnh ở Dresden gần nhau lắm, nằm ngay trung tâm nên chỉ cần hai tiếng là có thể xem được hết”. Thời tiết tháng Bảy rất đẹp, nắng trải dài những con đường dành cho người bộ, gió từ sông thổi vào khiến tôi có cảm tình ngay với nơi đây, hay tại số tôi may mắn, đâu cũng có nắng cùng.



      Dresden được mệnh danh là thành Florence nằm trong thung lũng sông Elbe - trong những dòng sông lớn đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế Đức và các nước Trung Âu với chiều dài hơn 1000km - bao gồm nhiều kiến trúc rất độc đáo mang đậm phong cách Baroque. Erich Kästner - nhà văn nổi tiếng của Đức sinh ra ở Dresden - rằng ông cảm tạ cuộc đời cho ông được lớn lên ở mảnh đất này, nơi mà chỉ vừa xấu mà lại vừa đẹp nữa. Có lẽ mâu thuẫn nhưng quả thực, Dresden vừa mang hơi thở của quá khứ, vừa mang dáng dấp của đại. Dresden trải qua rất nhiều giai đoạn thăng trầm trong lịch sử: Năm 1206, cái tên Dresden chính thức được đề cập đến, sau đó nơi này trở thành nơi thường trú của dòng dõi quý tộc Wettiner. Vào năm 1945, sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, thành phố này bị tàn phá nặng nề bởi bom đạn của Mĩ và , mãi sau này khi nước Đức thống nhất Dresden mới bắt đầu được tu sửa lại hoàn toàn. Nhà viết kịch Gerhart Hauptmann có lần rằng “Nếu như bạn quên cách lệ, phá huỷ Dresden khiến bạn nhớ lại cách khóc như thế nào”. Quả , những năm học chuyên Sử ở Đức, xem những bộ phim tài liệu về Dresden, tôi khỏi ngậm ngùi, xót xa. Thứ mà ngày hôm nay, những vết thương trong quá khứ mà Dresden xưa kia phải hứng chịu cũng dần dần lành lặn theo thời gian, và phải ngẫu nhiên mà vùng đất này trở thành trong những thành phố đẹp nhất châu Âu. Theo thống kê của Ủy ban thành phố hàng năm Dresden đón khoảng gần chín triệu khách du lịch và trung bình, mỗi khách du lịch ở lại nơi này khoảng hai ngày.



      ©STENT: http://www.luv-ebook.com



      Sau khi qua nhiều con đường và góc phố Dresden, Hương dẫn tôi tới Zwinger - trong những địa điểm nổi tiếng thể bỏ qua khi đặt chân tới đây. Zwinger là công trình hoành tráng nhất của Dresden - là kết hợp hoàn hảo giữa kiến trúc và nghệ thuật. Mới thoạt nhìn, cấu trúc của Zwinger có phần giống với đấu trường La Mã, chính giữa là khu vườn với những đám cỏ được cắt tỉa tỉ mỉ rất xinh xắn. Trước đây, Zwinger được thiết kế là vườn trồng cam và sân trước của lâu đài mới, nhưng sau năm 1709, khi đức vua của vùng Saxony là Friedrich August I qua đời triều đình cũng buộc phải tạm dừng kế hoạch ấy. Ngày nay, Zwinger vừa được sử dụng làm khu liên hợp bảo tàng, vừa để tổ chức các cuộc triển lãm đương đại, đồng thời cũng là sân chơi ngoài trời với các ạt động văn hóa, văn nghệ. Đặc biệt, Zwinger bây giờ được du khách biết đến dưới dạng viện bảo tàng đồ gốm sứ nổi tiếng nhất thế giới, và cùng với thời gian, công trình này trở thành trong nhiều biểu tượng quốc gia vô cùng giá trị của Đức. Chúng tôi dạo quanh khu vườn, ngắm nhìn dòng người qua lại, tận hưởng bình yên của Dresden và liên tưởng tới khung cảnh thời xa xưa rồi bước lên cầu thang lên phía tầng . Cầu thang này nằm ở phía trong Zwinger như nhiều người nhầm tưởng mà nó nằm ở phía ngoài bên cạnh lề đường, sau hồi tìm kiếm cuối cùng chúng tôi cũng tìm thấy đường để lên. Dựa mình vào bức tường cũ, nhắm mắt lại nghe tiếng nước chảy từ các vòi phun nước, tôi ước rằng thời gian hãy ngừng trôi, để tôi được tận hưởng những phút giây nhàng trong khoảnh khắc mùa hè ở nơi ngày xưa từng thời là chốn ăn chơi của Dresden này.



      Từ Zwinger, chúng tôi về hướng Brühlschen Terrasse (còn có tên gọi khác là Ban công của châu Âu) nằm bên dòng sông Elbe, nơi đây hội tụ rất nhiều khách du lịch vì nó nằm ở trung tâm khu phố cổ, kéo dài 500m dọc dòng sông Elbe giữa cầu Augustus và cầu Carola. Tôi đứng ở nơi này và dõi mắt về nơi xa, dòng sông Elbe hiền hòa ra trước mắt, nắng chiều óng ả rọi những lối . Nằm phía sau “ban công này” là chiếc cầu thang dẫn xuống ngõ , chỉ là ngõ rất ngắn nhưng lại tập trung rất nhiều quán ăn. qua ngõ này là tới Nhà thờ Đức Bà - niềm tự hào của nước Đức chung và người dân Dresden riêng - được xây dựng vào cuối thế kỉ thứ XVIII theo phong cách kiến trúc Baroque, nhưng trong Chiến tranh thế giới thứ hai, bom đạn của Mĩ và dội vào hủy hoại gần như là tất cả. Vì nhà thờ này vừa được coi là công trình thế kỉ, lại vừa là nhà thờ Tin Lành rất lớn của Đức nên tổn thất này khiến cho người dân Dresden rất hoang mang, họ luôn mong mỏi khôi phục lại nó. Ước nguyện này cuối cùng trở thành thực sau ngày nước Đức thống nhất, nhờ lòng hảo tâm của rất nhiều người, đến năm 1993, nhà thờ bắt đầu được trùng tu và cho tới tận năm 2005 mới hoàn thành xong, đánh dấu lùi xa của cuộc chiến tranh tàn khốc, đồng thời cũng là chiếc cầu nối cho các dân tộc xích lại gần nhau hơn.



      Chúng tôi lặng lẽ bước vào bên trong nhà thờ, yên lặng như bao trùm lấy cả gian này. Kiến trúc trong nhà thờ vô cùng lộng lẫy và rất trang nghiêm. từng ghé thăm rất nhiều nhà thờ nổi tiếng ở châu Âu nhưng tôi vẫn khỏi ngỡ ngàng trước hàng ngàn đường nét hoa văn và những hình vẽ ở tường vòm nhà thờ, bao gồm tám bức vẽ của bốn tín đồ của Chúa Jesus có nhiệm vụ truyền giảng Tin Lành là Lukas, Matthäus, Markus và Johannes, cũng như hình tượng bốn đức hạnh trong Thiên Chúa giáo là đức tin, hi vọng, lòng bác ái và nhân t뮠Chúng tuyệt đẹp, đến nỗi tôi thể viết được thành lời, chỉ biết lặng lẽ ngồi xuống chiếc ghế phía sau cùng và thả lòng mình trong những giây phút bình yên ngắn ngủi đó.








      Nhà thờ Đức Bà ở Dresden



      Bước ra khỏi nhà thờ, chúng tôi dọc qua cây cầu bắc ngang dòng sông Elbe để về khu phố mới. Khu phố này nằm ở bên phải dòng sông và được sát nhập vào trung tâm thành phố từ những năm 1403. Ngày nay, nơi đây tập trung rất nhiều nhà hàng, khách sạn và cũng là điểm mua sắm có tiếng ở Dresden. Chúng tôi rẽ vào Kunsthof (vườn nghệ thuật) - địa điểm mà phải khách du lịch nào cũng biết vì nó nằm mình trong khu phố mới. Sân nghệ thuật này ban đầu chỉ là ý tưởng nhằm phục hồi lại tòa nhà đó, nhưng cuối cùng nó lại được thiết kế vô cùng nghệ thuật, với nhiều cửa hàng bán đồ lưu niệm nho trông rất lạ và bắt mắt.



      Sáng hôm sau, tôi dành thời gian leo núi ở vùng Sächsiche Schweiz - dãy núi nằm bên dòng Elbe cách trung tâm Dresden chừng 40km và từ lâu trở thành công viên Quốc gia của Đức với diện tích hơn 90km2. Sächsische Schweiz được gọi là “Thụy Sĩ của Saxony” là do hai người Thụy Sĩ tới sống và làm việc ở Dresden, từ thế kỉ thứ XVIII dành thời gian leo núi để đỡ nhớ nhà, và từ đó tên gọi này cứ thế được lan truyền rồi tồn tại đến tận ngày nay. Nếu tới đây vào mùa thu, bạn thấy phong cảnh đẹp hơn rất nhiều vì lúc đó những chiếc lá xanh chuyển màu, khiến cả Saxony đẹp rực rỡ hơn bao giờ hết. Tôi tới đây vào những ngày cuối tháng Bảy, lá vẫn còn xanh rợp những lối và thời tiết cũng khá mát mẻ. Các biển chỉ dẫn giúp bạn lựa chọn con đường và chiều dài mình muốn , rồi vừa leo núi vừa ngắm cảnh. Hãy dành thời gian ngắm nhìn từng lớp đá lớn mang màu sắc nâu trắng rất lạ do bị xói mòn bởi thời gian, đan xen những khe núi chật hẹp mà có lẽ chỉ đứa bé mới có thể chui lọt. Từ cây cầu đá Bastei trứ danh nhìn xuống, bạn chứng kiến hình ảnh những người leo núi hăng hái (đây là môn thể thao khá được ưa chuộng ở Saxony), hay nhìn xuống dòng sông Elbe hùng dũng uốn lượn. Tôi leo núi mình, tận hưởng bình yên của thiên nhiên kì vĩ và chợt nhớ tới câu của người bạn cũ rằng: “Cuộc sống đôi khi rất thú vị với những phút riêng tư.” là leo núi mình nhưng ra tôi có mình đâu, bởi xung quanh tôi là bao nhiêu tiếng cười rộn rã, thậm chí có những gia đình còn cho cả con chỉ chừng 4-5 tuổi leo núi cùng. Khoảnh khắc được sống giữa thiên nhiên ấy khiến tôi đột nhiên nghĩ rằng sau này khi cuộc sống ổn định, tôi muốn về đây sống để tận hưởng bốn mùa của Sächsische Schweiz. Ở đây, con người thực được thư giãn, bỏ lại phía sau gánh nặng cuộc đời, chỉ có lá, có hoa, có những dãy núi trùng trùng điệp điệp và có tiếng cười lắng đọng mãi môi.

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Viện bảo tàng xe BMW








      Munich vẫy gọi





      ĐÁP CHUYẾN TÀU từ Augsburg, tôi trở lại thủ phủ của miền đất phương Nam vào những ngày đầu tháng Tám. Munich vẫn vẹn nguyên như thuở nào nhưng hình như có phần ấm áp hơn so với những ngày tháng Ba lạnh giá của mùa đông năm trước. Chị Bình đón tôi ở ga và lái xe đưa tôi về nhà nghỉ ngơi và ăn uống. Chị bận với công việc ở nhà hàng nên tôi tự cầm bản đồ, nhảy tàu điện ngầm và khám phá thành phố mình. Khi tôi nhắn tin cho Hiếu rằng tôi lang thang mình ở Munich, chàng nhắn lại và bảo tội nghiệp cho tôi. Còn tôi mỉm cười và giờ đây tôi muốn chiêm nghiệm điều đó bằng cảm nhận của riêng mình.


      Munich phải là thủ đô của nước Đức nhưng đây lại là trong những thành phố thu hút nhiều khách du lịch nhất nước Đức, Munich được biết đến chỉ là thủ phủ của bang Bayern mà còn là quê hương của đội bóng lừng danh Bayern Munich.


      Địa điểm đầu tiên tôi đặt chân tới là Quảng trường Đức Mẹ Marienplatz - nằm ở trung tâm thành phố và được xem là trái tim của thành phố. Đây có lẽ là quảng trường đẹp nhất trong số những quảng trường ở châu Âu tôi từng được ghé thăm. Nơi đây hầu như luôn tấp nập khách du lịch từ khắp nơi đổ về. Xung quanh quảng trường là các nhà thờ, mà nổi tiếng nhất là Nhà thờ Đức Bà (Frauenkirche). Ngoài ra, đây cũng là nơi tụ tập của các họa sĩ đường phố, những nhóm nhạc hát rong với những trò đố vui, ảo thuật thu hút dừng chân của rất nhiều người khiến khung cảnh thành phố càng trở nên nhộn nhịp hơn.


      Tôi lang thang và đứng ngắm nhìn dòng người qua lại mà thấy mình đơn dù những ngày trước đó, tâm trạng tôi được tốt lắm. Địa điểm tiếp theo mà tôi hướng tới là khu chợ Viktualienmark. Đây là khu chợ nổi tiếng ở Munich, có thể so sánh với Naschmarkt ở Vienna, chỉ khác ở chỗ Naschmarkt đa dạng và phong phú hơn, còn Viktualienmarkt hơn và chỉ tập trung bán những thực phẩm của vùng Bayern. So với siêu thị giá cả ở đây có cao hơn chút xíu nhưng các mặt hàng rất tươi. Vả lại, mua đồ ở ngoài trời cũng thú vị hơn nhiều so với ở trong siêu thị, nhất là lại ở chợ nằm giữa trung tâm thành phố.


      Từ đây, tôi thẳng tới Hofbräunhaus. Mặc dù biết uống bia, cũng tới đây đúng vào lễ hội bia thường được tổ chức vào tháng Mười hàng năm nhưng tôi nhất định phải tới nơi này, bởi tôi muốn chiêm ngưỡng khung cảnh của nhà hàng bia thuộc loại nổi tiếng nhất thế giới. Chưa vào tới nơi, tôi nghe tiếng cười rộn rã phía bên trong mà có lẽ phần lớn là khách du lich. Chị bạn tôi kể rằng nếu tới đây vào tháng Mười còn tuyệt vời hơn nhiều vì đó là tháng ăn chơi, tụ tập, hội hè ở Munich. Ở Đức bang Bayern là nơi sản xuất nhiều bia nhất, có lẽ vì thế nên bia có mặt ở khắp nơi. Trong các cửa hàng bán quà lưu niệm, hình cốc bia luôn là biểu tượng độc đáo. Các “vườn bia” cũng có mặt ở khắp nơi trong thành phố. Có lẽ, thú vui tao nhã của người dân Bayern là mỗi ngày phải được thưởng thức cốc bia ngon. Thời tiết tháng Tám ở Munich rất đẹp nên các vườn bia cũng nhộn nhịp tiếng chúc tụng của người bản xứ và khách du lịch. Có lẽ mấy ai dại đột như tôi, tới Munich rồi mà thử uống bia vùng này. Nhưng tôi tới Munich đâu có phải vì vẫy gọi của những ly bia đâu, mà lý do của tôi sâu xa hơn cơ. Tôi muốn được “chạm trán” những chàng đẹp trai của Bayern Munich ngõ phố. buồn cười phải ? Nhưng tôi rất đấy. Nhiều khi người ta đặt chân tới thành phố hẳn vì phong cảnh hùng vĩ hay những món ăn mà đôi khi chỉ vì lý do vô cùng ngớ ngẩn nào đó như tôi chẳng hạn. bao giờ bạn làm như thế chưa?







      Quảng trường Marienplatz với tòa thị chính ở Munich


      Ở Munich còn có đại lộ rất rộng và dài tên là Ludwigstrasse, phía đầu con đường này là Khải hoàn môn có nét giống với Khải hoàn môn ở thủ đô Berlin, có điều hơn chút. Từ đây, tôi tiếp tục bộ và cách đó xa là khu vườn (English Garden). Đây là khu vườn lớn thứ hai ở châu Âu và cũng là trong những khu vườn lớn nhất thế giới. Tôi bộ vào khu vườn này khi ánh nắng chiều bắt đầu núp xuống đằng sau những rặng cây cổ thụ. Buổi chiều, ở đây là nơi tập thể thao của người Munich, các bãi cỏ rộng người ta chơi bóng đá, những con đường dài người cưỡi ngựa và người chạy bộ nhiều vô kể. Ở bên tháp Trung Quốc, mọi người chơi nhạc và uống bia, những người lãng mạn hơn ngồi ven hồ ngắm cảnh. Tôi chọn chiếc ghế băng màu xanh còn trống và thả mình vào khoảng lặng của khu vườn. Tôi biết cảm giác của mình lúc đó là buồn hay vui sau những ngày bình yên qua nhưng trong giây phút ấy, tôi thấy được là chính mình. Tôi ru mình trong khoảng lặng đó, chẳng thấy xót xa, chẳng thấy bồi hồi. Hơn 9h tối, trời mùa hạ vẫn còn sáng, tôi lên tàu điện ngầm về và mang trong mình cảm giác bồi hồi khó tả.


      Sáng hôm sau, địa điểm đầu tiên tôi có ý định đến là Bảo tàng BMW và Công viên Olympiapark - hai địa điểm hấp dẫn tôi từ lâu. Chẳng biết tại số tôi hẩm hiu hay vì tính tôi cẩn thận mà khi vừa vào bảo tàng này được 15 phút, tôi mất luôn ví xách tay, trong đó có toàn bộ thẻ bảo hiểm, thẻ ngân hàng, bằng lái xe hơi, hộ chiếu, tiền mặt, máy ảnh, điện thoại và đủ thứ giấy tờ linh tinh khác. Tôi thông báo ngay với nhân viên trong viện bảo tàng, khi họ hỏi tôi cố nhớ lại xem là để chỗ nào, tôi cũng tài nào nhớ nổi, vẫn cái giọng thà: “Em đeolưng, chắc nó rớt xuống lúc nào mà em biết vì lúc đó mải ngắm xe”. Tôi tự nhủ nếu mất vì mai khỏi bay về luôn vì trong đó có hộ chiếu, nhưng ơn trời, hơn 30 phút sau người ta thông báo cho tôi rằng có người nhặt được và trả lại, tôi kiểm tra và thấy thiếu thứ gì.


      Tòa nhà trụ sở BMW từ lâu trở thành biểu tượng của Munich với kiểu kiến trúc rất độc đáo. Với hình dạng chiếc bát, gian của viện bảo tàng dường như được mở rộng đến bất tận. Tôi lang thang và ngắm các nàng BMW xinh đẹp - giấc mơ của cuộc đời tôi. Khách du lịch quốc tế tới đây rất nhiều, ở nơi trưng bày những chiếc xe BMW mới khách du lịch còn được phép ngồi vào bên trong và tha hồ chụp ảnh thỏa thích. Khi bước ra ngoài rồi tôi mới chợt để ý ở Munich, BMW được sử dụng rất nhiều, nhiều hơn tất cả những thành phố khác thế giới.


      Từ nơi này, khi đứng cầu, người ta có thể nhìn thấy sân vận động Olympic Munich nằm trong khuôn viên của Công viên Olympia (còn được gọi là Công viên Olympics). Công viên này được hoàn thành vào năm 1972 khi Munich đăng cai Thế vận hội Mùa hè. Từ đó đến nay, công viên vẫn được sử dụng vào rất nhiều mục đích khác nhau. Khi tôi tới đây, công viên này trong thời gian nâng cấp để chuẩn bị cho Thế vận hội năm 2018.


      Khi tới Munich, nhiều người bảo tôi rằng nếu tới khu vườn rồi cần phải vào công viên này. Nhưng ràng khi từng đặt chân tới cả hai nơi, người ta mới nhận ra khác biệt ràng. Có thể, khu vườn rộng hơn nhưng tôi lại thích phong cảnh độc đáo ở Công viên Olympics hơn. Bởi vì trong này chỉ có sân vận động mà còn có Tháp Olympics, nơi mà từ đây, người ta có thể ngắm toàn bộ thành phố với cả núi và hồ. màu xanh ngút ngàn, thơ mộng khác hẳn với khu vườn - vẻ đẹp mà sau này vẫn còn in đậm mãi trong kí ức của tôi.







      Thưởng thức bia ngoài trời đường phố Munich


      đến Munich, cũng phải đến các cung điện và lâu đài mà nổi bật nhất có lẽ là Lâu đài Nymphenburg. Lâu đài này là món quá lãnh chúa Ferdinand Maria von Savyen tặng vợ ông là Adelheid von Savoyen nhân dịp bà sinh cho ông Hoàng tử Max Emanuel vào năm 1664. Lâu đài này là kết hợp hài hòa độc nhất vô nhị giữa công trình kiến trúc và công viên lâu đài với hồ nước, những cây cầu bé xinh xinh và rất nhiều cây cối. Vào mùa đông, nếu khách du lịch tới đây chỉ thường dạo tuyết vì nước các mặt hồ đều đóng băng. Vào mùa hè, đây lại là nơi lý tưởng để thả mình vào gian rất đẹp. Cung điện này làm tôi nhớ đến những ngày lang thang ở Vienna khi ghé vào Cung điện Schönbrunn. Tất nhiên, mỗi nơi có vẻ đẹp khác nhau và kiến trúc cũng khác nhau, nhưng tới nơi nào tôi cũng khỏi trầm trồ: “Đẹp quá”


      Những ngày ở Munich để lại trong tôi những kí ức và hình ảnh đẹp dù phần lớn thời gian ở đây tôi chỉ lang thang mình cùng chiếc bản đồ. Tôi rời Munich vào ngày mưa tầm tã, cho tới khi đến sân bay rồi mà những cơn mưa phương Nam vẫn còn chưa dứt. Nhưng tôi vẫn Munich, phải bởi vì thành phố này giàu có mà tôi vẻ đẹp của miền đất phương Nam, những người bạn thân thiện ở nơi đây. Đặc biệt tôi quên chị Thu Bình - người chăm sóc tôi rất cẩn thận trong những ngày ở đây chỉ để “mong em tăng thêm vài kí nữa cho chị vui”.













      Hamburg và những thương chưa viết hết





      LÂU RỒI TRONG CUỐN Nhật kí viết về Hamburg, tôi nhớ mình từng viết: “Tôi nhớ ngày đầu tiên tới nơi này, thành phố vừa xa, vừa lạ dù trước đó tôi cũng đôi ba lần ‘vội vã trở về, vội vã ra ’. có điều gì ở Hamburg để níu giữ bước chân tôi ở lại hay đúng hơn, Hamburg gắn liền với tôi bằng kỉ niệm buồn mà mỗi lần ngang qua lối cũ ở sân ga, tôi vẫn tránh khỏi cảm thấy đau nhói trong lòng. Vậy mà giờ đây, hiểu sao trái tim tôi lại bình yên đến thế!” Những năm tháng sống và học tập ở đây, tôi thêm thành phố này nhiều hơn. Tôi những con đường dẫn ra bến cảng, những buổi chiều ngồi vắt vẻo bên hồ vui đùa cùng những nàng thiên nga trắng, để rồi tự hỏi biết thế gian này có mấy người hạnh phúc như mình và liệu có ai trong số họ nghĩ rằng họ rất giàu bởi những điều họ có hay ?


      Tôi nhớ trước ngày rời Hamburg, tôi có với người bạn của mình rằng: “Đôi khi cứ nghĩ nếu viết về Hamburg cảm xúc chắc cứ phải tuôn trào ra như nước mắt lúc chia tay, nhưng bây giờ tự nhiên tớ lại chẳng thể viết được điều gì cả, dù Hamburg trở thành phần máu thịt trong những năm tháng tuổi trẻ của tớ. Hình như ai đến và từng có khoảng thời gian dù ngắn hay dài sống ở thành phố này, đều khỏi chạnh lòng khi quay gót bước …” Và tôi, cũng là ngoại lệ.


      Hamburg trong tôi là những ngày lang thang ở Blankenese và ngắm những ngôi nhà tuyệt đẹp ở cao, xa xa là những cánh buồm bay bay trong gió. Nắng nhảy nhót dòng dông Elbe và tôi nghe thấy tiếng tôi cười triền đê khi lạc ở Cranz và nhờ lạc đường mà lại may mắn nhìn thấy những chú cừu xinh xinh chơi đùa bờ cỏ. Hạnh phúc nhiều khi đơn giản chỉ có vậy thôi.







      hái dâu ở Hamburg


      Hamburg trong tôi là những khoảng trời xanh với những khu vườn nổi tiếng như Botanische hay những công viên với những vẻ đẹp đa sắc màu như Planten un Blomen. Tôi nhớ những buổi chiều ngồi rung đùi đánh cờ vua với các chiến hữu thảm cỏ xanh, vừa chơi vừa thưởng thức sô--la, trái cây đủ các thể loại, là những ngày hè khi hoa bắt đầu nở, chạy vào đó hít hà mùi hương của hoa hồng và cảm nhận bình yên của cuộc sống.


      Hamburg trong tôi là những ngày trốn mình ở Landungsbrücken khi thấy lòng bình yên. Là những đêm Plasten un Blomen xem nhạc nước và lắng nghe những giai điệu ngọt ngào của cuộc sống. Là những lần Dom với những khoảnh khắc t bất tận khi nhìn pháo hoa rực sáng giữa trời đêm, là phút giây tôi thấy trái tim mình chết lặng khi nhìn thấy người đàn ông có đôi mắt giống hệt “người xưa”, là đôi ba lần nước mắt tôi lăn dài má khi nhìn những cụ già ngồi tàu điện ngầm với đôi mắt hoang mang, bíu chặt bàn tay tôi rồi thẫn thờ quay sang hỏi: “Nơi này là đâu?”


      Hamburg trong tôi là những ngày cà phê cùng bạn bè, là những bữa tối cùng nhau “góp gạo thổi cơm”, là những ngày “ăn bóng đá, ngủ bóng đá” và thao thức suốt cả mùa Euro để gào thét ở Heiligengeistfeld hay khóa cửa phòng khóc dấm dứt suốt cả đêm khi cỗ xe tăng Đức bị loại khỏi trận đấu với Ý, là những ngày nắng gió lang thang ra sân vận động cả hai ngày trời để xem bốn trận bóng đá và rồi hét lên vì sung sướng khi được nhìn thấy những đứa con cưng của Đức như Lahm, Müller, Neuer, Gomez tung hoành sân cỏ.


      Hamburg trong tôi là những sáng ban mai lang thang cùng bạn bè ở chợ cá (Fischmarkt) lúc 5h sáng. Toàn bộ thành phố chìm trong ánh đèn, những con thuyền thường ngày chở khách dạo quanh cảng bây giờ cũng lặng lẽ nằm yên. Trong lúc người bạn cùng loay hoay chụp hình để ghi lại những “khoảnh khắc đẹp” đó vào trong những bức ảnh tôi bước lang thang và hít thở mùi hương của đất trời, thấy lòng tênh, những nỗi buồn tên cũng tự nhiên biến mất. Dòng sông Elbe ru tôi bằng những khúc nhạc dịu êm, tự nhiên tôi nhớ tới bài hát Ru tình của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn rồi nghêu ngao hát “Ru em tình như lá, trăm năm vẫn quay về”. Vẫn chẳng biết “quay về đâu” trong đoạn đường còn lại phía trước, nhưng phải , phải sống, phải tiếp tục thương và cố gắng. Vì mỗi ngày đều là ngày mới…


      Hamburg trong tôi là kí ức thương về người, về tình quá khó để bắt đầu nên cũng dễ dàng kết thúc. Chúng tôi đến, ở lại và cuối cùng là bước qua nhau. nhàng và sâu lắng. Để rồi sau này khi rời xa Hamburg, trong lá thư viết dành cho Hamburg tôi viết: “Dù thế nào em vẫn muốn lời cảm ơn Hambug, cảm ơn vì cho em khoảng thời gian để thương và để nhớ, cho dù ngày nào đó em vẫn phải rời bỏ Hamburg mà nhưng tất cả những gì em có và có lúc này, mãi mãi là những dấu ấn cuộc đời mà năm tháng thời gian có thể xóa mờ nhưng vĩnh viễn chẳng bao giờ tan biến trong trái tim.”







      Cảng Hamburg


      Hamburg trong tôi là còn nhiều lắm những nơi mà tôi chưa kịp kể, những kí ức mà tôi thể nào viết hết ra được. Nếu có dịp tới Hamburg, tôi dẫn bạn lang thang hồ Alster - trái tim của thành phố, tôi đưa bạn tới Hafen City - trong những dự án phát triển đô thị lớn nhất châu Âu. Với diện tích khoảng hơn 7000 héc-ta. Cảng Hamburg rộng gấp 10.000 lần sân vận động bóng đá và cũng là trụ cột kinh tế của thành phố. Tôi cũng quên dẫn bạn dạo ở Speicherstadt với những khu nhà kho cũ nổi tiếng được xây dựng từ cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX (trước đây nơi này từng là kho lưu trữ các loại gia vị, trà, cà phê, ca cao và đặc biệt là thảm). nóc nhà kho cũ ở Speicherstadt này, công trình Elbphiharmonie được xây dựng nên. Nhân tiện tôi thêm chút về tòa nhà gây nhiều tranh cãi này. Elbphiharmonie được bắt đầu xây dựng từ năm 2007 với ước tính ban đầu là 77 triệu euro, dự kiến vào hoạt động năm 2010 nhưng do nhiều mâu thuẫn xảy ra trong quá trình xây dựng giữa thành phố Hamburg và công ty xây dựng Hochtief mà tòa nhà này bị dừng suốt tám tháng liên tục và tổng dự toán xây dựng ước tính cho đến thời điểm tại lên tới gần 500 triệu euro. Sau những thỏa thuận mới nhất diễn ra vào tháng Bảy năm 2012 Elbphiharmonie bắt đầu gấp rút để hoàn thành vào năm 2015 và trong rất nhiều cuốn sách viết về Hamburg, người ta bắt đầu tới Elbphiharmonie là biểu tượng của Hamburg trong tương lai gần. Trong thời gian thực tập cho công ty du lịch ở Hamburg, tôi may mắn được vào bên trong tòa nhà này để chiêm ngưỡng “vẻ đẹp chưa hoàn hảo” của nó, để rồi khi bước ra, bần thần, tự hỏi: “ biết đến bao giờ mình mới có đủ tiền để mua căn hộ trong đó?”


      Nét duyên dáng và quyến rũ của Hamburg dường như bao giờ kể hết được và chắc chắn còn rất nhiều nơi ở Hamburg mà tôi thể nhắc tới hết được trong bài viết này của mình. Có rất nhiều điều thú vị và bất ngờ về Hamburg mà có lẽ phải ai cũng biết. Bạn có biết thành phố này là thành phố cảng lớn thứ hai của châu Âu và thứ tám của thế giới? Bạn có biết trong Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, Hamburg gần như bị phá hủy hoàn toàn và toàn bộ thành phố gần như bị chìm trong trận đại hồng thủy năm 1962 và bạn có biết Hamburg là thành phố có nhiều cây cầu nhất thế giới? Vượt qua cả Amsterdam và Venice?! Và nếu bạn tới Hamburg, ngoài những địa danh tôi nhắc đến ở , tôi nhắn bạn dành thời gian ghé thăm thế giới kì diệu thu có tên là Mininatur Wonderland. Đây cũng là khu triển lãm trưng bày những mô hình thu cực kì sống động - trong những điểm đến thể bỏ qua khi tới Hamburg. Nếu bạn thích kĩ thuật, tôi bảo bạn tới thăm nhà máy sản xuất máy bay Airbus, nơi lắp đặt nội thất cabin cho các mẫu máy bay như A300 và cả A380. Bạn được chứng kiến những hình ảnh vô cùng thú vị về quy trình ra đời của chiếc máy bay. Ngoài ra tôi cũng quên nhắc bạn trèo lên 452 bậc thang của nhà thờ St. Michel để ngắm trọn vẹn khung cảnh thành phố, những gian xanh và những cây cầu dài, ngắn bắc qua sông. Và còn nhiều, rất nhiều những điều khác nữa…


      Tôi tới Hamburg vào những ngày cuối tháng Ba, dạo với người bạn sống suốt tám mùa hoa nở ở Hamburg trong buổi chiều mà thời tiết vừa có mưa, vừa có nắng, vừa có tuyết rơi và rời thành phố vào ngày cuối tháng Chín vàng ngọt nắng thương. chuyến tàu về lại miền quê dấu, có người nắm bàn tay tôi rất chặt và trong khoảnh khắc đó tôi biết, thứ tình cảm chúng tôi trao, dành cho nhau mãi chẳng bao giờ có thể đến đâu. Nhưng tình tôi dành cho Hamburg mỗi ngày lại nhiều thêm…







      Cổng thành Đen ở Trier








      Trier - Thành phố cổ nhất nước Đức





      SAU CHUYẾN CHƠI Ở Luxembourg cùng Jean Paul và em Quỳnh Nga, khi trở về chúng tôi dừng lại ở Trier - thành phố cổ nhất nước Đức.


      Trier được người La Mã xây dựng từ hơn 2000 năm trước, dưới cái tên Augusta Treverorum. Đến thế kỉ thứ II thành phố này được đổi tên thành Treveris và từ đó trở thành thành phố cổ nhất nước Đức, khác hẳn những trại lính cũng do người La Mã lập ra cùng thời.


      Trier là thành phố lớn thứ tư của Đức, thuộc bang Rheinland Pfalz. Tại đây có rất nhiều công trình kiến trúc còn được lưu giữ như Cầu La Mã, Cổng thành Đen (Porta Nigra), Hội trường La Mã, nhà thờ lớn, cơ sở tắm nước nóng thời La Mã (Kaisertherme) và đây cũng là quê hương của vị lãnh tụ tài ba Karl Marx.


      Chúng tới Trier đúng vào ngày lễ hội nên cả thành phố tưng bừng và nhộn nhịp sắc màu và nhạc. Tất cả mọi người đều đổ về trung tâm thành phố, chúng tôi hòa vào dòng người và cùng chung niềm vui với họ. Các cửa hàng ăn lớn chỉ của người dân bản xứ mà còn có cả Đức, Ý, Trung Quốc, Việt Nam, Nhật đều tấp nập người ra vào. Các hoạt động văn nghệ diễn ra khắp trung tâm thành phố với các dàn nhạc ngoài trời vui nhộn khiến Trier tươi trẻ hẳn ra.


      Trung tâm thành phố


      Nằm giữa dòng sông Mosel với những hàng cây trải dài hai bên đường là trung tâm thành phố Trier. Từ Cổng thành Porta Nigra ở phía Bắc, chúng tôi qua khu phố dành cho người bộ để tới khu chợ chính, nơi cách đó xa là Nhà thờ Dom sừng sững. Khu phố bộ được chia thành hai con đường là Simeonstraße và Fleischstraße, rồi lại gặp nhau ở đường Nagelstraße nên người ta dạo quanh trung tâm thành phố theo cung đường vòng tròn. Mỗi con đường chính trong khu phố dành cho người bộ đều mang những nét đặc trưng khác nhau. Nếu từ con đường Simeonstraße, người ta tới Hội trường La Mã, còn nếu con dường Fleischstraße, bạn được ngắm nhìn rất nhiều siêu thị lớn. đường Nagelstraße tập trung rất nhiều cửa hàng nhỏ, còn muốn tìm đến những quán ăn thì phải kể đến con đường Neustraße - con đường rất gần với tòa nhà châu Âu và ngôi nhà sinh ra Karl Marx.


      Chúng tôi đừng chân ở Hoàng cung La Mã, còn có tên gọi là Hoàng cung của Vua Constantine, ngày nay là Nhà thờ Phúc của Trier. Hoàng cung này được xây dựng vào đầu thế kỷ thứ 4 (có lẽ là năm 310), ban đầu là nơi đặt ngai vàng của Hoàng đế Constantine và được dùng như phòng khánh tiết. Đến giữa thế kỉ thứ XIX, đức vua Phổ Friedrich Wilhelm IV cho tu sửa lại công trình này thành nhà thờ phái Phúc , đủ chỗ cho 1.700 người ngồi. Đứng ở phía dưới nhìn lên, chúng tôi thể quan sát hết được toàn bộ khung cảnh của hoàng cung này vì nó quá rộng và cao (số đo bên trong là: dài 67m, rộng 27,5m và cao tới 33m). Sau này về đọc báo, tôi thấy người ta viết rằng ở đây có thể chứa tới hai cái cổng thành Porta Nigra. Phía nam cung điện là khu vườn rộng lớn, được mở rộng thành công viên chung cho tất cả mọi người từ thế kỉ XX. Chiều buông. Hoàng hôn nhuộm những ánh nắng vàng cuối ngày cung điện màu hồng trông lộng lẫy, phía bên dưới là màu xanh ngắt của cỏ và những luống hoa đủ sắc màu. Tôi như thấy mình lạc vào thế giới cổ tích.


      Đối diện với cổng vào của Hội trường La Mã, leo lên bậc thang rồi tiếp tục thẳng là tới cơ sở tắm nước nóng thời La Mã, còn có tên gọi tiếng Đức là Kaisertherme. Công trình này được xây dựng vào khoảng năm 300 dưới thời cai trị của vua Constantius Chlorus nhưng được hoàn thành, chính vì thế nên cũng bao giờ được sử dụng. Tôi thắc mắc rất nhiều về lý do của hoàn thành” này nhưng cho đến giờ vẫn chưa có được lời giải đáp. Ngày nay, khi tới tham quan cơ sở tắm nước nóng còn dở dang này ở Trier, người ta vẫn còn nhận ra dấu vết của kiến trúc La Mã qua những viên đá sáng và gạch đỏ.


      Ở đây có bức tường duy nhất còn sót lại bị phá vì trước đây nó được chọn làm cổng thành của thành phố Trier. Từ bên ngoài, người ta có thể ngắm công trình này miễn phí nhưng nếu muốn vào trong để xem hệ thống nước và hành lang ngầm của khu cấp nước nóng thời La Mã phải trả thêm vài euro lệ phí. bức tường dài là những ô cửa sổ lớn hình vòm cong rất đẹp. những thế, ở đây, vào mùa hè người ta còn sử dụng những khu đất trống làm rạp chiếu phim ngoài trời. Dù chưa tận mắt chứng kiến nhưng tôi có thể hình dung được sáng tạo lãng mạn của người dân Trier.


      Thánh đường cổ nhất


      Băng qua con đường Simeonstraße và khu chợ chính, rẽ sang bên trái là thánh đường Hole Domkirche St. Peter zu Trier, được xây dựng từ thời Trung cổ. Khi tới Trier hầu như du khách nào bỏ qua thánh đường này, đơn giản vì nó nằm ở vị trí hết sức thuận lợi mà người ta có thể dễ dàng nhìn thấy. Đây là nhà thờ cổ nhất của Đức, với chiều dài 112m và chiều rộng 41m, cũng là nhà thờ lớn nhất của Trier. Chúng tôi bước vào nhà thờ và cảm nhận ngay được khí tĩnh lặng bao trùm nơi đây. Tôi đưa máy ảnh lên để chụp nhưng vì cũng xế chiều rồi nên nắng phản chiếu những ô cửa sổ bằng kính rất khó chụp. Tôi tranh thủ ngắm những kiến trúc chạm gỗ tuyệt đẹp bên trong nhà thờ và thấy mình may mắn vì được ghé thăm trong những di tích lịch sử cổ nhất thế giới. Vào mùa hè, nhất là tháng Năm và tháng Sau, ở nhà thờ này diễn ra nhiều buổi biểu diễn, đặc biệt là buổi biểu diễn đàn đại phong cầm thế giới được tổ chức hàng năm ở Trier.


      Nằm cạnh thánh đường là Nhà thờ Liebfrauen, được xây dựng từ thế kỉ XIII nhưng trong Chiến tranh Thế giới lần thứ hai bị phá hủy nặng nề. Đây cũng là di sản duy nhất ở Trier được xây dựng dưới thời La Mã nhưng cùng với các di sản khác nhà thờ này vẫn được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới.


      Cổng thành Porta Nigra


      Từ nhà thờ Liebfrauen, chúng tôi băng qua những con đường và tới Cổng thành Porta Nigra, dịch theo tiếng Latin là Cổng thành Đen bởi toàn bộ ̉ng thành rộng lớn này có màu đen. Cổng thành này được xây dựng từ thời La mã (năm 180), ngày nay, nó trở thành biểu tượng của thành phố Trier. Thời Trung cổ, cổng thành này được xây thành nhà thờ nhưng đến khi quân đội của Napoleon chiếm đóng nó lại được chuyển trở lại thành cổng thành. Leo lên Porta, người ta có thể nhìn thấy toàn bộ thành phố và dạo xung quanh cổng thành ở phía để có thể nhìn kĩ hơn công trình kiến trúc này. Từ Porta Nigra, chúng tôi dọc theo dòng sông Mosel và những con đường rợp bóng cây để tới cầu La Mã. Cầu La Mã bắc qua sông Mosel là cây cầu cổ nhất nước Đức. Từ năm 1986, cây cầu này được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới. Cầu La Mã đầu tiên được làm bằng gỗ từ năm 17 trước Công nguyên, đến năm 45 sau Công nguyên được thay bằng cầu đá. Cây cầu này dù được tu sửa nhiều lần nhưng vẫn là điểm đến thể bỏ qua của Trier. Từ vị trí này, người ta có thể ngắm dòng sông Mosel xinh đẹp lúc hoàng hôn cùng những dãy nhà lấp lánh ánh đèn và hưởng trọn cảm giác được sống giữa thiên nhiên thời La Mã xa xưa.







      Bên ngoài Hội trường La Mã


      Tới Trier, tôi như có cảm giác được quay trở về với lịch sử. Dù phải là điểm đến lý tưởng của những du khách thích phong cảnh đại. Trier vẫn được nhiều người thích vẻ đẹp cổ kính tìm đến để được nhìn thấy thành Rome thứ hai giữa lòng nước Đức.









      [HÀ LAN]








      Amsterdam - Mộc mạc, trữ tình










      Du thuyền ở Amsterdam


      THÁNG NĂM Ở CHÂU ÂU vẫn là mùa xuân nên thời tiết còn se lạnh. Mặc chiếc áo khoác mỏng, tôi và em họ lên chiếc xe buýt tới Amsterdam. Hai đứa dựa vào nhau ngủ giấc ngon lành cho đến khi bị đánh thức bởi tiếng xì xào của những người cùng. Tôi dụi mắt và nhìn ra bên ngoài, rừng hoa tulip rực rỡ đủ màu sắc trải dài suốt quãng đường dài.


      Hà Lan từ lâu nổi tiếng với những cối xay gió và những rừng tulip đẹp mê hồn nhưng lần đầu tiên được chứng kiến tận mắt rừng hoa đủ sắc màu, tôi vẫn khỏi ngỡ ngàng. Cứ được đoạn tôi lại thấy những cánh đồng hoa lúc đỏ, lúc tím, lúc vàng, lúc đủ màu xen lẫn vào nhau. Những người trông coi những rừng hoa ấy chắc phải mất công lắm khi gieo mầm mỗi luống hoa, để cho những người “qua đường” như chúng tôi được ngắm thỏa thích.


      Khi xe dừng lại ở trước cửa nhà ga Amsterdam, ấn tượng đầu tiên lên trong đầu tôi là “thành phố gì mà bẩn thế, toàn rác là rác”. biết có phải vì đọc được nỗi thất vọng trong mắt tôi hay , mà người tài xế nhàng giải thích rằng hôm qua là ngày cả đất nước Hà Lan ăn mừng sinh nhật Nữ Hoàng của họ nên người dân từ các tỉnh đổ về ăn uống, tiệc tùng, xả nhiều rác mà những người lao công chưa kịp dọn hết. các ngôi nhà, những lá cờ Tổ quốc vẫn nối đuôi nhau bay bay trong gió. Tôi liền thở phào nhõm.


      ©STENT


      Amsterdam làm thành phố nhưng rất đẹp. Có những đoạn đường cực kỳ đông đúc nhưng mọi người rất thân thiện, ai càu nhàu hay tỏ ra khó chịu khi chẳng may va chạm vào nhau. Mọi người cùng tận hưởng ngày nghỉ thong thả. dọc theo những con kênh, tôi mới thấy có lẽ người ta ngoa khi ví Amsterdam là Venice ở phương Bắc. Tôi biết có mấy chục cây cầu bắc qua dòng sông Amsel và những con kênh xanh biếc nhưng cứ qua cây cầu là tôi lại dừng lại và chụp bức ảnh làm kỉ niệm. Những cây cầu nhìn xa có vẻ gần giống nhau, vì bên cạnh thành cầu nào cũng toàn xe đạp là xe đạp nhưng khi tới gần mỗi cây cầu lại có vẻ đẹp riêng.


      Nguồn ebooks: http://ww.luv-ebook.com


      những cây cầu, xe đạp dựng san sát nhau. Lúc đầu, tôi nghĩ người ta dựng để làm cảnh nhưng hỏi ra mới biết người dân ở đây ưa dùng xe đạp để bảo vệ môi trường. Tôi hỏi em cùng: “ biết người ta khóa xe như thế này, để qua đêm có bị mất nhỉ?” Em tôi vu vơ đáp: “Chắc chẳng ai lấy đâu!” Sau này, bạn tôi kể rằng chuyện mất xe đạp ở Amsterdam tuy là cơm bữa, nhưng cũng là cơm tuần, lúc đó tôi mới hiểu tại sao đường đến nhà ga thành phố, chúng tôi lại thấy có trụ sở trông gửi xe đạp hoành tráng như vậy.


      Có thể rằng, đường Dam là trục đường chính với những hình ảnh được coi là thể thiếu của Amsterdam. Tôi thấy cảm giác thật dễ chịu khi bộ dọc theo những ngôi nhà và những khu phố với rất nhiều cây xanh và những con kênh bé xinh đẹp. Những chiếc thuyền gỗ lớn đưa du khách dạo chơi dọc theo kênh, tôi chỉ đứng ngắm họ thôi mà cũng thấy bình yên. Dường như tôi thấy Amsterdam sống chậm, chậm trong từng nhịp thở và chậm trong cả những bước chân của kẻ đến, người . Amsterdam bình yên như thế, có lẽ chẳng ai nỡ bước qua nhanh.


      Ở Amsterdam, những ngôi nhà trông rất giống nhau, việc tìm nhà ở đây có lẽ rất vất vả. Nhưng nếu nhìn kĩ mỗi ngôi nhà đều mang vẻ đẹp riêng, tuy nhà nào cũng có những ô cửa xinh xinh giống nhau, nhưng ban công lại được thiết kế theo nhiều kiểu khác nhau. Nhà ở Amsterdam thường cao nhưng rất , tôi rất thích ngắm những ngôi nhà nằm sát bên bờ kênh.


      Bảo tàng Madame Tussauds là nơi trưng bày các tượng sáp người nổi tiếng: từ các nhân vật lịch sử, hoàng tộc đến những người nổi tiếng, ngôi sao điện ảnh, nhạc, thể thao cổ đại và đương đại. Đặc điểm nổi bật là những bức tượng này đều giống y chang bản gốc. Người ta có thể mua vé vào đây tha hồ chụp hình, cứ như thể được đứng cạnh người nổi tiếng ngoài đời vậy. Tòa nhà này là phiên bản của tòa nhà Madame Tussauds ở London.


      Chúng tôi dừng chân ở Nhà thờ cổ Oude Kerk. Đây là nhà thờ lâu đời nhất của Amsterdam được xây dựng từ thế kỷ XV cơ sở nhà thờ có trước đó ba thế kỷ. Nhà thờ này bây giờ chỉ để cho khách tham quan. Điểm đặc biệt của nhà thờ là những ô cửa sổ cao, những bia mộ, mái vòm và những vật dụng trang trí từ thời Trung cổ. Phía dưới sàn nhà ghép bằng những tảng đá dài 2.500 huyệt mộ có khắc tên người chết hay đơn giản những con số.







      Xuân về trong vườn hoa Keukenhof


      Nhắc tới Amsterdam, người ta cũng thể nhắc đến phố đèn đỏ - nơi được cả thế giới biết đến là khu công khai hoạt động mại dâm hợp pháp, tồn tại từ thế kỷ XIV. Phố đèn đỏ được người Hà Lan gọi bằng tên: bán hoa ngoài cửa sổ. Đây cũng là khu vực cổ nhất ở Amsterdam. Ban ngày, cuộc sống ở đây rất vắng vẻ, người ta nghĩ là mình ở phố đèn đỏ, chỉ khi các đứng bên cửa sổ chào hàng họ mới nhận ra. Càng về khuya, khu phố càng náo nhiệt hơn, những tấm rèm bắt đầu được khép lại. Người ta cho chụp hình ở đây, bởi thế nên khách du lịch chỉ có thể chụp trộm nhưng thông thường các cũng rất tinh mắt, khi họ phát ra khách du lịch đưa máy ảnh lên họ lủi trốn sau tấm rèm, có những còn phản ứng bằng cách quát tháo, chửi bới.


      Tôi trở lại Amsterdam năm sau đó, cũng vào những ngày tháng Tư nắng đẹp cùng người bạn thân của mình. Amsterdam vẹn nguyên như thế, vẫn là những con kênh xanh xanh, những chiếc thuyền chở khách dạo, vẫn những cửa hàng lưu niệm lớn nối đuôi nhau với những đôi guốc gỗ thật xinh xắn. Tôi cũng mua đôi guốc về làm quà cho em. Người ta kể lại rằng, khi xưa người Hà Lan guốc để đề phòng bò dẫm vào khi vắt sữa và cũng để tránh cho đôi chân khỏi bị ướt nếu phải qua đầm lầy. Nhưng bây giờ trong bất cứ cửa hàng lưu niệm nào người ta cũng thấy những đôi guốc gỗ lớn được trưng bày. Thậm chí, những con phố lớn hay trong những vườn hoa còn có cả những đôi guốc gỗ cực kì lớn để khách du lịch có thể ngồi vào đó để chụp hình.


      Cũng trong lần trở lại Amsterdam này, chúng tôi được người bạn sống nhiều năm ở Leiden dẫn thăm vườn hoa Keukenhof. Từ Amsterdam, xe lửa tới Leiden chỉ khoảng hơn 30 phút và sau đó xe buýt thêm đoạn nữa là tới vườn hoa trứ danh này. Với diện tích khá lớn nên để xem cả khu vườn này, người ta có thể mất đến ngày. Những bông hoa đua sắc màu rực rỡ nhưng nổi bật nhất vẫn là những rừng tulip với đủ mọi sắc màu ngút ngàn. Khách du lịch cũng có thể du thuyền những con kênh hay thuê xe đạp để tham quan rừng hoa ngay bên cạnh đó. Trong công viên hoa này còn có cả những ngôi nhà kính. Bạn có thể vào đó chiêm ngưỡng những bông hoa lan nhiều màu sắc hay xem cách người ta dạy cắm hoa. đáng tiếc nếu bạn đến Hà Lan mà lại bỏ qua vườn hoa danh tiếng này. Đôi khi, tôi cũng hay tự hỏi: “Amsterdam thế nào nếu như có hoa tulip?” khó có câu trả lời, bởi dường như khi nhắc tới Amsterdam là người ta nghĩ ngay đến hoa tulip và ngược lại.


      Rời Amsterdam vào một buổi chiều nắng đẹp, sau những ngày lang thang nơi ấy, tôi vẫn còn luyến tiếc thủ đô này vô cùng. Amsterdam in đậm trong kí ức tôi về những ngôi nhà thấp thoáng bên những con kênh xanh xanh với những chiếc cầu thơ mộng nối đuôi nhau, những con đường với những bàn chân bước chậm và nhàng. Amsterdam với tôi chỉ là thủ đô của Hà Lan mà còn là thành phố thơ mộng, lãng mạn và đầy quyến rũ.









      [HUNGARY]








      Tới Budapest ngắm dòng sông Danube










      Dòng sông Danube nhìn từ cao


      TUY CÓ LỊCH chính thức là Budapest trong chuyến hành trình qua Áo của mình nhưng để “chuộc tội” vì làm hướng dẫn viên cho tôi trong ngày ở Áo nên bạn quí hóa mua vé đưa tôi tới Budapest - thủ đô kiều diễm của Hungary và là viên ngọc quý của Danube, nơi có những cây cầu xinh xinh nối hai bờ Buda và Pest với nhau.


      Chúng tôi tớt Budapest vào ngày nắng đẹp và trong veo, khi vừa bước chân ra nhà ga và thẳng trục đường chính để tới cây cầu Erzsébet, tôi bị hớp hồn bởi vẻ đẹp cổ kính mà lộng lẫy của những tòa nhà hai bên đường. Toàn bộ kiến trúc của thành phố là kết hợp hài hòa giữa các tòa nhà đại của thành phố trẻ với những dinh thự lộng lẫy, những thánh đường nguy nga và những kiến trúc La Mã còn sót lại Những kiến trúc đẹp nhất của thành phố này đều nằm dọc theo hai bên dòng Danube. Có lẽ nhờ dòng sông xanh và những kiến trúc độc đáo này mà Budapest trở thành điểm đến hấp dẫn nhiều du khách.


      Địa điểm đầu tiên chúng tôi đến là đỉnh đồi Gellert với độ cao 235m, được gọi theo tên vị thánh tử vì đạo Gellert - người truyền bá đạo Thiên chúa vào Hungary ở thế kỷ X. Ở dưới chân đồi, những bức tường thành bằng đá kiên cố vẫn còn đọng lại lớp băng của những ngày mùa đông. Đường lên đỉnh đồi có những hàng cây rất đẹp và những tảng đá lớn nằm trơ trọi khiến khung cảnh nên thơ và lòng tôi bình yên hơn bao giờ hết. Phía đỉnh đồi là bức tượng Nữ thần Tự do giơ hai tay nâng cao cành cọ, đó cũng là biểu tượng của chiến thắng và tự do. Từ phía cao này, người ta có thể nhìn thấy Đồi Lâu đài (Castle Hill) và toàn bộ khung cảnh phía bên dưới dòng sông Danube.


      Từ phía đỉnh đồi Gellert xuống, tôi ngước nhìn lên phía và thấy Đồi Lâu đài đẹp nên lại quyết định leo lên. Đây là nơi ở của các triều đại vua chúa Hungary. Tại đây, vẫn còn những di tích cổ xưa và rất nhiều đá gạch in đậm dấu vết thời gian. Khu di tích này gồm Cung điện Hoàng gia Hungary khởi công xây dựng vào giữa thế kỷ XIII, Nhà thờ Mátyás mang tên vị vua hùng mạnh và minh bậc nhất trong lịch sử đất nước này. Thư viện Quốc gia Hungary cùng hàng loạt bảo tàng và khu triển lãm.


      Đứng ở phía này, người ta có thể nhìn ra ngã rẽ của dòng sông Danube khi chia thành hai nhánh. Là con sông dài thứ hai của Châu Âu và chảy qua nhiều nước khác nhau như Đức, Slovakia, Áo… nhưng có lẽ khúc sông nào có thể sánh với đoạn chảy qua Budapest.


      Trời xế chiều, chúng tôi băng qua cây cầu Széchenyi với tên gọi tiếng Việt là cầu Xích. Đây cũng là cây cầu đầu tiên bắc qua sông Danube, đồng thời cũng là cây cầu nổi tiếng và đẹp nhất ở Budapest. Với những dải treo bằng sắt tựa như chuỗi xích khổng lồ, Széchenyi nối Quảng trường Roosevelt của Pest với Quảng trường Adam Clark của Buda. Ngay ở đầu cầu, người ta thấy bức tượng con sư tử có lưỡi, chụp cho tôi bức hình làm kỉ niệm và trêu: “Sau này xem lại ảnh, xem sư tử và em, ai xinh hơn” rồi sau đó bế tôi lên thành cầu để chụp hình làm kỉ niệm trong khi tôi xấu hổ đỏ cả mặt khi thấy người đường cứ nhìn qua nhìn lại. Có lẽ trông mặt tôi lúc đó ngố kinh khủng nhưng mặc kệ, miễn sao có thể chộp được những tấm hình đẹp nhất để tôi có “của hồi môn” cho con cháu sau này.


      Khi đứng cây cầu và nhìn ra phía xa, tôi bảo : “Ở đây, ai muốn tự tử chỉ cần nhảy xuống dòng sông, dòng nước xoáy rất mạnh.” Lời vô tình ấy của tôi khi đó hề có dụng ý nào, nhưng khi về và kể cho bạn đồng nghiệp nghe, tôi mới biết rằng, khi xưa, người khắc bức tượng sư tử ở cây cầu này cũng nhảy xuống sông Danube tự tử khi người ta chế giễu ông rằng con sư tử có lưỡi ( ra nếu để ý kĩ sư tử vẫn có lưỡi, chỉ có điều bức tượng này được đặt rất cao nên người ta khó có thể nhìn thấy lưỡi của nó).


      Khi chúng tôi băng qua cây cầu, hoàng hôn bắt đầu buông xuống. Ngước nhìn lên tòa lâu đài và ngắm nhìn ánh đèn điện phía cao, tôi thấy Budapest lung linh huyền ảo. Chúng tôi dừng lại ở Tòa nhà Quốc hội bên sông Danube. Đây là trong những tòa nhà cổ kính nhất Châu Âu và lớn nhất thế giới với chiều dài 268m được xây theo kiến trúc Gothic. Tôi hơi ngỡ ngàng khi thấy tòa nhà này chẳng khác gì nhiều so với Tòa nhà Quốc hội ở London mà tôi tới cách đó vài tháng. Mãi sau này, tôi mới biết rằng tòa nhà này được phỏng theo nguyên bản của Tòa nhà Quốc hội ở London. dòng sông Danube, người ta thấy bóng của tòa nhà soi mặt nước, nhưng lối chính nằm ở đó mà nằm ở bên hông quảng trường. Tôi chiêm ngưỡng vẻ đẹp về đêm của công trình kiến trúc đặc trưng của mọi thời đại và trở thành trong những Di sản văn hóa của nhân loại. Chắc hẳn, người dân Hungary phải rất hãnh diện vì lưu giữ được kiến trúc kiêu hãnh, hùng vĩ mà vẫn mang đậm phong cách cổ xưa như thế này.







      góc kiến trúc của lâu đài Castle Hill


      Trời đã bắt đầu tối, hai em dạo những đại lộ rộng lớn và sạch sẽ với những cửa hàng lớn nhỏ nằm hai bên đường. Mà nói đến phố xá Budapest, phải nhắc đến đại lộ Andrássy nằm ở trung tâm thủ đô (phía bên Pest). Hai bên đại lộ này là những quán cà phê, những viện bảo tàng, còn phía cuối đại lộ là Quảng trường “Những người hùng” được xây dựng đầu thế kỷ XX với những bức tượng của các thủ lĩnh lập quốc Hungary và các hùng, các vị vua lớn trong lịch sử đất nước này. Tôi ghé vào một cửa hiệu bán đồ lưu niệm nhỏ bên đường và được tặng luôn một chiếc khung ảnh một bên là hình chiếc cầu Xích và một bên tôi có thể gắn bức hình của tôi vào để làm kỉ niệm trong chuyến này. Chúng tôi lang thang trong cái lạnh ban đêm và những cơn gió mát lành thổi từ sông vào. Dù có lạnh đến đâu, tôi vẫn muốn ra sông để ngắm lại đồi Lâu đài và những cây cầu lung linh huyền ảo giữa màn đêm. lấy chiếc máy ảnh của mình và ́ chụp lại những khoảnh khắc đẹp trong đêm của Budapest nhưng những tấm hình vẫn được ưng ý. Tôi đã nói với rằng có những khoảnh khắc mà người ta chỉ có thể ghi lại vào kí ức mỗi khi nhớ về nó chứ thể lưu hết lại vào trong máy ảnh hay trong những bức hình được. Dường như hiểu được điều đó nên cũng buông máy và tận hưởng khoảnh khắc dịu dàng đó.


      Tôi quá khó khăn khi nói lời tạm biệt Hungary bởi tôi biết hành trang tôi mang trở về là rất nhiều kỉ niệm về một hòn ngọc của dòng sông Danube xanh ngắt, một thành phố kiều mà ̉ điển, mang trong mình vẻ đẹp của cả phương Đông và phương Tây. Có lẽ, người ta đã quá lời khi gọi Budapest là Paris Phía Đông, còn tôi, tôi gọi Budapest bằng một cái tên thật trìu mến: Dòng sông xanh.


      Sau này trong lá thư gửi cho một nửa thương của mình, tôi đã viết: “Nếu được chọn một nơi nào đó để cùng ngắm hoàng hôn châu Âu, em sẽ chọn Budapest. Có thể Budapest đẹp so với Paris, London, Vienna hay bất cứ một nơi nào khác mà em đã từng đặt chân qua, nhưng Budapest đã cho em những khoảnh khắc rất riêng trong cuộc đời mà em biết có lẽ sẽ còn rất lâu sau nữa em mới có thể tìm lại được… Em Budapest phải bằng thứ ‘tình sét đánh’, càng phải bằng thứ tình đã được thời gian trải nghiệm… Em Budapest bằng một tình lời…”

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :