1. QUY ĐỊNH BOX XUẤT BẢN :

       

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]

    ----•Nội dung cần:

    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)

    - Tác giả

    - Dịch giả

    - Đơn vị phát hành

    - Số trang ( nên có)

    - Giá bìa (nên có)

    - Ngày xuất bản (nên có)

    --- Quy định

    1 . Thành viên post có thể tự type hoặc copy từ nơi khác (để nguồn)

    2 . Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn

    3. Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ

    Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Đức Phật Và Nàng - Tập 1

Thảo luận trong 'Sách XB Hoàn'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      Đức Phật và nàng

      Tên gốc: Bất phụ Như Lai bất phụ khanh

       Tác giả: Tiểu Xuân (Tên Chương Xuân Di)          

      <em id="__mceDel'] Dịch giả : Lương Hiền[/I]

       Công ty phát hành: Tiền Phong

       Nhà xuất bản Văn học ấn hành

                  Xuất bản tháng 03/2012

       Số trang: 567

                  Kích thước: 14.5 x 20.5cm

                  Giá bìa: 110.000 VNĐ

                  Nguồn: Wattpad 

      Giới thiệu
       

                  Những lời bình về cuốn tiểu thuyết “Đức Phật và nàng”:


                  - “Dư vị ngọt ngào của cuốn sách an ủi rất nhiều cõi lòng rối bời vì mỏi mệt của tôi.”


                  - “Cuốn sách của Tiểu Xuân, tựa hồ bàn tay kì diệu, xua tan lớp bụi thời gian, tái những diện mạo sống động từ quá khứ”.


                  - “Được thấy họ vui cười, than khóc, được thấy họ hạnh phúc, đau khổ, bất chợt có ảo giác mình hữu ở thời đại ấy”.


                  - “Mười năm lại mười năm, đời người có được bao lần mười năm để chờ đợi? Vậy mà tác phẩm cho thấy, chờ đợi cũng là nét đẹp quyến rũ của tình , được xây đắp bởi chân tình và đức tin”.


                  - “Rajiva vẫn bình thản trước tháng năm, chờ đợi mà vì nàng Rajiva tình nguyện bị đày xuống, dù là tầng sâu nhất của địa ngục.”


                  - “Đó là thứ tình cảm rất đời, giận xúc cảm, sao có thể từ tâm, sao có thể bác ái, sao có thể phổ độ chúng sinh”.


                  *****


                  Tác giả Tiểu Xuân (tên : Chương Xuân Di) tốt nghiệp chuyên ngành ngoại ngữ tiếng , có bằng MBA) từng giữ cương vị giám đốc kinh doanh cho doanh nghiệp nằm trong Top 500 công ty hàng đâu Trung Qụốc. giữ chức vụ CEO của doanh nghiệp nước ngoài có trụ sở tại Ninh Ba, Trung Quốc.


                  Châm ngôn sống: đọc vạn cuốn sách, vạn dặm đường, nghe vạn chuyện đời.


                  Đam mê lớn nhất trong cuộc đời là được mình ngao du bốn biển.


                  xuất bản tiểu thuyết “Đức Phật và nàng”, “Mười năm và sống”.


                  lưu lại dấu chân của mình qua hầu hết các quốc gia châu Phi và châu Á, các danh thắng nổi tiếng, các cánh rừng nguyên sơ, các đỉnh núi kỳ vĩ khắp thế giới.

       
      <img class="aligncenter" alt="" src="https://i.imgur.com/1sJ6yIZ.png" width="128" height="128" />

                  Trích lời giới thiệu của đọc giả

                  ha_noi_buon


                  Đây là câu truyện về tình của vị Đạt ma và 1 nàng đến từ thế kỷ 21. Tình của chàng dành cho phật tổ ngày càng giảm và tình dành cho nàng ngày càng lớn, lớn tới mức sau đó chiếm trọn trái tim chàng.
      Tác giả viết truyện là người có hiểu biết rộng và có những cái nhìn sâu sắc nên khi đọc bạn có cảm giác mình là người chứng kiến, người trải qua những thăng trầm cảm xúc của nhân vật. Truyện hay tới mức bạn phải nghẹn ngào khi đọc, nước mắt rơi mà bạn biết, trái tim quặn đau như chưa bao giờ bị đau như thế, là cảm giác ngọt ngào thăng hoa khi nhân vật hạnh phúc.

      Lời khuyên cho những ai có ý định đọc truyện này là nên đọc. phải vì truyện hay mà vì bạn cần có trái tim khỏe để có thể đau đớn và chờ đợi cùng nhân vật.

      Nếu ví cảm xúc của nhân vật là sa mạc cảm xúc đời thường của tôi trải qua hơn 30 năm chỉ là hạt cát.

      GẶP HAY GẶP

      Nàng gặp ta, hay gặp ta

      Ta vẫn nơi đây

      vui, cũng buồn

      Nàng nhớ ta, hay nhớ ta

      Tình vẫn nơi đây

      đến, cũng chẳng

      Nàng ta, hay ta

      vẫn nơi đây

      tăng, giảm

      Nàng theo ta, hay theo ta

      Tay ta vẫn trong tay nàng

      Mãi buông

      Hãy sà vào lòng ta

      Hoặc là, cho ta chỗ trong trái tim nàng

      Yên bình nhau

      Trong niềm vui thầm lặng


      <img class="aligncenter" alt="" src="https://i.imgur.com/pbQEYjJ.png" width="128" height="128" />

      Chương 1: Cuộc thí nghiệm của tôi


      Tôi ngồi ngẩn ngơ, thu vào tầm mắt mênh mông cồn cát. Xa xa, vài chú lạc đà hoang dã nhởn nhơ rong chơi, nhưng chưa kịp lại gần, co cẳng chạy biến, chúng còn khôn hơn cả lạc đà thuần. Bước thấp bước cao lê lết suốt mấy tiếng đồng hồ và ngừng dõi mắt tìm kiếm xung quanh, quả thực là tôi quá mệt. thiết bị định vị GPS, phương hướng, cứ lao như vậy chẳng giải quyết được vấn đề gì. May cho tôi, lúc này là giữa thu, thời tiết tuy khô hanh nhưng nhiệt độ sa mạc quá thấp, nên vẫn chịu đựng được. Có điều, trời tối dần khiến tôi lo ngại. Khi mặt trời khuất bóng mà tôi lại mang theo bất cứ vật dụng bảo vệ ngoài trời nào, lang thang trong đêm giữa hoang mạc thế này, chết đói cũng chết rét.

      Nhắm mắt lại vẫn thấy rùng mình, cảm giác quay cuồng lúc tiếp đất vẫn chưa tan. Uể oải nâng tay trái ngó chiếc đồng hồ vượt thời gian, ngăn nổi tiếng thở dài. Vẫn là, lần thử nghiệm thứ ba lại thất bại, tuy có tiến bộ hơn hai lần trước, lần này tôi tiếp đất.

      Tôi tham gia dự án thử nghiệm vượt thời gian này hơn năm. Là nghiên cứu sinh chuyên ngành lịch sử, nhiệm vụ ban đầu của tôi chỉ là cùng thầy hướng dẫn, giáo sư lịch sử danh tiếng tham gia công tác chỉ đạo dự án. Nhưng sau khi gặp tôi, các nhà sinh vật học ấy cứ nằng nặc đòi tôi tiến hành xét nghiệm và kết luận của họ là thể lực của tôi hoàn toàn thích hợp để thực thử nghiệm.

      Mặc dù thiếu người nhưng tất cả tình nguyện viên trước đó đều thất bại. Nhóm chuyên gia cho họ về nghỉ và quay ra “tâm lý chiến” với tôi. Với tư cách là nghiên cứu sinh chuyên ngành, tôi có trách nhiệm và nghĩa vụ vén bức màn bí , giải mã những nghi vấn, trả lại tính chân thực cho lịch sử. Trở về và trải nghiệm mọi thứ diễn ra trong thời kỳ cổ đại, mấy ai làm được điều đó? Và nếu thành công, tôi trở thành người đầu tiên, được vang danh trong sử sách.

      Tôi là đam mê công việc, tiêu chí của đời tôi là: “sách vạn cuốn, đường vạn dặm, chuyện vạn người”. Tôi muốn gặt hái nhiều thành tích để “sếp” được tự hào, “sếp” chính là thầy hướng dẫn, đám sinh viên chúng tôi thường gọi thầy hướng dẫn của mình như vậy. Do đó, đợi tôi chịu “thuận” hẳn, nhóm chuyên gia hừng hực nhiệt huyết kia nhanh chóng xua tôi lên bục thử nghiệm.

      Lần thử nghiệm đầu, biến mất chưa đầy nửa phút, tôi ngã nhào trở lại. Tôi nhớ gì ngoài cảm giác chóng mặt buồn nôn cực độ khi vượt gian. Toàn bộ thiết bị mang theo gồm: máy dò tìm 14C, GPS định vị, laptop, máy ảnh kỹ thuật số, … đều bị tia bức xạ tần số cao làm hỏng sạch. Nhóm chuyên gia rút ra kết luận: thể mang theo thiết bị điện tử. Vậy là, sau nửa tháng giường bệnh, tôi lại được đào tạo cấp tốc cách sử dụng các dụng cụ thủ công, xẻng Lạc Dương ( loại xẻng dùng trong khảo cổ) cũng nằm trong số đó.

      Lần thứ hai, tiến bộ hơn, tôi biết mất khoảng mười phút, nhưng khi mọi người rất hân hoan, chuẩn bị mở tiệc ăn mừng tôi lại rơi đánh bịch trảng cỏ ngoài phòng thí nghiệm. Lúc tỉnh dậy, hình ảnh của phố xá và dòng người mà tôi nhìn thấy khi bay trong gian mơ hồ quệt qua trí nhớ, có vẻ như là khung cảnh và trang phục thời Hán. Nhưng chưa kịp tiếp đất, lực hút cực mạnh kéo tôi lại. Dụng cụ thủ công mà tôi đeo lưng cũng vỡ tan tành.

      Dựa báo cáo của tôi, nhóm chuyên gia nhận định thí nghiệm có thể đưa con người trở về gian của hai nghìn năm trước, vì vậy, tôi phải ôn lại lịch sử thời chiến quốc và thời Tần Hán khi vẫn còn nằm giường bệnh. Vết thương chưa lành, tôi bị dựng dậy, bị bắt luyện tốc ký, luyện vẽ sơ đồ, biểu đồ, phác thảo công trình kiến trúc. Các chuyên gia quyết định để tôi mang theo những dụng cụ nặng, chỉ đem theo những vật dụng , tiện dụng.

      Học vẽ được nửa năm thiết bị thí nghiệm được cải tiến thành mô hình máy CT. Hành trang lần này của tôi bao gồm tập lớn giấy viết vẽ tốc ký và bút chì. Trước lúc lên đường, sếp tôi còn dặn dò cẩn thận, được phép để lại ở thời cổ đại bất cứ thứ rác rưởi khó tiêu hủy nào của thế kỉ XXI, vì như vậy gây khó dễ cho các nhà khảo cổ và các chuyên gia lịch sử sau này.

      Và trong lần thử nghiệm thứ ba, tôi tiếp đất thành công, thương tổn bầm dập, bởi vì tôi rơi xuống giữa sa mạc cát. Nhưng tôi nhận ra tình trạng thảm hại của mình ngay sau đó. bóng người, dấu hiệu của sống, sau vài giờ lang thang, tôi vẫn hoang mang mình đến được thế giới cổ đại hay chưa. Tôi chỉ khẳng định được duy nhất điều này: tôi rời khỏi phòng thí nghiệm.

      nước uống, đồ ăn, thuốc men, vì nếu có mang theo khi vượt gian cũng bị nhiễm xạ. Trong chiếc ba lô chuyên dụng hiệu Northface của tôi chỉ có con dao Thụy Sĩ, chiếc la bàn, quần áo, sổ ghi chép, dụng cụ khảo cổ, tập giấy tốc ký, bút chì và ít bạc vụn. Chẳng có thứ gì giúp được tôi lúc này. Có lẽ phải bỏ cuộc và trở về thôi. Các chuyên gia tiếp tục cải tiến thiết bị và hy vọng lần tới, tôi đến được nơi có con người. nén nổi, tôi buông tiếng thở dài tiếc nuối. Nhưng trời tối dần, tôi phải tranh thủ thời gian, nếu đủ năng lượng mặt trời để khởi động thiết bị.

      Tôi lôi chiếc mũ chống tia phóng xạ nhét trong bộ trang phục thời Hán ra và chụp kín đầu, đeo găng tay, kéo cao khóa, nghiêng chiếc đồng hồ vượt thời gian kềnh càng về hướng mặt trời, xoay chốt bảo hiểm, miệng nhẩm đếm: , hai, ba…

      Đếm đến mười vẫn có động tĩnh gì. Tiếp tục đếm: hai mươi, năm mươi, trăm…

      Sao thế này, lẽ lại xui xẻo đến vậy? Tôi kéo mũ, dán mắt vào chiếc đồng hồ dở chứng, vẫn động đậy. Đập đập, phản ứng. Giơ cao về phía mặt trời, tiếp tục im lặng. Tôi tháo đồng hồ, vung lắc hết sức, đèn báo hiệu vẫn màu xanh.

      Gió bắt đầu nổi, mặt trời bị giăng mờ bởi ngợp trời gió cát. Cái đồng hồ dựa dẫm vào năng lượng mặt trời chết tiệt này! Tôi phải bỏ mạng ở nơi là thời đại nào, hoang mạc nào này ư?

      Tôi bật dậy, chỉ tay lên trời, nguyền rủa nhóm chuyên gia: cho mang nước, cho mang thức ăn, chỉ mấy đồng xu xù xì nặng trình trịch này ích gì chứ? Sớm biết cái đồng hồ phải gió kia dở chứng dù có phải chịu nhiễm xạ, tôi cũng kiên quyết mang theo đồ ăn thức uống . Ba lần bị đẩy vào cái máy vượt thời gian phải gió ấy, lẽ nào tôi chưa từng nhiễm xạ ư? Tôi thà chết vì nghẹn bánh mì bị nhiễm xạ còn hơn chết đói chết khát thế này!

      Tôi kết thúc trận xỉ vả sau khi nuốt vào đầy miệng cát, trời nhanh chóng tắt nắng, chỉ lát nữa, sa mạc trở nên lạnh cóng. Chiếc áo chống tia phóng xạ của tôi còn có thể chống gió và rét, nhưng chống nổi cơn đói khát ập đến với tôi. Co gập người lập cập bò lên gò cát cao, nhìn ra xa, trong mịt mù đêm tối, tôi bắt gặp những đốm lửa bập bùng phía xa xăm. Tôi chưa bao giờ thấy thứ ánh sáng nào ấm áp đến thế!

      còn nhớ phải mất bao nhiêu thời gian mới có thể thoát khỏi sa mạc tăm tối, gió cát mịt mù đáng sợ ấy, chỉ biết rằng khi tôi lảo đảo lại gần đống lửa mắt tôi hầu như còn thấy gì và tôi khát đến mức cổ họng như cháy khô. Kịp nhận thấy xung quanh đống lửa có số lều bạt, có tiếng người, có lạc đà, mắt sáng rực, tôi lao vào trong những chiếc lều ấy, sau đó, lịm .

                  Chương 2: Hòa thượng và ni


      Tỉnh lại, tôi thấy mình được vây bọc giữa đám người hình hài kỳ lạ: mũi cao, mắt sâu, môi mỏng, mặt tròn, cổ ngắn, nước da trắng mịn, đáy mắt sẫm nâu. Đàn ông cao to lực lưỡng, đàn bà béo tốt khỏe mạnh, tất cả đều tóc xoăn thả lọn ngang vai và nhất loạt màu hung đỏ. Trang phục của họ lại càng đặc biệt hơn: đàn ông áo dài bẻ cổ, tay bó, thắt eo, ủng cao đến tận đầu gối, giắt kiếm sau lưng. Phụ nữ váy dài đến đầu gối, xẻ vai phải, tay bó, vai quàng khăn và cũng ủng cao.

      Tôi thấy khâm phục bản thân, trong tình trạng đói khát mệt lả như vậy vẫn có thể mô tả và nhận xét vẻ ngoài và trang phục của những người xung quanh cách chuyên nghiệp chỉ bằng vài cái đưa mắt quan sát. Nhưng những thông tin này có nghĩa lý gì nữa khi tôi bắt đầu ngửi thấy mùi thơm của thức ăn.

      Chỉ là vài miếng bánh và bát mì nóng, nhưng thế cũng đủ để nước miếng tuôn ào ạt trong miệng tôi. Vội vã đón thức ăn từ tay phụ nữ chừng bốn mươi, sau tiếng lắp bắp cảm ơn, tôi ngấu nghiến nhai nuốt, mấy miếng bánh nhanh chóng hết veo, bát mì nóng cũng sạch bong sau vài miếng soàn soạt, dạ dày có chút cảm giác. Nhưng tôi vẫn muốn ăn thêm, rụt rè cất lời xin xỏ, tôi bỗng nhận ra rằng: ngôn ngữ bất đồng.

      có gì lạ, vì chỉ nhìn thoáng qua cũng biết họ phải người Hán và chính tôi cũng rốt cuộc mình có trở về thời kỳ cổ đại hay . Chưa biết chừng, cuộc thí nghiệm này chỉ như chuyến bay miễn phí, đưa tôi đến sa mạc nào đó thuộc Trung Đông hoặc châu Phi, để rồi vô tình gặp bộ lạc du mục lạc hậu nào đó cũng nên và biết đâu tôi vẫn ở thế kỷ XXI. Tôi thử dùng tiếng , vẫn ổn.

      Đúng lúc tôi phiền muộn giữa những thanh lạ lùng trong lều xuất thêm hai người, những người khác lập tức dừng bàn luận và tỏ ra hết sức cung kính. Tôi có thể nhận ra ngay thân phận khác thường của hai người đó, nhưng khi họ lại gần chỗ tôi nằm tôi ngạc nhiên đến mức hồi lâu vẫn há hốc miệng.

      Đó là ni chừng hơn ba mươi tuổi và tiểu hòa thượng chừng mười lăm, mười sáu tuổi. Nhưng điều khiến tôi ngạc nhiên hơn cả thân phận khác thường là khí chất cao quý toát ra từ con người họ. Họ chỉ yên lặng đứng đó, nhưng vẻ bất phàm thoát tục của họ lan tỏa trong gian quanh tôi.

      Khuôn mặt ni giống hệt những người phụ nữ khác, nhưng làn da trắng mịn hơn, đôi mắt to, lông mày dài mượt và trong đôi mắt nâu nhìn tôi chăm chú thấp thoáng vẻ lo lắng mơ hồ nào đó. thân hình căng tròn, đầy đặn, chiếc áo cà sa màu nâu sòng giản dị che lấp nổi vẻ đẹp của thân hình ấy. Có điều, hình như vầng trán của ni khác với những người khác, hình như nó bị nén xuống và đổ dần về phía sau gáy và vì đầu có tóc, nên hình ảnh đó càng trở nên kỳ dị. Tôi nhớ rằng, người Ai Cập và Ba Tư cổ đại từng có tập tục nén vầng trán cho dẹp xuống ngay khi còn , nhưng tập tục đó chỉ giới hạn trong các thành viên của hoàng thất. biết, trán của ni là do bị dẹp bẩm sinh hay được nén sau khi sinh. Tuy nhiên, vầng trán dẹt làm mất vẻ đẹp mặn mà của ni .

      Tiếp tục quan sát tiểu hòa thượng mười lăm tuổi, thể thốt lên, đó là vẻ điển trai quyến rũ kỳ lạ! Cũng sống mũi cao, đôi mắt sâu, nhưng thô lậu như những người khác. Khuôn mặt tiểu hòa thượng hệt như bức tượng thần Hy Lạp, với những đường nét ngời sáng như khối lập thể được đúc tạc tỉ mỉ. Ngũ quan là kết hợp hài hòa và tài tình, với đường lông mày dày và đậm, sống mũi cao thanh tú, đôi đồng tử màu xám nhạt như được khảm giữa vùng nhãn thần rộng và sâu thẳm, thuần khiết tựa nền trời xanh sa mạc mênh mông. Tuy tuổi còn rất trẻ nhưng ở tiểu hòa thượng toát lên vẻ đạo mạo, sáng rỡ, khiến tôi vừa có cảm giác ấm áp vừa gợn chút tò mò.

      Hòa thượng có làn môi rất mỏng nhưng đường nét đậm , khi đôi môi khép lại, cánh môi uốn lên đường cong thanh tú. Khuôn mặt thuôn dài, chiếc cằm nhọn đậu chiếc cổ cao gầy tựa thiên nga, từng nét thon dài sống động. giống những đàn ông khác trong lều, tiểu hòa thượng có nước da bánh mật. Khoác mình chiếc áo choàng dài, vai rộng phủ toàn thân, chiều cao mét bảy càng tôn thêm dáng vẻ cao lớn, nhưng cũng khiến y phục người tiểu hòa thượng trở nên đơn sơ. Chắc chắn tiểu hòa thượng còn cao nữa, có thể đến mét tám hoặc hơn.

      Tôi chăm chú quan sát hai con người kỳ lạ đó, trí óc quay cuồng. Cho đến khi, bất ngờ, họ bắt đầu trò chuyện với tôi bằng tiếng Hán lơ lớ.

      Rất lâu sau tôi mới hiểu được rằng họ cố hỏi xem tôi từ đâu tới và vì sao lại lưu lạc đến chốn này. Ngước nhìn họ với vẻ đau khổ, tôi đáp:

      - Làm ơn cho tôi biết, đây là đâu, nơi này thuộc nước nào vậy?

      Vẻ băn khoăn hiểu nét mặt ni , nhưng hình như tiểu hòa thượng nắm bắt được đôi điều, đột ngột ngồi xuống cạnh tôi, khuôn mặt tuấn tú, thuần khiết của tiểu hòa thượng bừng sáng. Bị hút hồn bởi vẻ đẹp ấy, tim đập mạnh khiến tôi choáng váng trong giây lát.

      - Chúng tôi đến Wensu, sắp rồi. Cố là ngươi Han?

      chưa hết băn khoăn vì trái tim lỗi nhịp đập nhanh vô cớ, tôi bỗng phì cười trước điệu bộ hết sức nghiêm túc nhưng phát tiếng Hán lơ lớ và trật tự chủ ngữ vị ngữ đảo lộn hết cả của tiểu hòa thượng.

      Đôi chút ngượng ngùng và khuôn mặt hơi ửng đỏ:

      - Tiếng Hán, tôi, giỏi.

      Hòa thượng quay lại thao thao bất tuyệt hồi với ni xinh đẹp. Tôi vội nín cười, cố lí giải xem địa danh mà hòa thượng vừa nhắc đến là nơi nào. Căn cứ phát của tiểu hòa thượng hình như đó phải địa danh ở Trung Nguyên.

      Hòa thượng quay đầu tiếp tục hỏi chuyện tôi:

      - Cố, , đâu?

      Tôi hăm hở:

      - Trường An, biết chứ?

      Thấy hòa thượng gật đầu, tôi thở phào nhõm. Vậy là địa danh này tồn tại và được biết đến ở nơi đây.

      - Nhưng…

      Hòa thượng nhìn tôi do dự:

      - Xa lắm, mình, ?

      Tôi uể oải gật đầu, trong lúc này, ngoài Trường An, tôi chẳng thể nghĩ ra được nơi nào khác, dù thế nào, đến đó tôi cũng gặp trở ngại về ngôn ngữ.

      - Chúng tôi, Kuchi, , tiện đường.

      Vất vả lắm hòa thượng mới phát được tiếng, tôi cứ định buột miệng cười lại gắng sức kìm chế. Cứu mạng tôi, lại có thể trò chuyện với tôi, như vậy đáng quý lắm rồi. biết Kuchi là nơi nào nhỉ? Tôi tiếp đất được bảy, tám tiếng rồi cũng nên, vậy mà vẫn chưa xác định được địa điểm và thời đại lịch sử. Đường đường là nghiên cứu sinh khoa lịch sử trường đại học danh tiếng, xấu hổ quá mất!

      - , tên gì?

      - Hả?

      Mải suy nghĩ, chưa kịp định thần, phải nhờ đến lần thứ hai tôi mới hiểu tiểu hòa thượng muốn hỏi tên mình.

      - Tôi tên Ngải Tình [1] .

      Tên gọi của tôi từ lâu là chủ đề gây cười của mọi người. Từ tôi được gắn biệt danh: Love. Bọn con trai thích thú chọc ghẹo, gào thét tên tôi: Oh, my love!

      Tôi đấu tranh đòi đổi tên, nhưng bố mẹ chịu. Lâu dần thành quen. Gọi “tình cũng có sao, chỉ tiếc, bao nhiêu năm mang tên “tình ” mà vẫn chẳng thấy bóng dáng thần tình của tôi đâu.

      - Tên tôi là…

      Hòa thượng phát ra tràng dài những lạ mà tôi sao nhớ nổi, chỉ cười trừ đáp lại. Hòa thượng kiên nhẫn lặp lặp lại ba lần. Căn cứ vào phát , tôi tìm ra những tiếng tương ứng trong Hán ngữ: Ku- ma- la- ji- ba, quả thực rất khó đọc. Tôi gắng sức: Ku- ma- la- ji- ba, Ku- ma- la- ji- ba, Ku- ma- la- ji- ba, …

      Cánh môi hòa thượng lên xuống theo từng chuỗi phát của tôi và ngừng lại với điệu cười sảng khoái, giọng cười cao vút, trong veo và vang xa như tiếng suối reo giữa đại ngàn. Chợt nhớ đến, mới đây thôi tôi còn cười cậu ta phát tiếng Hán chuẩn, bây giờ đến lượt tôi rồi nhé, má tôi nóng bừng.

      Hòa thượng chỉ cười lát rồi dừng lại, có lẽ vì nhận ra vẻ mặt ngượng ngùng của tôi, chỉ tay về phía ni xinh đẹp đứng phía sau:

      - Của tôi, me, Jiba.

      Tôi bắt đầu thích ứng với khẩu của hòa thượng, nên tự động chuyển ngữ “me” bằng “mẹ”.

      Ni xinh đẹp này là mẹ của hòa thượng? Họ đều là người xuất gia? Cậu ta còn trẻ như vậy, chắc là được mẹ đưa đến nơi cửa Phật? Thoáng chút tiếc nuối len lỏi trong tim, nhưng nhanh chóng bị tôi đá bay. Jiba? biết đó là tên gọi hay là kính từ? Tôi cất giọng thử tiếng Jiba, ni điềm đạm gật đầu.

      - , nghí ngơi, chúng ta, ngày mai, lến đương.

      (Dịch: nghỉ ngơi , ngày mai chúng ta lên đường)

      Sau khi hòa thượng và ni khỏi, tôi ở lại trong lều cùng bốn phụ nữ khác. Tuy hiểu họ gì, nhưng thái độ của họ rất thân thiện. Ngại xin xỏ thêm đồ ăn, tôi khoan khoái ngả mình tấm đệm ấm áp họ dành riêng cho tôi.

      Vậy là tôi nơi xa lạ, ngôn ngữ bất đồng. Ngoài kia, tiếng gió rít sa mạc sao mà thảm thiết, hệt như tiếng khóc than não nề trong đêm vắng. Lòng tôi chùng xuống, hễ nhắm mắt là lại nhớ nhà kinh khủng, nước mắt ngăn nổi, rơi lã chã gối. Tôi cố gắng ngăn chặn cảm xúc yếu đuối đó bằng phép thôi miên thông dụng nhất.

      Tôi bắt đầu phân tích hình ảnh những thứ ở xung quanh mà tôi quan sát được trước lúc ngủ, sau đó, đặt tên cho từng thứ : tôi nằm tấm đệm thêu hoa văn hình thoi, gối chiếc gối bông hoa văn vằn hươu xen hình những nén bạc và đắp lên mình chiếc chăn lông thêu hoa văn hình tam giác. Vật dụng chứa nước là chiếc bình gốm quai, in hoa văn lưới, còn chiếc bát đựng bánh màu xám khi nãy là chiếc bát nung từ đất sét.

      Tôi phán đoán mình đến được thời cổ đại, bởi vì kỹ thuật chế tác những đồ dùng bằng gốm này vẫn rất nguyên thủy. Nếu căn cứ vào trình độ chế tác gốm sứ ở Trung Nguyên kỹ thuật chế tác đơn giản này có lẽ tồn tại từ hơn hai ngàn năm trước. Nhưng biết ở đây thế nào.

      Tiếng gió gầm gào bên ngoài cùng với tiếng thở đều đều trong lều ngăn nổi nỗi mệt nhoài cùng cơn buồn ngủ xâm chiếm. Tôi cuộn mình trong lớp chăn ấm và chìm dần vào giấc ngủ.
                  Chương 3: Tôi biết mình ở đâu


      Sáng sớm hôm sau, chúng tôi thu dọn và lên đường. Tôi khỏe lại, ăn của người ta, ở của người ta phải góp công góp sức với người ta chứ nhỉ! Buồn thay, tôi lại hiểu họ gì, nên khi thu dọn lều bạt, lóng ngóng của tôi chỉ khiến họ thêm vướng chân vướng tay. Nhưng họ rất hiền hòa, trách mắng gì cả, vả lại, dĩ nhiên rồi, họ có trách mắng, tôi nghe cũng chẳng hiểu.

      Họ dành riêng cho người lạ từ trời rơi xuống là tôi chú lạc đà. Nhưng bộ xiêm y người Hán với ống tay rộng thùng thình và chiếc váy dài chấm gót khiến tôi làm cách nào trèo lên lưng lạc đà được. Tôi nhìn bộ váy áo lòa xòa lôi thôi, rồi lè lưỡi nhìn tiểu hòa thượng với vẻ bất lực và cầu cứu.

      Hòa thượng nở nụ cười hồn hậu, quay lại trao đổi hồi với người phụ nữ đứng tuổi, lát sau, bộ trang phục giống như của họ được đem tới. Tôi thay đồ, hơi rộng, cũng phải thôi, thân hình của họ cao lớn thế kia mà. Áo dài đến đầu gối, tay phải thắt ống, vai phải xẻ, quần rộng, ống kiểu Alibaba, ủng cao đến đầu gối, ha ha, hợp mốt đấy chứ! Phụ nữ thời Hán ai mà dám mặc áo hở vai? Nhưng điều quan trọng là với bộ quần áo như thế này, việc lên xuống lạc đà còn khó khăn nữa. Buổi sớm sa mạc vẫn giá buốt, tiểu hòa thượng ân cần mang cho tôi chiếc khăn quàng.

      Tôi nhẩm tính, cả đoàn cũng phải chừng sáu mươi người, nhưng tính cả tôi cũng chỉ có tổng cộng năm người phụ nữ. Ngoài tiểu hòa thượng, những người còn lại đều bận quân phục và giắt bên mình thanh kiếm dài của tướng sĩ thời xưa. Và với biểu cảm khuôn mặt họ, mọi tập trung đều dồn cả vào hai mẹ con ni .

      Tôi có đôi chút băn khoăn, trước đây, tôi mới chỉ thấy hòa thượng và ni có người hầu cùng, chứ chưa từng gặp hòa thượng và ni dẫn theo đội quân thế này. Càng quan sát càng nhận thấy vẻ quan cách toát ra từ cử chỉ và lời của họ, ràng hai mẹ con hòa thượng có thân phận tầm thường. So với những người khác, trình độ tiếng Hán của tiểu hòa thượng là khá nhất, vượt xa cả người mẹ xinh đẹp, nên tôi chọn cạnh hòa thượng để nghe ngóng tình hình. Tuy giao tiếp khó khăn, nhưng tôi cũng nắm bắt được khá nhiều thông tin.

      Tôi gặng hỏi hòa thượng có biết ai làm vua vùng Trung Nguyên hay . Hòa thượng suy nghĩ hồi lâu mới phát ra tiếng gần giống với “Tần/Thanh”. Vậy hẳn là nhà Tần rồi! thể là nhà Thanh, nhóm chuyên gia khẳng định, cỗ máy vượt thời gian chỉ có thể đưa được con người về lại khoảng thời gian hai ngàn năm trước.

      Tôi lại hỏi hòa thượng học tiếng Hán ở đâu. Hòa thượng hoa chân múa tay hồi lâu tôi mới hiểu sơ sơ, rằng ở Kuchi hòa thượng có hai thầy giáo người Hán. Hòa thượng thẹn thùng bộc bạch, là bản thân mới học tiếng Hán được vài tháng mà năm năm rồi luyện khẩu ngữ, nên trò chuyện được lưu loát.

      Tôi quá đỗi kinh ngạc. Hòa thượng chưa đến mười sáu tuổi, vậy là cậu bắt đầu học tiếng Hán khi mới mười, mười tuổi, năm năm bỏ bẵng, nhưng vẫn có thể giao tiếp khá thế này, trí nhớ của hòa thượng đáng khâm phục. Thời gian học đại học, tôi lựa chọn học ngoại ngữ tiếng Đức, sau vài năm ngó ngàng đến, giờ đây tôi chỉ nhớ mỗi câu ICH LIEBE DICH (Em ), nếu cầu tôi trò chuyện với người Đức, chẳng khác nào như vịt nghe sấm.

      Vì tôi tiếp đất giữa sa mạc mênh mông, nên tôi chỉ có thể suy đoán nơi này hoặc là thuộc Tây vực hoặc là thuộc Mông Cổ. Tôi thử hỏi về con đường tơ lụa, nhưng hòa thượng hiểu. Chỉ khi tôi giải thích, tơ lụa và lá trà được vận chuyển từ Trung Nguyên đến tiêu thụ tại Đại Thực (nay thuộc các Tiểu vương quốc Ả Rập), Ba Tư (nay là I- ran), Đại Tần (nay là Roma) con đường này, hòa thượng mới gật đầu. Hòa thượng cho biết, Kuchi nằm con đường này. Và trong tôi chợt bừng lên tia hy vọng.

      Tiếp đó, tôi vắt cạn bộ nhớ để kể ra những địa danh liên quan đến con đường tơ lục: Yên Kỳ (Yanqi), Thiện Thiện (Shanshan), Sơ Lặc (nay thuộc Kashgar, Tân Cương), Lâu Lan, Hòa Điền (nay thuộc Hotan, Tân Cương), Ô Tôn (nay thuộc Ili, Tân Cương), Đôn Hoàng, … Trong số đó có vài địa danh mà sau khi nghĩ ngợi lúc, hòa thượng nhắc lại bằng tương tự, những còn lại rất khó nhận biết. Khi kể đến địa danh Khâu Từ, tôi sững lại. Kuchi, Khâu Từ (Qiu Ci, nay thuộc huyện Kucha, Tân Cương). Hai này rất giống nhau, lẽ nào là quốc gia có nền văn minh phát triển và giàu mạnh nhất vùng Tây vực thời cổ đại?

      Tôi nhìn hòa thượng và thử đọc lại tên Khâu Từ. Hòa thượng ngập ngừng giây lát rồi gật đầu và chỉ vào mình. Trời ơi, cuối cùng tôi biết mình ở đâu rồi. Tôi đến Tây vực, Tây vực đời Tần!

      Vậy những người Khâu Từ mà tôi gặp đường này chính là người Tochari. Tài liệu lịch sử chép lại rằng, tổ tiên của người Khâu Từ là tộc người Da Yue Zhi, hay còn lại là người Tochari. Đầu dài, mũi cao, mắt sâu, môi mỏng, da trắng, thuộc giống người châu Âu nguyên thủy. Các bộ lạc Tochari kết thúc đời sống du mục vào khoảng nghìn năm trước Công nguyên và bắt đầu định cư tại Kucha, Yanqi và Turpan. Tôi đến tham quan rất nhiều viện bảo tàng khi du lịch Tân Cương và rất thích thú khi ngắm nghía các xác ướp, những xác ướp được lưu giữ gần như toàn vẹn sau hơn ba nghìn năm, khuôn mặt xác ướp vẫn hiểu nét đặc điểm ngoại hình của người châu Âu, nổi tiếng nhất là xác ướp mỹ nữ Lâu Lan. Nhưng có lẽ vì nằm huyết mạch chính của con đường tơ lụa, là nơi tập trung và lai tạp giữa nhiều tộc người khác nhau, nên người Khâu Từ có khuôn mặt tròn hơn người châu Âu đại.

      Niềm hứng khởi lên cao lập tức bị kéo xuống. Những ghi chép về Tây vực thời kỳ nhà Tần rất ít ỏi, hầu như chỉ tồn tại trong “Tây vực truyện” thuộc sách “Hán thư”. Lịch sử Tây vực trong trí nhớ của người Hán được bắt đầu từ thời Hán Vũ Đế: Trương Khiêm đến Tây vực, kết thân với Ô Tôn (Wu Sun), dựng trại làm ruộng, gây chiến với Hung Nô suốt mấy trăm năm. Nhưng được đến thời kỳ nhà Tần cũng rất tuyệt. Tôi phải lên đường Trường An ngay mới được, để có thể tận mắt chứng kiến những biến động to lớn cuối đời Tần, để được diện kiến những nhân vật lừng danh trong lịch sử.

      Tôi lặp lặp lại nguyện vọng tha thiết đó với tiểu hòa thượng. Hòa thượng trầm tư lát rồi gật đầu và hứa sắp xếp. Nhưng cũng thêm, đường xa vạn dặm, phải năm mới đến nơi, hơn nữa là thời kỳ chiến tranh loạn lạc, muôn phần nguy hiểm.

      Trời, chiến tranh xảy ra rồi ư? Vậy tôi lại càng thể chần chừ. Tôi vui vẻ bảo rằng sao cả, hòa thượng băn khoăn nhìn tôi, đôi mắt màu xám nhạt lộ vẻ kinh ngạc. Tôi biết phải giải thích thế nào để hòa thượng hiểu vì sao như tôi lại hứng thú với chiến tranh đến vậy, nên chỉ cười trừ.

      Câu chuyện giữa chúng tôi kéo dài đến gần trưa. Trời mùa thu lúc chính Ngọ nắng rất gắt gao, tôi phải trùm kín đầu bằng chiếc khăn quàng vai. Tiểu hòa thượng kéo thấp chiếc áo choàng dài, để lộ bờ vai phải, dưới ánh nắng rực rỡ, nước da bánh mật phản chiếu sức sống, nét khỏe khoắn và vẻ tráng kiện của tuổi trẻ. Lối trang phục để vai trần bên phải này vốn là trang phục phổ biến của giới tăng ni ở Ấn Độ và Tây vực. Sau đó, Phật giáo được truyền bá vào Trung Nguyên, kiểu trang phục này dần được cải biên, có câu “nhập gia tùy tục” mà. Thời tiết Ấn Độ nóng bức, Tây vực nằm trong vùng sa mạc, hoang mạc mênh mông, chênh lệch nhiệt độ ngày đêm rất lớn, nên kiểu trang phục kín đáo vào buổi sáng và buổi tối, hở vai vào buổi trưa này rất phù hợp với điều kiện thời tiết nơi đây.

      Khuôn mặt hòa thượng bỗng nhiên ửng đỏ, ánh mắt rời khỏi tôi trôi về phía xa xăm. Lúc này mới chợt nhận ra tôi chăm chú ngắm nhìn hòa thượng rất lâu, xấu hổ hết chỗ ! Trang phục đặc biệt này tôi mới chỉ thấy qua các bức bích họa, được tận mắt chiêm ngưỡng người trong trang phục thế này, đôi mắt tôi như bị thôi miên, cứ dán chặt vào, quên cả phép lịch . thể lôi công tác nghiên cứu ra để biện bạch cho hành vi của mình, tôi chỉ còn cách duy nhất là cười khì khì giả ngây ngô.

      Chúng tôi dừng chân nghỉ ngơi tại rừng dương . Những người hầu cận nhanh chóng dựng lều và nhặt cành dương khô nhóm lửa nấu mì. Sau khi lót dạ bằng bát mì nóng và những chiếc bánh Tây vực, tôi bắt đầu thèm ngủ. Hai mẹ con hòa thượng dùng bữa xong liền vào trong lều tụng kinh, họ đặt gối cuốn kinh thư. Lòng hiếu kỳ kéo tôi lại gần họ, kết quả là tôi luôn luôn bị bất ngờ.

      Kinh thư được viết lụa, chữ viết rất lạ, hình như là những kí tự, bao gồm rất nhiều đường nét giống hình số 8 được viết thẳng và viết ngang. Tuy đọc hiểu, nhưng tôi hoàn toàn xa lạ với ngôn ngữ này, loại văn tự này có lẽ là văn tự Tochari thất truyền từ rất lâu. Đây là ngôn ngữ Ấn Âu nguyên thủy cổ xưa nhất được biết đến cho tới nay, ra đời dựa phát triển những kí tự của chữ viết Brahmi, Ấn Độ và cho đến nay vẫn chưa được giải mã triệt để.

      Tôi run rẩy bò đến gần và nhấc cuốn kinh thư phủ đầu gối tiểu hòa thượng, nghẹn ngào thốt lên:

      - Trời ơi, đây là văn tự Tochari, là văn tự Tochari đấy!

      Nếu có thể mang cuốn kinh thư này trở về, nó có giá trị nghiên cứu lớn lao biết chừng nào!

      Ni xinh đẹp hơi chau mày! Tiểu hòa thượng sau thoáng giật mình, ngạc nhiên nhìn tôi:

      - biết văn tự này? Đây là chữ Khâu Từ, phải Tochari [2] .

      A, đúng rồi, Tochari là cách đặt tên của người Đức, những người Khâu Từ này chắc chắn biết Tochari là tên gọi ngôn ngữ của họ. Nhưng con người ở thế kỉ XXI quen với tên gọi đó. Tôi cười ngượng ngùng nhưng mắt vẫn dán chặt vào những hình số 8 xiêu vẹo kia, tự nhận thấy nỗi hưng phấn được tận mắt chiêm ngưỡng những dòng văn tự Tochari sống động dâng cao bút nào tả xiết.

      Được nghe lại và thấy lại ngôn ngữ thất truyền đối với người nghiên cứu lịch sử như tôi, có ý nghĩa vô cùng lớn lao, thể đo đếm. Để có thể giải mã những văn tự chết, biết bao nhà nghiên cứu ngôn ngữ phải dành cả cuộc đời để tìm kiếm dấu tích những di chỉ, di cảo còn sót lại. Thế kỷ XVIII, Champollion lần đầu tiên giải mã được chữ tượng hình Ai Cập, vén được bức màn bí phủ mình lịch sử suốt mấy nghìn năm và ông được lưu danh thiên cổ. nay, các nhà khoa học vẫn chưa có cách nào giải mã hoàn toàn văn tự Tochari, nếu như tôi có thể đọc hiểu thứ ngôn ngữ này…

      Tôi nắm chặt tay áo thùng thình của tiểu hòa thượng:

      - Làm ơn, dạy tôi tiếng Tochari, à , tiếng Khâu Từ!

      Hòa thượng sững sờ chốc lát, rồi quay ra hỏi:

      - biết chữ Hán chứ?

      - Tất nhiên rồi.

      Đến phiên tôi ngạc nhiên.

      Hòa thượng quay sang chuyện trò hồi lâu với ni . Ni ngước nhìn tôi lát rồi mấy câu với con trai. Hai mẹ con họ trao đổi khá lâu khiến tôi khỏi hụt hẫng. lo sợ bị từ chối, tiểu hòa thượng quay lại nhìn tôi, đôi mắt màu nâu nhạt ánh lên nét tinh nghịch:

      - Tôi dạy , nhưng đổi lại phải dạy tôi tiếng Hán.

      Tôi thở phào, ra cậu ta muốn có có lại, tốt thôi!

      - Được chứ.

      Ngập ngừng giây lát, tôi bổ sung thêm:

      - Tuy tôi uyên thâm kinh thư Phật pháp, nhưng tôi có thể dạy cậu chữ Hán, giảng giải “Luận ngữ”, “Kinh thi”, “Tả truyện”, “Chiến quốc sách”.

      Tôi nghiên cứu lịch sử, phải Phật học. Tôi có tìm hiểu đôi chút về lịch sử Phật giáo, nhưng sâu vào những nội dung cụ thể của Phật giáo tam tạng như: kinh tạng, luật tạng, luận tạng tôi hoàn toàn biết gì. Tôi thực tiếc nuối, sớm biết vượt thời gian đến nơi đây, đồng hành cùng mấy vị hòa thượng ni thế này, tôi chăm chỉ nghiên cứu về Phật học rồi.

      - hiểu kinh Phật cũng sao, dạy tôi những kinh văn kia là đủ.

      Tiểu hòa thượng có vẻ rất vui mừng, vì tôi thấy nụ cười ấm áp lẩn khuất sau hàng lông mày dài tuyệt đẹp.

      Tôi bỗng nghĩ, kinh Phật lưu truyền ở Trung Nguyên đều được dịch từ tiếng Phạn và số ngôn ngữ thuộc Tây vực. Hòa thượng là người Khâu Từ, đâu cần phải học kinh Phật tiếng Hán, hòa thượng người Hán học kinh Phật từ tiểu hòa thượng này mới đúng chứ!

      Hôm đó, tôi còn phát thêm điều thú vị này nữa: sau bữa trưa, hai mẹ con hòa thượng ăn thêm bất cứ thứ gì. Người cổ đại chỉ ăn hai bữa ngày, giới tăng ni càng nghiêm khắc hơn.

      Hỏi tiểu hòa thượng được trả lời bằng tiếng Hán bập bõm rằng, giới luật quy định, hòa thượng có thể dùng bữa trong khoảng thời gian từ sáng đến trưa, nhưng bắt đầu từ buổi chiều cho đến buổi sáng ngày tiếp theo, hòa thượng được phép ăn uống bất cứ thứ gì.

      Giới luật này được đặt ra xuất phát từ câu chuyện: đệ tử của Phật Thích Ca khất thực vào buổi chiều muộn, lúc ấy trời nhá nhem tối, người phụ nữ mang thai lầm tưởng vị hòa thượng đó là ma, quá sợ hãi dẫn đến đẻ non. Từ đó, Phật Thích Ca đặt ra giới luật này. Nhưng những người ốm đau bệnh tật hoặc những người lao động vất vả, vẫn được phép ăn bữa tối, để duy trì sức khỏe.

      Tôi gật gật đầu. Vào thời đại của Phật Thích Ca, các hòa thượng dành phần lớn thời gian cho việc ngồi thiền, nên năng lượng tiêu hao nhiều, ăn bữa tối cũng sao. Nhưng khi Phật giáo được truyền vào đất Hán, các nhà sư Trung Nguyên vẫn ăn tối như người thường. Bởi vì, ở Trung Nguyên, nhà sư cũng phải làm ruộng, nên chủ động thay đổi giới luật. Điều đó chứng minh tính linh hoạt của tín ngưỡng Phật giáo. Có lẽ vì thế, trải qua mấy nghìn năm, Phật giáo vẫn phát triển mạnh mẽ.

      Quan sát cách họ ăn cơm và uống nước đều nhận thấy nhiều điều thú vị. Đám thị nữ dùng vật dụng gần giống với túi lưới, lọc nước rồi mới mang đến cho hai mẹ con hòa thượng uống [3] . Lúc đầu tôi cứ đinh ninh, hẳn là họ e ngại nước sa mạc chứa nhiều tạp chất, nặng mùi phèn nên lọc qua lần rồi mới uống. Nhưng đến khi thấy nước dành cho mình cần lọc, liền cảm thấy kì lạ.

      Tiểu hòa thượng lại ra sức giải thích cho tôi hiểu: các nhà sư trước khi uống phải lọc nước để tránh nuốt vào bụng những sinh vật có trong nước, nếu , vô tình mắc tội sát sinh. Bởi vậy, giới luật của nhà Phật quy định, nhà sư phải luôn mang theo bên mình túi lọc nước, nếu , họ được phép rời khỏi nơi ở quá hai mươi dặm.

      Lời giải thích của tiểu hòa thượng khiến tôi lập tức nhớ tới câu chuyện Trần Huyền Trang khi xưa mình giữa sa mạc mênh mông bóng người, mặc dù sắp lả vì khát, nhà sư vẫn đổ hết nước trong túi da của mình . Vì Huyền Trang kiên trì tuân thủ giới luật, uống nước khi chưa được lọc sạch.

      Buổi tối, tôi ngồi bên đống lửa ngoài lán trại, chăm chú ghi chép lại tất cả những điều mắt thấy tai nghe mấy ngày qua. cao, ngàn vạn ngôi sao lấp lánh giữa nền trời xanh thẫm.

      Còn nhớ những ngày tháng du lịch Tân Cương ở thế kỷ XXI, tôi cũng từng ngước lên bầu trời trong vắt giữa đêm khuya thanh vắng và tự hỏi, phải chăng người xưa cũng từng ngắm nhìn bầu trời đêm này như tôi? Và, bầu trời sao tôi nhìn thấy đêm nay, phải chăng cũng là bầu trời sao thuần khiết mà nghìn năm sau tôi lại được nhìn ngắm? Tôi cứ đắm chìm trong mối suy từ này sao dứt ra khỏi. Tôi của hôm nay và tôi của nghìn năm về sau cùng hướng lên bầu trời thăm thẳm kia ư? Vậy rốt cuộc, tôi xuất và tồn tại như thế nào?

      Chú thích:

      [1] Trong tiếng Trung, phiên của tên gọi Ngải Tình đồng với cách đọc từ “ái tình” nghĩa là tình .
      [2] Cách gọi Tochari do hai học giả người Đức Sieg và Siegling nghiên cứu và đặt tên vào năm 1908, họ chia thành Tochari A và Tochari B. Các nhà nghiên cứu Trung Quốc thường dùng tên gọi Tochari A để chỉ tiếng Yanqi, còn dùng Tochari B để gọi cho ngôn ngữ của người Khâu Từ.

      [3] Đối với các nhà sư, nước được chia thành ba loại: loại là “thời thủy”: tức là nước uống ngay khi khát, nước này phải được lọc sạch (túi lọc nước là trong sáu vật dụng mà các nhà sư luôn mang theo bên mình). loại nước nữa gọi là “phi thời thủy”, uống ngay, nhưng vẫn phải lọc sạch, dồn vào đồ chứa, dự trữ khi khát. Loại nước thứ ba gọi là “xúc dụng thủy”, tức là loại nước sạch tự nhiên, dùng để rửa bát, rửa tay và rửa mặt.

    2. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
                  Chương 4: Thiên tài ngôn ngữ


      Ngày thứ ba, chúng tôi dựng trại ven dòng sông mùa nước cạn. Mẹ con tiểu hòa thượng bắt đầu tụng kinh, họ ăn tối, tôi dùng bữa cùng với những người khác, vẫn là bánh Tây vực và mì nóng. Tôi ở chung với những thị nữ khác, hòa thượng “quyền quý” được dành riêng lán trại với chế độ chăm sóc đặc biệt. Vì vậy, lớp học, tất nhiên là được sắp xếp ở chỗ của hòa thượng.

      Vừa bước vào trong lán, tôi bỗng sững lại, Jiba cạo đầu cho con trai, những sợi tóc màu hung rơi lả tả tấm vải trắng quấn quanh cổ hòa thượng. Hòa thượng mỉm cười với tôi và ra hiệu cho tôi ngồi chờ lát.

      Tôi bắt đầu quan sát Kumalajiba trong thời gian chờ đợi. Vầng trán của cậu bị nén dẹt như người mẹ. Và mừng là các nhà sư sống trong thời đại và khu vực này có tục lệ đốt hương đỉnh đầu, bằng , bên cạnh đau đớn về thể xác, những vết sẹo đó phá hoại dung mạo gần như hoàn mỹ của tiểu hòa thượng.

      Nghĩ đến những vết sẹo đốt hương, bất giác tôi mỉm cười, đây vốn là “đặc sản” của văn hóa Phật giáo Trung Nguyên.

      Thực ra lúc đầu, cũng giống như ở các quốc gia khác, hòa thượng Trung Quốc đốt hương đỉnh đầu. Được biết tục lệ này vốn do Lương Vũ Đế – vị vua cuồng tín đạo Phật thời Nam Bắc triều khởi xướng. Vua Lương từng ba lần quyết tâm xuất gia, nhưng cả ba lần đều “bị” các đại thần “chuộc” về bằng rất nhiều ngân lượng.

      Vì muốn nhanh chóng mở rộng diện ảnh hưởng của đạo Phật và tăng số lượng tăng ni Phật tử, nhà vua hạ chỉ miễn tội cho tất cả các tử tù, buộc họ xuất gia làm hòa thượng. Nhưng vì lo ngại đám tử tù bỏ trốn, tiếp tục phạm tội, ngài lệnh “kiểm hình” (khắc chữ mặt) Lương Vũ Đế còn ban chỉ dụ đốt hương đỉnh đầu các tử tù để dễ dàng nhận dạng trong quá trình truy bắt.

      Cá nhân tôi cho rằng, tục lệ đốt hương đầu hòa thượng ở Trung Quốc xuất phát từ mục đích của nhà cầm quyền. Các nhà sư tham gia sản xuất, nộp thuế, sinh con cái, nếu số lượng tăng ni quá nhiều ảnh hưởng xấu đến năng lực sản xuất. Thêm vào đó, giới luật “ sinh con” của Phật giáo mâu thuẫn sâu sắc với luân thường đạo lý thời xưa “trong ba tội bất hiếu, có con nối dõi là tội nặng nhất”. Những thảm kịch “hủy diệt đạo Phật” diễn ra trong lịch sử đều có nguyên nhân sâu xa từ cầu duy trì phát triển kinh tế và bảo vệ những luân lí đạo đức vốn có từ lâu đời. Tuy nhiên, tồn tại của tôn giáo là thể thiếu, tôn giáo giúp giai cấp thống trị giữ cho xã hội được ổn định. Vì vậy, các nhà sư buộc phải có thẻ chứng nhận và nhà nước khống chế chặt chẽ số lượng tăng ni. Dấu hiệu nhận biết bên ngoài của nhà sư chính là vết chấm cháy đỉnh đầu. Những kẻ cạo trọc đầu giả mạo nhà sư dễ dàng bị phát . Rất mừng là sau giải phóng, tập tục này được xóa bỏ, nhưng tôi nghe , số chùa vẫn duy trì nghi lễ đốt hương này…

      - Ngải Tình!

      Tôi giật mình ngẩng lên, tiểu hòa thượng mặt mày hớn hở. Vừa cạo đầu xong, trông cậu ta có vẻ sảng khoái và phấn chấn. Tôi ngó nghiêng, Jiba ra ngoài lúc nào mà tôi hay. Vội theo sau tiểu hòa thượng đến bên chiếc bàn dài, tôi bắt đầu buổi học đầu tiên của mình.

      Tiểu hòa thượng dạy tôi tiếng Tochari trước. Mặc dù hết sức tận tâm và kiên trì, nhưng vì trình độ tiếng Hán có hạn, chữ Tochari lại khó nhớ, tôi cảm thấy khổ sở hơn cả ngày xưa học tiếng Đức, tôi gắng sức tập trung, mồ hôi lăn đầy trán. tiếng sau tôi mệt đến mức phủ phục xuống bàn học và cầu được nghỉ giải lao. Giờ học tiếng Tochari của tôi kết thúc trong rã rời như vậy.

      Nghỉ ngơi lúc đến lượt tôi dạy tiểu hòa thượng tiếng Hán. Tôi từng tham gia giảng dạy xóa mù chữ mỗi dịp nghỉ hè, nên tôi rất tự tin với những giờ dạy tiếng Hán sơ cấp. Tiếng Hán nhập môn quá khó vì đều bắt đầu với việc nhìn tranh học chữ. Vấn đề ở chỗ, thời cổ đại chưa có khái niệm phiên , nên rất khó ghi nhớ cách phát .

      Phương pháp chú thời cổ đại gọi là “phiên thiết”, tức là dùng của hai chữ khác (được coi là biết cách đọc) ghép lại để chú cho chữ Hán mà người đọc chưa biết cách đọc. Thông thường ghép thanh mẫu (phụ đầu) của chữ phía trước với vận mẫu (vần) và thanh điệu (dấu) của chữ phía sau. Ví dụ chữ “tú” có thể đọc thành “tê u sắc”. Phương pháp phiên thiết sử dụng bảng chữ cái riêng gọi là “quảng vận”. Nhưng tôi đâu phải cổ nhân, tôi đọc được những chữ cái phiên thiết đó, tôi cũng dám áp dụng phương pháp phiên , vốn là phát minh của hai nghìn năm sau, nên tôi đành đọc mẫu rồi cầu hòa thượng mô phỏng theo và học thuộc lòng.

      Tôi lôi tập giấy nháp và bút chì ra, vừa vẽ tranh vừa giảng giải. Hòa thượng tỏ ra rất hiếu kỳ với những đồ dùng học tập mới lạ của tôi và ngừng đặt câu hỏi: loại giấy trắng tinh và chiếc bút chì ngòi cứng này làm thế nào mà có? Tôi đành phải dối rằng có người kỳ lạ tặng cho tôi, rằng đời này chỉ mình tôi có chúng và tôi cũng biết chúng được tạo ra bằng cách nào. Sau đó, tôi làm bộ nghiêm khắc, cầu hòa thượng chuyên tâm nghe giảng, được hỏi gì thêm.

      “Nhật nguyệt thủy hỏa thổ, kim mộc nhĩ khẩu thủ”. Để chuẩn bị cho chuyến vượt thời gian này, tôi dành ra năm chuyên tâm luyện tập chữ phồn thể, nhưng cứ nghĩ đến thời nhà Tần sử dụng chữ tiểu triện là tôi lại toát mồ hôi. Tôi chỉ có thể đọc hiểu mà thể viết được loại chữ này, mong là tôi làm cho lịch sử bị sai khác . Cũng may tiểu hòa thượng sinh sống ở Tây vực xa xôi, cậu ta khó mà đến được Trung Nguyên.

      Tiểu hòa thượng từng học tiếng Hán nên vẫn nhớ khá nhiều chữ. Cậu ta rất chăm chỉ, hai mắt dính chặt vào tập giấy tốc ký của tôi và gật gù liên tiếp. Mùi thơm dìu dịu của gỗ đàn hương người tiểu hòa thượng tỏa lan trong gian. Buổi lên lớp đầu tiên của tôi kết thúc tốt đẹp trong hương thơm dễ chịu ấy.

      Ngày hôm sau, chúng tôi tiếp tục lên đường. Giao tiếp giữa tôi và Kumalajiba trở nên suôn sẻ hơn. Cậu ta bắt chước rất nhanh, chỉ cần tôi cắt nghĩa lần, cậu ta hỏi lại nếu trong bài giảng lần sau của tôi xuất những từ học. Ngoài ra, cậu ta còn biết cách sắp xếp lại theo đúng trật tự cú pháp: chủ ngữ, vị ngữ, tân ngữ dựa quy tắc của ngữ pháp tiếng Hán.

      Vào thời đại này, nếu giao tiếp với người Hán, hẳn tôi phải dùng lối văn ngôn cổ xưa. Nhưng với tiểu hòa thượng Tây vực, tôi vẫn áp dụng phương thức giao tiếp phổ thông của thế kỷ XXI. Bởi vì hòa thượng là người nước ngoài, nên tôi lo cậu ta phát ra tôi trò chuyện đúng quy chuẩn của thời đại. Kumalajiba thích tìm hiểu về lịch sử, địa lý, phong tục tập quán của cư dân vùng Trung Nguyên. Tôi giảng giải cho cậu ta dựa những kiến thức đọc được trong sách lịch sử. Càng ngày tôi càng cảm thấy tiểu hòa thượng những tư chất thông minh, trí nhớ siêu phàm mà cậu ta còn có khả năng ngôn ngữ thiên bẩm đáng ngưỡng mộ!

      Tôi hỏi Kumalajiba vì sao lại dẫn theo quân lính, thực ra mục đích chính của tôi là tìm hiểu thân thế của tiểu hòa thượng. Cậu ta trả lời rằng họ chu du nhiều nước trong suốt bốn năm qua, mà khoảng cách giữa các quốc gia là những sa mạc mênh mông, bóng dáng sống, thêm nữa, những nơi họ qua đều thuộc khu vực cai quản, thường xuyên bị cướp bóc. Họ thể dẫn theo lính tráng để bảo vệ lượng lớn sách kinh Phật và xá lợi quý báu đường .

      Huyền Trang khi xưa đường tây du cũng từng nhiều lần bị cướp bóc. Tôi gật đầu đồng tình và xác nhận tầm quan trọng của đội ngũ vũ trang. Nhưng tôi vẫn chưa tìm hiểu được thân thế của hòa thượng, chỉ biết rằng, bốn năm trước họ dẫn theo đội quân tinh nhuệ này rời khỏi Kucha. Nhưng chắc hẳn hai mẹ con họ có quan hệ với hoàng thất, vì chỉ có hoàng thân quốc thích mới được quân đội của nhà vua theo bảo vệ như vậy.

      Jiba lặng lẽ theo sau lắng nghe câu chuyện của chúng tôi, khuôn mặt lúc nào cũng an nhiên, bình thản, thi thoảng bà quay sang trao đổi đôi câu với con trai. Tuy hiểu bà gì, nhưng giọng dịu dàng ôn hòa của bà khiến tôi chắc chắn rằng bà có ý trách móc gì tôi. Lúc nào bà cũng nhã nhặn lịch thiệp. Tôi biết bà rất con, nhưng bà hề có những cử chỉ thân mật mà người mẹ thường dành cho con mình, có lẽ vì họ là người xuất gia.

      Nhưng đến thời gian tụng kinh bà lại hết sức nghiêm khắc, vẻ trang trọng và thành kính nét mặt, ánh mắt cúi xuống nghiêm cẩn, cùng con trai lầm rầm tụng niệm. Những lúc thế này, hai người họ như bỏ lại bên ngoài mọi thứ thuộc về thế giới trần ai, lòng hướng Phật, tiếng kinh kệ vang xa như gõ động tâm linh. Lần đầu tiên tôi cảm nhận được sức lay động lớn lao của tôn giáo. Đứng bên ngoài lán trại lắng nghe mà tôi như mê !

      Buổi tối tiếp tục lên lớp. Vắt óc mãi mà nhớ được tiếng nào, tôi đành ngoan ngoãn chìa tay ra trước mặt tiểu hòa thượng.

      - Gì vậy?

      Tiểu hòa thượng theo tôi học tiếng Hán đại, nên ngôn từ lấy gì làm văn vẻ.

      - Đánh vào lòng bàn tay tôi .

      Tôi cười vui vẻ.

      - Giáo viên người Hán của chúng tôi đều làm như vậy mỗi khi học sinh mắc lỗi. Cậu thấy , tôi rất có tinh thần tự giác nhé, tôi chủ động nhận lỗi.

      - mắc lỗi gì?

      Đôi mắt màu nâu nhạt sáng lấp lánh như muốn soi tỏ tâm hồn người đối diện.

      - Tôi quên hết những chữ cái Tochari, à quên, chữ cái Khâu Từ mà hôm qua cậu dạy rồi.

      Tôi làm bộ đau khổ rồi bật cười, sao tôi cứ quen gọi là tiếng Tochari nhỉ?

      Tiểu hòa thượng cũng phì cười, nụ cười lấp lánh như sao sáng.

      - Tại tôi biết cách truyền đạt, sao trách được!

      Hòa thượng chìa tay trái về phía tôi, tay phải cầm tay tôi đập đập vào lòng bàn tay mình. Tuy mạnh, nhưng những va chạm khẽ khàng thế này cũng khiến tôi có chút tê dại.

      - Nên phạt tôi mới phải, nếu ngày mai vẫn thuộc bài, tôi chịu đòn.

      Tôi rút vội tay về, thoáng chút cảm động. Tôi nghiêng đầu, cố gắng tập trung vào những chữ cái trước mặt.

      Hôm nay tôi tiếp thu nhanh hơn hôm qua, tiếng Hán của Kumalajiba khá lên rất nhiều. Tôi học xong toàn bộ bảng chữ cái Tochari. Tôi cẩn thận ghi lại cách phát bằng kí hiệu phiên bên cạnh mỗi chữ cái cho dễ nhớ. Nhìn thấy những kí hiệu đó, tiểu hòa thượng tỏ ra rất thích thú, thế là tôi lại phải giảng giải về quy tắc ghi phiên cho cậu ta nghe. Kumalajiba hết lời khen ngợi phương pháp độc đáo ấy. Nhưng tôi buộc phải cầu cậu được tiết lộ cho người khác biết, vì nếu lịch sử rất có thể thay đổi.

      - Nhưng vì sao? là người nghĩ ra à?

      Tôi thừa nhận cũng thể phủ nhận, chỉ trả lời cách mơ hồ:

      - Người Hán thích phụ nữ tài giỏi, vì vậy nếu cậu cho người khác biết chính tôi nghĩ ra phương pháp ghi phiên này, tôi bị xem là quái và bị hỏa thiêu.

      thể bật ra câu chuyện về nữ thần kiểu này.

      - Người Hán nên như vậy.

      Trầm tư lát, tiểu hòa thượng nhìn tôi nghiêm nghị.

      - Phàm là con người đều như nhau, phụ nữ cũng có thể thông minh như đàn ông vậy.

      Sau đó, tiểu hòa thượng giảng giải thôi hồi bằng tiếng Tochari, có lẽ vì lượng từ vựng tiếng Hán chưa đủ để cậu có thể diễn đạt những suy nghĩ của mình.

      Tôi bật cười. Tinh thần khẳng khái của chàng trai trẻ khiến tôi có cảm giác ấm áp. Nhưng, tôi phải tìm cách chuyển chủ đề thôi, cứ tiếp tục thế này, biết tôi phải dối đến bao giờ.

      - Cậu hiểu được như vậy là tốt rồi. Bây giờ, đến lượt tôi dạy cậu. Khổng Tử – nhà giáo dục lớn ở Trung Nguyên thời cổ đại từng : Ôn cố nhi tri tân, nghĩa là, luyện tập lại những gì học, từ đó phát ra những điều mới mẻ. Vậy nên, bây giờ tôi kiểm tra những chữ Hán mà hôm qua cậu học.

      Tôi đặt tập giấy nháp và bút chì trước mặt tiểu hòa thượng.

      - Cậu viết ! Sai chữ phạt roi!

      Tiểu hòa thượng nhìn tôi mỉm cười, đón lấy tập giấy nháp và chiếc bút chì. Tay cầm bút có chút gượng gạo nhưng vẫn rất ra dáng học trò. Từng nét chữ vuông vắn ra dưới ngòi bút, ngờ, cậu ta nhớ được tất cả những chữ Hán của buổi học hôm qua!

      Mất vài phút ngẩn ngơ, miệng há hốc vì ngạc nhiên, tôi mới lấy lại được bộ dạng của giáo viên, được rồi, để xem, cậu có thoát được tiết mục phạt đòn của tôi .

      - Đọc cho tôi nghe cách phát của từng chữ.

      Lại nhìn tôi mỉm cười. Hai ba chục chữ tượng hình, cậu ta lần lượt đọc sót chữ nào, cằm tôi như sắp tuột xuống. Tuy vẫn pha chút khẩu , nhưng về cơ bản sai chữ. Hôm qua, tôi hề dạy cậu ta cách ghi phiên kia mà! biết chỉ số IQ của “tên” này là bao nhiêu nữa?

      “I phục You quá ”! Nỗi kinh ngạc của tôi chỉ có thể được diễn tả bằng câu ấy. Tất nhiên, tôi chỉ nghĩ thầm trong bụng.

      Tôi tiếp tục giờ học, sau khi dạy hết các chữ tượng hình, tôi chuyển sang chữ chuyển chú (là phương pháp dùng hai chữ Hán giải thích cho nhau với điều kiện: chúng phải cùng chung bộ thủ và ý nghĩa tương đồng), rồi đến các từ đơn giản. Tôi rầu rĩ nghĩ rằng, cũng là học ngoại ngữ, mà sao trình độ cách xa trời vực như vậy! Nếu cứ tiếp tục thế này, có khi tiểu hòa thượng viết được luận bằng tiếng Hán tôi vẫn còn ở giai đoạn học thuộc từ vựng Tochari cũng nên. Càng hổ thẹn hơn nữa, Kumalajiba vận dụng thành thạo nguyên tắc ghi phiên để chú cho các chữ Hán tôi vừa dạy, tuy chính xác tuyệt đối, nhưng mười phần cũng được tám, chín phần.

      Có lẽ, bao lâu nữa tôi bị cho nghỉ hưu non thôi!


                   Chương 5: Lý tưởng và đường song song


      Lục lạc lanh canh, đoàn người chậm rãi rong ruổi sa mạc ngút ngàn cát trắng. Vậy là tám ngày trôi qua. Tôi quấn chặt khăn trùm đầu, quay lại phía sau, đưa bốn ngón tay lên xếp hình ống kính máy ảnh, di chuyển qua các góc độ để lấy nét. Trong khung cảnh tưởng tượng của tôi ra cảnh tượng tuyệt đẹp: nắng vàng rực rỡ chiếu rọi lên hàng dài nối tiếp nhau đến vô tận những dấu chân lạc đà in biển cát sáng lấp lóa. trận gió quét qua, hệt như biển khơi dội trào từng đợt sóng , làm cho những dấu chân trở nên mờ ảo trong gió cát.

      - Tách!

      Tôi muốn định hình và lưu lại trong trái tim khung cảnh này mãi mãi.

      - làm gì vậy?

      - có gì.

      Tôi thu tay lại, thể với tiểu hòa thượng rằng tôi nuối tiếc như thế nào khi mang theo máy ảnh, nên chỉ thở dài than vãn:

      - Những viết chân cát nhanh chóng biến mất, hệt như cuộc đời ngắn ngủi của con người vậy.

      Tôi ghìm dây cương và nhảy xuống. Quay trái ba vòng phải ba vòng, ngoáy đầu, lắc hông, phải vận động chút mới được, nếu gân cốt tôi tê dại mất. Ngước lên thấy Kumalajiba lưng lạc đà chăm chú nhìn mình, tôi cười:

      - Nhưng dù vậy tôi vẫn kiên trì bước từng bước vững chắc và lạc quan đến đích cuối cùng.

      Tôi nắm dây cương, dắt lạc đà và rảo bước cát, tôi muốn lưu lại dấu ấn của tôi sa mạc nghìn năm về trước này. Kumalajiba nở nụ cười tươi tắn, cũng nhảy xuống và học theo tôi. Lát sau, hai chú lạc đà được những người hầu cận dắt .

      Được đoạn, chúng tôi ngoảnh lại nhìn, đôi hàng dấu chân in cát, kéo dài thành hai đường thẳng song song. Tôi nảy ra ý tưởng, liền đề nghị tiểu hòa thượng:

      - Cậu hãy lên phía trước.

      Tiểu hòa thượng hơi băn khoăn, nhưng vẫn ngoan ngoãn tiến lên trước. Tôi theo sau, đặt chân mình lên những dấu chân của Kumalajiba. Cậu ta được đoạn chợt dừng bước, quay người lại. May sao tôi kịp đứng lại và bước sang bên, nếu chắc đâm sầm vào cậu ta mất.

      - Lẽ ra chúng ta là hai đường thẳng song song, dù bao xa cũng bao giờ gặp nhau, nhưng vì cơ duyên, hai đường song song hợp lại thành .

      Tám ngày trước tôi nơi cách nơi này hàng nghìn năm thời gian.

      - Bởi vậy, duyên số kỳ lạ!

      - Tôi nghĩ, tôi được gặp , đó là ý của Phật tổ.

      Tôi quay lại và bắt gặp ánh mắt tiểu hòa thượng, đôi mắt trong veo như làn suối, đó là đôi mắt thuần khiết nhất mà tôi từng gặp trong suốt hai mươi ba năm qua. Vừa định đáp lời, tôi bỗng thấy bóng người từ phía xa tới. Lúc người đó lại gần, tôi nhận ra đó là hòa thượng khất thực, dáng vẻ khổ hạnh, khuôn mặt dính đầy bụi cát, dắt bên mình con ngựa gầy gò như chủ nhân của nó. Kumalajiba vội vàng bước đến, ni xinh đẹp cũng nhảy xuống, ra lệnh cho đoàn người dừng lại. Hai mẹ con chắp tay cung kính chào đón lão hòa thượng.

      Họ mang nước và thức ăn đến cho hòa thượng khất thực, vị hòa thượng nhận lấy và đặt vào chiếc túi tả tơi khoác lưng, sau đó ba người bắt đầu cuộc chuyện. Lão hòa thượng quan sát Kumalajiba hồi lâu, với cậu đôi câu, sắc mặt trầm buồn. Rồi quay sang trao đổi với Jiba, hai người vừa chuyện vừa ngắm nhìn Kumalajiba, vẻ mặt của tiểu hòa thượng bỗng trở nên âu sầu.

      lát, hòa thượng lời từ biệt, về hướng ngược lại với chúng tôi. Kể từ lúc đó, mẹ con ni có vẻ rầu rĩ hơn trước.

      Chúng tôi leo lên lưng lạc đà tiếp. Tôi lặng lẽ thúc lạc đà đến bên Kumalajiba hỏi chuyện:

      - Này tiểu hòa thượng, lão hòa thượng ấy gì với cậu thế?

      Kumalajiba suy nghĩ lát rồi đáp:

      - Thầy , mẹ phải ở bên cạnh và bảo vệ tôi. Ngày sau tôi thành công trong việc chấn hưng và phát triển Phật pháp, siêu độ vô số chúng sinh, công đức lớn lao kém Upagupta.

      - Upagupta là ai?

      - Là vị cao tăng nổi tiếng, thủy tổ của phái Thiền Tông Ấn Độ.

      - Đại sư đáng nể, ngài ấy thấy được cả tương lai sáng lạn của cậu. Tôi cũng tin như vậy, chắc chắn cậu trở thành vị cao tăng được nhiều người sùng kính.

      Niềm tin đó là , với trí tuệ siêu phàm như nay, Kumalajiba chắc chắn nổi danh trong thiên hạ. Có điều với lượng kiến thức ít ỏi về Tây vực, tôi đoán ra được cậu là nhân vật nổi tiếng nào. Nghe tôi tán dương mà Kumalajiba hề tỏ ra vui sướng chút nào.

      Tôi có cảm giác, lão hòa thượng kia chỉ với cậu bấy nhiêu.

      - Sao thế, sao cậu gì?

      Tiểu hòa thượng dõi mắt về phía hàng dương xa xa, vẻ mặt uể oải in đậm sắc mặt.

      - Đại sư còn , nếu tuân thủ giới luật cách nghiêm khắc, rồi đây tôi chỉ là pháp sư thông minh sáng láng hơn kém.

      - tuân thủ giới luật? Làm gì có chuyện đó!

      Ngón tay tiểu hòa thượng nắm chặt dây cương đến tím tái, đầu cúi thấp, thanh bẫng:

      - Đại sư , nếu trước năm ba mươi lăm tuổi…

      Tiểu hòa thượng ngập ngừng, hai má bỗng chốc ửng đỏ, ánh mắt chấp chới nỗi sợ hãi mơ hồ. Nhưng chỉ thoáng qua , vẻ bình thản trở lại khuôn mặt.

      - Trước năm ba mươi lăm tuổi làm sao?

      Biểu cảm của Kumalajiba cho tôi biết có điều gì đó rất nghiêm trọng.

      Tiểu hòa thượng trầm ngâm hồi lâu, thả lỏng dây cương, từ tốn đáp:

      - Tôi biết diễn đạt như thế nào bằng tiếng Hán.

      Câu trả lời chỉ khiến tôi càng thêm tò mò.

      Tiểu hòa thượng đột ngột vung dây cương, thúc lạc đà chạy lên phía trước, giữ khoảng cách với tôi. Thân hình mảnh khảnh, lớp áo choàng bay bay trong gió, ánh nắng chếch nghiêng, cắt xuống nền cát bóng hình sẩm đỏ, liêu. Tôi băn khoăn biết có phải mình làm gì sai hay ?

      Cách đó xa là khu rừng . Người mặc chiếc áo nâu sòng của giới tu hành dừng lại, ngoảnh đầu ngóng đợi, chờ tôi bắt kịp, rồi cùng tôi thong dong tiến về phía trước.

      Thoáng chút áy náy nét mặt, hòa thượng hắng giọng, quay sang hỏi tôi:

      - Ngải Tình, vì sao gọi Bhikkhu [4]  là lão hòa thượng còn gọi tôi là tiểu hòa thượng?

      Tôi biết cậu ta muốn chuyển đề tài. bởi vì tôi hiểu tiếng Phạn chứ sao. Bhikkhu nghĩa là gì? Mà tên cậu ta cũng rất khó nhớ, gọi là tiểu hòa thượng có sao đâu.

      Tôi hỏi ngược lại Kumalajiba:

      - Trong tiếng Phạn có tôn xưng dành riêng để gọi nhà sư , có từ nào phát giống “hòa thượng” ?

      Cậu ta lắc đầu:

      - Trong tiếng Phạn hình như có, nhưng ở Điền Quốc, người ta gọi các đại sư truyền giới là Khosha, tên gọi này nghe có vẻ giống từ “hòa thượng”.

      Thú vị quá, ra từ “hòa thượng” được dịch từ ngôn ngữ của Điền Quốc.

      - Nhưng hòa thượng là các đại sư truyền giới có mười năm thọ đại giới, thông tỏ đại luật đủ tư cách để xuống tóc và thọ giới cho người khác. Tôi nào đến được cảnh giới đó, xứng với tôn xưng hòa thượng. Vả lại, tôi cũng chưa thọ đại giới, cứ gọi tôi là Sramanera .

      Lại là tiếng Phạn. Thấy tôi ngơ ngác, cậu ta vội giải thích: Sramanera chỉ những người mới xuất gia tuổi từ bảy đến hai mươi, thọ thập giới, nhưng chưa thọ đại giới. Sau khi thọ đại giới, họ được gọi là Bhikkhu, nghĩa là khất sĩ, khất sĩ là những người cầu Phật pháp nơi Phật tổ và khất thực chốn nhân gian.

      Tôi hiểu rồi, chả trách những đọc này rất quen tai. Sramanera là Sa di, Bhikkhu là Tỷ khâu, cả hai đều là dịch. ra nhà sư cũng được phân chia giới bậc khi gọi tên. Nhưng ở Trung Quốc, người ta gọi sư cụ là lão hòa thượng, gọi chú tiểu là tiểu hòa thượng, thậm chí những em bé còi cọc chịu lớn người ta cũng gọi là hòa thượng. Chẳng ngờ, từ “hòa thượng” lại có ý nghĩa tôn quý như vậy.

      Tôi cười thích thú, chàng trai thiên tài, tính tình trầm lặng này trau dồi cho tôi ít kiến thức về Phật giáo. Vì vậy, dù hơn cậu ta khá nhiều tuổi, nhưng trưởng thành của cậu ta khiến tôi có cảm giác chúng tôi là những người đồng niên. Và cũng nhờ cậu, hành trình gian nan của tôi ngày càng có thêm nhiều niềm vui.

      Như thường lệ, sau khi kết thúc giờ học buổi tối, tôi ngồi ghi chép bên đống lửa. Mặc dù đèn dầu trong lều trại cũng đủ sáng, nhưng tôi thích gian khoáng đạt bên ngoài hơn. Ngắm nhìn bầu trời đầy sao giữa sa mạc hoang vu luôn khiến tôi được đắm chìm trong những cảm xúc mơ hồ trong gian thuộc về quá khứ miên viễn này. Gió đêm nay như đổi tính, êm ái ru qua, chòng ghẹo những đốm lửa hồng bập bùng, tí tách. Nhắm mắt lại, hít hơi sâu, tâm hồn trở nên thanh tịnh và lắng đọng tựa khung cảnh này.

      - Tối nào cũng thấy ghi chép, ghi gì vậy?

      Tiếng Hán của Kumalajiba vẫn hơi gượng gạo. Nhưng trong tám ngày qua, vốn từ vựng của cậu phong phú hơn rất nhiều.

      - Có gì đâu, tôi viết thư.

      Định che , nhưng tôi nghĩ cậu ta đọc được cũng hiểu, nên cứ để mở cuốn sổ tay.

      - Tôi đọc mà hiểu.

      Lòng hiếu kỳ của tuổi trẻ mãnh liệt. Tiểu hòa thượng nở nụ cười háo hức:

      - Vốn tiếng Hán của tôi chưa nhiều, nhưng tôi chăm chỉ, để có thể đọc được những gì viết.

      Chưa chắc đâu. Tôi viết bằng chữ giản thể kia mà! Tôi chỉ tay sang bên cạnh:

      - Có muốn ngồi xuống ?

      Tiểu hòa thượng do dự lát rồi ngồi xuống, nhưng cố ý giữ khoảng cách với tôi, đôi tay khẳng khiu đưa về phía trước sưởi ấm.

      - Vì sao cậu muốn học tiếng Hán?

      - Người Hán có rất nhiều điểm ưu việt, y dược, nhạc luật, lịch pháp, kỹ nghệ đều vượt xa người Khâu Từ. Trong nhà tôi có rất nhiều kinh văn tiếng Hán, tôi muốn nghiên cứu những thư tịch đó.

      Cậu ta lúc nào cũng ham học hỏi. Ngập ngừng giây lát, tôi quyết định hỏi:

      - Cậu còn trẻ như vậy, vì sao lại xuất gia?

      Tôi biết câu hỏi có chút mạo phạm, nhưng cậu ta chẳng hề tỏ ra phật ý, ánh mắt đăm chiêu rời ngọn lửa:

      - Tôi tu năm bảy tuổi, nay được sáu năm và tôi chưa từng suy nghĩ về vấn đề này cho tới mấy ngày gần đây…

      - Khoan !

      Ra hiệu cho cậu ta ngừng lại, rồi ra vẻ nghiêm trọng, tôi hỏi:

      - Năm nay cậu bao nhiêu tuổi?

      - Mười ba.

      Vậy mà tôi cứ đinh ninh cậu ta ít nhất cũng mười lăm, mười sáu tuổi. Dáng người cao lớn, khuôn mặt lại luôn giữ vẻ đĩnh đạc, trầm tĩnh của lứa tuổi trưởng thành. Trời ơi, vậy là cậu ta bắt đầu học tiếng Hán từ năm tám tuổi chứ phải mười . Sau năm năm, vẫn có thể giao tiếp, rốt cuộc, cậu ta có bao nhiêu tế bào não kia chứ!

      - Ngải Tình, vì tôi cao lớn nên rất nhiều người tưởng tôi mười sáu tuổi.

      Cậu ta cười thẹn thùng.

      - đừng chê tôi ít tuổi, tôi hứa nỗ lực học giỏi tiếng Hán!

      - Sao tôi lại chê cậu, cậu là ân nhân cứu mạng của tôi mà.

      Tôi giả bộ hề gì, nhưng trong lòng hơi buồn bực. Lẽ nào tôi hơn cậu ta những mười tuổi? đúng đúng, dù sao, cậu ta cũng nhiều hơn tôi hai nghìn tuổi. Đâu là tuổi tác tương đối và đâu là tuổi tác tuyệt đối của hai chúng tôi? Càng nghĩ càng mơ hồ, tôi nghĩ nữa. Tôi chuyển chủ đề:

      - Cậu nghĩ ra chưa, vì sao lại xuất gia?

      Cậu ta mở miệng định rồi lại lắc đầu. Đôi mắt vẫn đăm chiêu ủ dột:

      - Tôi vẫn chưa thể diễn đạt trọn vẹn bằng tiếng Hán. Khi nào trình độ Hán ngữ của tôi đủ để thấu suốt đạo lý này, tôi cho hay.

      Có thể cậu ta phải chịu đựng điều gì đó. Tôi dám bàn luận về Phật pháp, nhưng tôi rất muốn động viên cậu ta. Ngước nhìn nền trời xanh thẫm được dát bạc bởi ngàn vạn vì tinh tú, tôi khảng khái bày tỏ suy nghĩ của người đến từ thế kỷ XXI:

      - Nơi tôi sống có vĩ nhân, ông chia nhu cầu của con người ra làm năm cấp bậc. Cơ bản nhất là nhu cầu sinh lý, gồm những việc như lại, ăn ở. Khi thỏa mãn nhu cầu này con người nảy sinh nhu cầu được an toàn. Người ta muốn sống và tài sản của mình được đảm bảo. Sau khi nhu cầu này cũng được thỏa mãn tương đối, con người nảy sinh nhu cầu tình cảm: tình thân, tình , tình bạn. Sau đó mới đến nhu cầu được tôn trọng: bao gồm lòng tự tôn và kính trọng của người khác.

      Đó là bốn loại nhu cầu trong lí luận của Maslow. Quay sang bên và bắt gặp đôi mắt lấp lánh nhìn mình, tôi chậm rãi tiếp:

      - Nhưng đó chưa phải là nhu cầu cao nhất. Con người chỉ cảm nhận được niềm vui tột độ khi lí tưởng được thực , ấy là khi năng lực của họ được phát huy đến mức tối đa vì họ có thể làm được mọi việc tương ứng với khả năng vốn có của mình.

      Đôi mắt xúc động ngước nhìn tôi, giọng như nghẹn lại:

      - Lí tưởng?

      Tôi gật đầu quyết liệt và bổ sung thêm:

      - Lí tưởng là thứ mà cậu theo đuổi suốt đời, là mục tiêu phấn đấu của cuộc đời cậu.

      Tiểu hòa thượng trầm tư hồi lâu, rồi hướng đôi mắt hút hồn vào tôi:

      - Ngải Tình, có lý tưởng chứ?

      - Tất nhiên rồi!

      Tôi đằng hắng dọn giọng, rồi tiếp:

      - Muốn biết lí tưởng của tôi là gì ?

      Quả là cậu ta rất hiếu kỳ, ánh mắt háo hức thôi thúc tôi. Tôi đứng lên, giơ tay về phía bầu trời bao la, cất cao giọng:

      - Tôi muốn được trải nghiệm lịch sử, tôi muốn viết cuốn sách sử lưu danh thiên cổ giống như “Sử ký” của Tư Mã Thiên.

      Tôi dõng dạc bộc bạch ước mơ bấy lâu nay của mình. Nếu ở thế kỷ XXI mà như vậy, hẳn nhiều người giễu cười tôi. Nhưng đứng trước tiểu hòa thượng hồn hậu này, tôi chẳng có gì phải e dè. Chợt nhận ra cậu ta cứ len lén nhìn tôi, tôi mỉm cười:

      - Mơ ước quá xa vời, đúng ?

      Cậu ta cũng đứng lên, gật đầu rất quyết liệt, thanh tuy cao, nhưng dứt khoát:

      - làm được!

      Đôi mắt trong sáng của tiểu hòa thượng khiến tôi cảm động hết sức. ngờ lời động viên của cậu thiếu niên này lại khiến tôi vui sướng đến thế. Tâm trạng trở nên vô cùng thoải mái, dễ chịu. Tôi dang rộng cánh tay, tưởng tượng mình là chim ưng, vỗ cánh bay xung quanh đống lửa, lúc đến trước mặt tiểu hòa thượng, tôi dừng lại thở hổn hển, cười tươi:

      - Cậu hãy suy nghĩ xem lí tưởng của cậu là gì . Sống đời phải có lí tưởng cuộc sống mới có ý nghĩa.

      - Ngải Tình, tôi vẫn chưa hiểu hết những điều . Nhưng thấy vui vẻ vì có lí tưởng như vậy, tôi rất cảm động! Tôi cũng muốn được giống như , đặt ra mục tiêu phấn đấu cho cuộc đời mình.

      Ánh lửa bập bùng phản chiếu khuôn mặt như tạc tượng của tiểu hòa thượng, gió thổi đến, cuốn lên cao những tàn lửa li ti, trời ngàn vì sao đua nhau lấp lánh, dướt đất bóng lửa lập lòe nhảy múa và nụ cười ấm áp của chàng trai trẻ bên cạnh, phút chốc, thời gian như ngưng đọng, thêm cảnh tượng tuyệt đẹp nữa tôi muốn lưu giữ trong tim.

      Trở về lán trại, xoay mình hết bên này sang bên kia tôi vẫn sao dỗ được nỗi hưng phấn khi nãy xẹp xuống để nhường chỗ cho giấc ngủ. Nỗi nhớ nhà hằng đêm đâu mất. Cứ nghĩ đến câu : “ làm được” trong lòng lại dâng trào niềm vui khôn tả. Tôi khe khẽ tự nhủ: Ngải Tình, cậu làm được!

      Lúc chuẩn bị thiếp tôi chợt nhớ ra “Sử ký” của Tư Mã Thiên phải đến tận thời Hán mới xuất , vậy là tôi làm lộ kiệt tác của Thái Sử Công. Tôi bất cẩn. Cầu mong sao cậu ta để tâm đến và cầu mong sao cậu ta đừng khắp nơi tìm kiếm cuốn sách này.



                  Chương 6: Buổi giảng kinh đầu tiên

       
      Vào buổi trưa của ba ngày sau đó, ốc đảo xanh mướt xuất trước mắt tôi. Bao nhiêu ngày qua, tôi chán ngán với sắc vàng đơn điệu của mênh mông cồn cát, hôm nay, được nhìn thấy sắc xanh ngút ngàn thế này, tôi hưng phấn đến độ nhảy cẫng lên gào thét. Chứng kiến điệu bộ “hoang dại” ấy của tôi, Kumalajiba chỉ biết lắc đầu thở dài rồi cười và cho tôi biết, nơi đây chính là Wensu.

      Wensu, địa danh này cậu ta nhắc đến trong ngày đầu gặp tôi. Nghe khá quen, chắc chắn phải có tiếng Hán tương đương, nhưng tôi nhớ ra.

      Mải mê lục tìm dữ kiện bộ nhớ, đoàn người đến cổng thành lúc nào mà tôi hay. gian tưng bừng nhạc đặc trưng vùng Tây Vực, những khúc điệu tươi vui rộn rã. đội ngũ hùng hậu chỉnh tề nghênh đón chúng tôi.

      Hai bên đường có rất nhiều lán trại. Bên trong có người, chỉ đặt số tượng Phật. Dựa trình độ điêu khắc mà tôi quan sát được, đó đều là những pho tượng quý giá. Dân chúng ở hai bên đường đều đứng lên chào đón, từng chậu hoa tươi được cung kính dâng lên đến trước mặt hai mẹ con tiểu hòa thượng. Hai người chắp tay lễ tạ, đón hoa tươi mang đến rắc lên mình các bức tượng phật [5] .

      Trong chuỗi nghi thức kỳ lạ đó, tôi chú ý đến người đàn ông dẫn đầu: khoảng bốn mươi tuổi, thân hình cường tráng vạm vỡ, đầu để mái lửng, nhưng phía sau gáy lại tết thành những lọn dài, rồi búi ngược lên đỉnh đầu và được quấn lại bởi mảnh khăn thêu kim tuyến. Người đó đội chiếc mũ miện bằng vàng khắc hình long phụng, khoác áo choàng đỏ có viền thêu hình thoi, đính châu báu, phía trước là những hình tròn thêu chỉ vàng lấp lánh, ống chân ... Đấy, tôi lại mắc bệnh nghề nghiệp rồi, lúc nào cũng quan sát chi tiết những người đối diện như quan sát vật nghiên cứu.

      Tuy hiểu họ gì, nhưng tôi đoán đó là đoàn người ra nghênh đón khách quý, gồm các thành viên của hoàng thất và người đàn ông khoác mình trang phục quyền quý kia chính là nhà vua. Tuy ni xinh đẹp Jiba cũng được chào đón nồng hậu và cung kính, nhưng ràng đối tượng của nghi thức nghênh tiếp hết sức long trọng này ai khác, chính là Kumalajiba.

      Từ lâu tôi nghĩ rằng Kumalajiba phải nhà sư tầm thường, nhưng cậu ta mới mười ba tuổi, làm sao có thành tựu gì xuất chúng. Chắc hẳn cậu ta còn có thân phận gì khác ngoài là nhà sư, ví như là con cháu nhà vua chẳng hạn. lẽ cậu ấy là hoàng tử? Trước khi đắc đạo, Phật Thích Ca cũng từng là hoàng tử đấy thôi.

      Chúng tôi được sắp xếp ở lại trong cung điện hoa lệ (mà phải tại ngôi chùa nào đó như tôi nghĩ). Tuy là hoa lệ, nhưng thể so sánh với cung điện ở Trung Nguyên được. Tây Vực vốn là vùng khô hạn, nhà ở được xây cất rất đơn sơ với vật liệu chính là gỗ và đất sét và mái nhà là kiểu mái bằng. Nhưng ở đây, tường nhà làm bằng đất sét được coi là xa hoa rồi. Thông thường chỉ có quan lại, đền chùa miếu mạo và hoàng cung mới được xây dựng như vậy.

      Nơi chúng tôi nghỉ ngơi là dinh cơ rộng lớn với năm gian phòng. Vị quốc vương kia còn cử thêm mười người hầu đến phục vụ chúng tôi. Tôi được ở riêng phòng, Jiba cũng dành cho tôi người hầu nữ. cầu đầu tiên mà tôi đưa ra là: tôi muốn tắm rửa.

      Những thứ mà các cuốn tiểu thuyết thường nhắc đến như: suối nước nóng, hoa thơm, chậu tắm cỡ lớn, ở đây đều có. Có thể là điều kiện sinh hoạt khá nghèo nàn, xà bông ở đây còn lâu mới thơm bằng xà bông của thế kỷ XXI. Nhưng tôi vẫn cảm thấy vô cùng sảng khoái, vì sau hơn mười ngày ròng rã dầm mình trong gió cát sa mạc, cuối cùng tôi được tắm gội sạch .

      Giờ học buổi tối, kìm được tò mò, tôi lại gợi ý tiểu hòa thượng kể về xuất thân của cậu, nhưng Kumalajiba bình thản đến mức lạnh lùng, trả lời rằng:

      - Những thứ như mắt, mũi, tai, miệng, lưỡi, thân thể hay ý thức đều tồn tại thực , huống hồ là tên tuổi và xuất thân.

      Lại là thuyết duy tâm của đạo Phật, trả lời như vậy cũng bằng . Tôi giận dỗi:

      - Vâng vâng vâng, tứ đại giai , mọi thứ đều tồn tại. Trương Sinh nằm mơ hóa thành hồ điệp, tỉnh lại biết rốt cuộc là mình mơ hóa thành hồ điệp hay hồ điệp hóa thành mình, thế được chưa!

      Điển cố Trương Sinh nằm mơ hóa thành hồ điệp mà tôi vô tình thốt ra khơi gợi hứng thú đặc biệt đối với tiểu hòa thượng, cậu nằng nặc đòi tôi kể câu chuyện đó. Đành vậy:

      - Thời Xuân Thu ở Trung Nguyên có triết gia tên Trương Châu. hôm, ông nằm mơ thấy mình hóa thành bươm bướm, bươm bướm bay lượn hết sức sinh động. Ông vô cùng vui sướng, đến mức quên cả mình là Trương Châu. Khi tỉnh lại, ông khỏi kinh ngạc khi nhận ra mình chính là Trương Châu. Đời người như giấc mơ, vì vậy Trương Châu biết rốt cuộc là ông nằm mơ thấy mình hóa thành hồ điệp hay hồ điệp nằm mơ thấy mình hóa thành ông.

      Tiểu hòa thượng trầm tư lát, rồi :

      - Ở Ấn Độ, người ta tin rằng: Mọi thứ đời đều là giấc mộng của Brahma, khi Brahma tỉnh lại, thế gian này biến mất, tồn tại bất cứ thứ gì.

      Tôi thở dài, suy nghĩ như vậy là bi quan. muốn tiếp tục chủ đề duy tâm ấy nữa, tôi hỏi:

      - Brahma có phải là Phạm Thiên (đấng sáng tạo theo quan điểm Bà La Môn) ?

      Brahma, cách phát này rất quen thuộc. Theo trí nhớ của tôi đó là trong ba đấng sáng tạo của Ấn Độ giáo, gồm: Brahma, Shiva và Vishnu. Tôi từng đến Ấn Độ và cũng từng viết số bài nghiên cứu về Ấn Độ giáo, nên cũng có chút hiểu biết.

      - Phạm Thiên ư?

      Kumalajiba dùng bút chì viết hai chữ đó lên tập giấy nháp của tôi rồi nghiêng đầu suy nghĩ:

      - có lần rằng “Phạm” nghĩa là thanh tịnh, tránh xa mọi ham muốn. Brahma là đấng sáng tạo ra thế giới và vạn vật, gọi Brahma bằng tên “Phạm Thiên” quả là cách dịch thông thái. Ngải Tình, tôi nghe đạo Phật chưa phát triển ở Trung Nguyên, nhưng ở đó có người thông minh, kiến thức uyên thâm như thế này, ngày xa, Phật giáo Trung Nguyên chắc chắn hưng thịnh.

      Tôi ấp úng biết trả lời ra sao. Thế là lôi lại vô tình đánh cắp thành quả dịch thuật của người khác rồi! Xin tạ lỗi với ngài Kumarajiva, ngài Huyền Trang, Nghĩa Tịnh và nhiều dịch giả kinh Phật khác, tôi hề cố ý!

      Buổi tối trước khi ngủ, câu hỏi cứ quẩn quanh trong đầu tôi. Tôi vượt qua giới hạn gian và thời gian hàng ngàn năm để đến trước mặt Kumalajiba, tôi có tồn tại ? Lẽ nào ư? Phải chăng tôi cũng nằm mơ mà biết?

      Lần đầu tiên tôi nghĩ về xuất của mình ở nơi đây và thấy buồn ảo não.

      Chúng tôi ở lại Wensu. Tôi có hỏi Kumalajiba khi nào khởi hành Kucha, tôi hứng thú với quốc gia rộng lớn đó hơn là tiểu quốc bé này. Nhưng cậu ta bảo được mời đến đăng đàn thuyết giảng về Phật pháp tại ngôi chùa lớn của hoàng gia trong vòng bảy bảy bốn mươi chín ngày. Và cậu ta cũng dành cho tôi vị trí khách mời trong những ngày đó.

      Vậy nên, lúc này, tôi ngồi bên Jiva, đưa ánh mắt hiếu kỳ quan sát bốn phía.

      Chúng tôi ngồi giữa đại điện to rộng trong ngôi chùa lớn của hoàng gia. Tượng Thích Ca mâu Ni cao khoảng hai mét, mạ vàng, được đặt bệ đỡ ở chính giữa. Bốn phía là những lối hẹp dành cho Phật tử và khách thập phương đến dâng hương, cúng lễ. Đại điện được dựng lên với trụ gỗ và các bức tường bằng đất sét, ánh sáng chỉ có thể lọt vào qua cửa chính, vì vậy khắp nơi trong đại điện đều thắp đèn dầu. Đó là kiến trúc của ngôi chùa Phật giáo Tiểu Thừa điển hình, có nhiều điểm khác so với những ngôi chùa Phật giáo Đại Thừa phát triển rầm rộ ở Trung Nguyên thời gian sau này.

      Sáng sớm, Kumalajiba cùng các tăng sĩ ngồi xếp bằng tụng kinh. Hơn trăm nhà sư tọa thiền chật kín đại điện vốn lấy gì làm rộng rãi này. Phía bên phải chỗ ngồi dành cho khách quý có quốc vương và hơn mười đại thần, những người hôm qua ra tận cổng thành nghênh đón mẹ con Kumalajiba. Phía bên này là nhóm phụ nữ, trong đó có tôi và Jiva, nhìn trang phục của họ có lẽ là hoàng hậu và các phu nhân.

      Kumalajiba ngồi bục cao nhất phía trước tượng Phật, mình khoác áo cà sa thêu kim tuyến lấp lánh, vẻ mặt thành kính, pháp tướng trang nghiêm. Khi tiếng tụng kinh vang lên, ngay cả nhà vua và hoàng hậu cũng lầm rầm tụng niệm theo, chỉ mình tôi ngượng ngùng, đầu cúi thấp để ai chú ý đến. Tất cả những câu kinh Phật mà tôi biết là: Úm ma ni bát ni hồng và Nam mô a di đà Phật. Thế là tôi cứ nhẩm nhẩm lại những câu đó khoảng năm trăm lần thời gian tụng kinh kết thúc. Sau đó, Kumalajiba bắt đầu thuyết giảng.

      Tôi nhớ lần du lịch Ai Cập và đến tham quan ngôi đền Muhammad Ali, tôi đến đúng vào lúc vị giáo sĩ thuyết giảng kinh Coran, dưới sảnh là hàng trăm tín đồ. Tôi quấn khăn đầu, mặc áo dài, quần dài (đó là quy định khi vào đền đối với nữ giới), ngồi xuống giữa đám đông và bắt chước họ hành lễ. Tôi phải tín đồ Hồi giáo, tôi chỉ muốn xem những người theo đạo Hồi hành lễ ra sao thôi. Vị giáo sĩ miệt mài thuyết giảng, chốc chốc lại làm động tác tay dứt khoát. Tôi vốn biết tiếng Ả rập, nghe hiểu gì, nên chỉ được lúc, tôi bắt đầu chán nản. Nhưng nhìn vẻ mặt thành kính của những người xung quanh và khí yên lặng tuyệt đối trong điện thờ, tôi dám đứng dậy ra về, vì tôi sợ làm thế giống như hành vi xúc phạm đối với những tín đồ sùng đạo này. Bàn chân tôi tê dại sau hơn tiếng ngồi nghe thuyết giảng. Từ đó về sau, tôi tự nhủ lòng, bao giờ cúng khấn hành lễ gì hết.

      Thế mà giờ đây tôi lại rơi vào tình cảnh đó. Nhưng bù lại, Kumalajiba điển trai hơn nhiều so với vị giáo sĩ Hồi giáo và giọng của cậu ta lại rất ấm áp, truyền cảm. Có điều, vấn đề gay go nhất vẫn là: tôi nghe hiểu. Phải tiếp nhận những giáo lý Phật pháp uyên thâm bằng tiếng Phạn thế này chẳng khác nào ngày xưa tôi phải nghe vị giáo sĩ nọ thuyết giảng kinh Coran bằng tiếng Ả rập. Nhưng hàng trăm nhà sư, rồi cả quốc vương và hoàng hậu đều lắng nghe say sưa, làm sao tôi có thể đứng lên và ra về được.

      Tôi cũng dám ghi chép vẽ vời gì, sợ gây chú ý. Vì vậy, sau khi lặp lặp lại năm lần phương pháp nghiên cứu đối tượng bằng cách đặt tên, cơn buồn ngủ bắt đầu tấn công tôi, đó là kết quả tất yếu của việc thức giấc vào lúc bốn giờ sáng. Giờ tụng kinh buổi sáng bắt đầu lúc năm giờ, tôi khâm phục nghị lực của các hòa thượng. Buồn ngủ quá mà thể gục xuống làm giấc giữa đám đông tăng ni Phật tử này, tôi đành ngọ ngoạy tay chân tấm đệm, cố gắng vận động khẽ khàng để gây ra chú ý.

      Cảm giác có ai đó nhìn mình, là Kumalajiba. Tôi chu mỏ lè lưỡi chọc cậu ta, rồi đưa tay xoa phần mông tê dại. Cậu ta khẽ mím môi, cố nhịn cười, thêm vài câu, rồi dừng hẳn. Tôi bắt chước những người khác đứng lên chắp tay, hành lễ với Kumalajiba.

      Nhà vua phát biểu tổng kết đôi ba câu, rồi ngài vỗ tay, các cung nữ tiến vào, mỗi người bưng tay chiếc bàn xếp đầy đồ ăn, lần lượt đặt trước mặt từng thượng khách. Những người còn lại được phát đồ ăn đến tận tay, mỗi người phần. Tôi nhìn thức ăn bàn, mắt hoa .

      Có các loại quả vốn là đặc sản của Tân Cương như nho và dưa gang. Và tất nhiên thể thiếu bánh nướng Tây Vực. Nhưng còn gì nữa thế kia? Béo ngậy và thơm phức, thịt nướng ư? Nhìn có vẻ giống thịt dê nướng. Thịt dê nướng Tân Cương vốn nổi tiếng cả nước. Tôi nuốt nước bọt ừng ực vì gần mười ngày được ăn mặn. Nhưng điều lạ lùng là, chỉ tôi, quốc vương và số vị khách khứa của thế giới trần tục khác, tất cả các nhà sư đều được chia phần ăn mặn. Cả đại điện bỗng chốc tỏa đầy mùi thơm của thịt nướng. Nhà vua hạ chỉ dùng bữa và những thanh nhai nuốt giòn giã bắt đầu vang lên.

      Tôi đưa mắt quan sát Kumalajiba và thấy cậu ta cũng ăn thịt, tuy động tác từ tốn, nho nhã, nhưng vẫn khiến thị giác của tôi chấn động dữ dội. Chợt nhớ ra, những tăng sĩ này theo giáo phái Phật pháp Tiểu Thừa và hình như giới luật của giáo phái này cho phép các nhà sư ăn thịt. Nhưng như thế vẫn chưa đủ ràng, tối nay phải hỏi lại Kumalajiba mới được. Tôi cắn thử miếng, ngon lắm, những muối là muối, có ớt, có rau thơm, ngon bằng thịt nướng ở quán đồ ăn vặt trước cổng trường tôi học.

      Sau khi đánh chén no nê, tôi buồn tiểu. Nghĩ về bốn mươi tám ngày dài đằng đẵng tiếp theo mà thấy ngán ngẩm. Lúc tôi quay lại, Kumalajiba đứng chờ sẵn ở cửa, ánh nắng buổi sớm phủ lên người tiểu hòa thượng những tia sáng lấp lánh. Cậu ta chớp mắt, nhìn tôi khẽ cười:

      - Ngải Tình, tôi biết nghe hiểu, nếu bắt tiếp tục ngồi như thế rất khó chịu. Tôi xin phép hoàng thượng để phải tham gia những buổi giảng kinh tiếp theo nữa.

      Tuyệt vời! Tôi nhảy lên sung sướng, định lao đến ôm lấy cậu ta, nhưng kịp nhớ ra cậu là là hòa thượng, nên thôi. Tôi vội vàng cảm ơn rồi ba chân bốn cẳng chạy biến, tiếng cậu ta gọi với từ phía sau:

      - về phòng ôn tập bài học hôm qua , tối nay kiểm tra mà thuộc, tôi phạt vụt vào tay đó!

      Buổi tối, cậu ta đến phòng tôi đúng giờ quy định. Lúc chiều trở về tôi đánh giấc no nê, công việc tiếp theo là vẽ lại toàn bộ kiến trúc ngôi chùa, đại điện và khung cảnh buổi giảng kinh mà tôi được tận mắt chứng kiến sáng nay. Xong xuôi, tôi háo hức ngồi chờ Kumalajiba tới.

      Kết quả buổi kiểm tra tiếng Tochari của tôi rất tốt đẹp. Đến lượt tôi dạy cậu ta tiếng Hán. Nỗi băn khoăn hành hạ tôi cả buổi chiều khiến tôi kiềm chế được, tôi hỏi ngay:

      - Vì sao tăng sĩ các cậu lại ăn thịt?

      Cậu ta có vẻ ngạc nhiên:

      - Chúng tôi theo tín ngưỡng Hinayana, tất nhiên có thể ăn thịt. Nhưng chỉ được phép ăn “tam tịnh nhục” [6] .

      Tam tịnh nhục? Chắc là loại thịt mà tăng sĩ giáo phái Tiểu Thừa được phép ăn.

      - Thế nào là “Tam tịnh nhục”?

      - Thứ nhất: nhìn thấy người giết thịt, tức là tận mắt chứng kiến thảm cảnh trước khi chết của loài vật đó. Thứ hai: nghe thấy tiếng người giết thịt, tức là tai nghe thấy tiếng kêu thảm thiết của loài vật đó. Thứ ba, loài vật đó vì mình mà chết, tức là phải vì mình muốn ăn mà chúng bị giết thịt. Giả như ra chợ nhìn thấy người bán hàng mổ gà mổ cá, hoặc người bán hàng rằng đây là thịt tươi vừa mới mổ được phép ăn. Hoặc đến nhà người khác chơi, được chủ nhà mổ gà mổ vịt thiết đãi, tức là chúng sinh vì mình mà chết, cũng được xếp vào loại “thịt thanh tịnh”. Tóm lại, tam tịnh nhục là loại “thịt thanh sạch” phù hợp với các điều kiện: bản thân nhìn thấy, nghe thấy và phải vì mình mà chúng sinh bị sát hại.

      Sau khi được truyền bá vào Trung Nguyên, giới luật của giáo phái Đại Thừa có phần nghiêm khắc hơn, giáo phái này nghiêm cấm sát sinh, tăng sĩ được phép ăn thịt. Vì vậy, trong tiềm thức của chúng ta, phàm là nhà sư đều được ăn thịt. Trong “Đại Đường Tây Vực ký”, Huyền Trang từng đề cập đến vấn đề này. Đại sư viết rằng, trong hành trình Tây Trúc thỉnh kinh của mình, khi ngang qua Tây Vực, ngài thể thích ứng với giới luật cho phép nhà sư ăn thịt ở nơi đây.

      - Nhưng vì sao trong những ngày qua, chúng ta hề ăn thịt đường ?

      Tôi nghĩ rằng họ được phép ăn thịt, bởi vì nhiều ngày qua, tôi thấy họ ăn thịt đường .

      - Bởi vì trước khi gặp , chúng tôi ăn hết rồi.

      Tôi gật gù, cuối cùng tôi hiểu. biết nhìn thấy họ ăn thịt thế này, các nhà sư ở Trung Nguyên ghen tỵ hay chê trách họ?

      - Khi nãy cậu đến Hinayana, từ này nghe rất quen, nghĩa là gì vậy?

      Cậu ta suy nghĩ lát rồi giải thích bằng tràng dài những thanh lạ lùng. Tôi biết đó phải là tiếng Tochari, vậy hẳn là tiếng Phạn rồi, thứ ngôn ngữ phổ thông được sử dụng khắp vùng Trung Á thời kỳ Trung thế kỷ. Và đó cũng là thứ tiếng mà Kumalajiba dùng để thuyết giảng kinh Phật sáng nay, nên tôi nghe mà hiểu gì cả.

      Tôi lại nghe thấy cậu ta đọc khác: Mahayana. Hồi Ấn Độ, tôi có mang theo cuốn sách hướng dẫn du lịch nhiếp ảnh phổ biến nhất thế giới “Lonely Planet” bản tiếng . Tôi nhớ rằng, tên gọi này thường xuyên xuất trong sách khi giới thiệu về các thắng cảnh du lịch của Ấn Độ. Chắc chắn có liên quan đến Phật giáo, mà cậu ta vừa bảo cậu ta theo tín ngưỡng Hinayana, nên được phép ăn “thịt thanh tịnh”. A, tôi nhớ ra rồi:

      - Hai từ đó là Phật giáo Đại Thừa và Phật giáo Tiểu Thừa, đúng ? Mahayana là Đại Thừa, còn Hinayana là Tiểu Thừa.

      Cậu ta có vẻ chưa hiểu, tôi viết chữ Đại Thừa và Tiểu Thừa ra giấy nháp:

      - “Thừa” là từ chỉ công cụ vận chuyển, ở đây có nghĩa là Phật pháp tế độ, cứu rỗi chúng sinh, giống như con thuyền hay cỗ xe chuyên chở con người từ nơi này đến nơi khác. Hinayana đề cao việc cứu độ bản thân, tìm kiếm giải thoát cho cá nhân, vì vậy tiếng Hán gọi là Tiểu Thừa. Mahayana đề cao việc cứu rỗi người khác, phổ độ chúng sinh, vì vậy tiếng Hán gọi là Đại Thừa.

      Tôi sướng phổng cả mũi, tiếng Phạn tôi cũng tỏ tường chả kém đâu nhé! Bắt gặp đôi mắt mở to, sáng long lanh và nụ cười đầy hàm ý của tiểu hòa thượng, tôi bỗng giật mình.

      - Ngải Tình, tôi đâu có sai, rất thông minh!

      Tôi, tôi, tôi... lại lần nữa đánh cắp thành quả dịch thuật của người khác rồi. Hình như là Kumarajiva dịch phải. Xin lỗi ngài, tôi cố ý...
                  Chương 7: Luận chiến


      phải tham gia những buổi thuyết giảng nữa, nên tôi cần dậy sớm. Khi no giấc, tôi tự động mở mắt, ra khỏi giường, rửa mặt chải đầu, ăn sáng rồi ra phố. Tôi thong dong dạo đâu nhé, tôi khảo sát thực tế đó. Thành phố này trải hai nghìn năm tuổi, tuy diện tích lớn, tráng lệ, dân số thưa thớt và đời sống còn khá lạc hậu, nhưng dù sao cũng là thành phố cổ đại đầu tiên tôi đặt chân đến. Cứ coi như hôm nay là đợt tập dượt công tác thực địa đầu tiên của tôi !

      Tôi khoác lên vai chiếc ba lô nhét đủ các thứ: sổ ghi chép, thước dây, bút viết, xẻng ... Tôi bắt đầu xắn tay đo đạc tường thành, kiểm tra chiều dày lớp đất, xem xét vị trí cổng thành, vẽ lại toàn bộ mặt cắt ngang, mặt cắt dọc của tòa thành. bận bịu với công việc, bỗng nhóm người đột ngột xuất ngay sau lưng, lăm lăm chĩa mũi giáo về phía tôi. Tôi vội vàng đưa hai tay lên cao, ra hiệu đầu hàng, nộp vũ khí và xin tha mạng. Chiếc thước dây lăn tròn đất, kéo lê thành vệt dài.

      Tôi bị tống vào nhà lao với tội danh gian tế của người Hán. Tôi dở khóc dở cười, làm gì có tên gián điệp nào lại ngang nhiên giữa phố như tôi chứ! Cố vắt óc lôi ra bằng hết vốn từ vựng Tochari và ra sức giải thích với họ rằng tôi là người quen của đại pháp sư Kumalajiba. Rằng hôm qua tôi được diện kiến nhà vua và hoàng hậu của họ. Rằng tôi còn được mời tham dự yến tiệc trong cung nữa. Tôi nài nỉ họ đến tìm Kumalajiba. Nhưng sau nhiều giờ vẫn thấy có ai đến bảo lãnh, tôi đành tiếp tục công tác khoa học của mình trong nhà ngục.

      Vì vậy, khi Kumalajiba xuất ở cửa nhà lao với vẻ mặt lo lắng tột độ, trước mắt cậu ta là vẫn say sưa tác nghiệp, mải mê đo đo đạc đạc, vẽ vẽ xóa xóa trong buồng giam.

      Trời nhá nhem tối khi tôi cùng Kumalajiba bước ra khỏi nhà ngục. Chắc hẳn cậu vừa kết thúc giờ tụng kinh buổi chiều phải vội vã đến nơi đây đón tôi về. Nghĩ vậy, tôi thấy hơi áy náy. Cậu ta với đám cai ngục rằng tôi là giáo viên tiếng Hán của cậu, thế là những người đó ngay lập tức thay đổi thái độ, tỏ ra cung kính đối với tôi, khiến tôi được phen cáo mượn oai hùm, phổng cả mũi.

      Đúng như dự đoán, buổi tối lên lớp, Kumalajiba hỏi về những việc tôi làm? Có chuẩn bị từ trước nên tôi trả lời rất trôi chảy: Còn nhớ tôi từng về lý tưởng của mình ? Tôi muốn viết cuốn sách lịch sử lưu truyền hậu thế. Và, để người đời sau có thể hiểu được quá khứ huy hoàng của Tây Vực, tôi phải thu thập mọi tư liệu liên quan. Sau hồi lắng nghe tôi thao thao bất tuyệt, Kumalajiba hứa rằng cậu giải thích với quốc vương, nhưng cũng quên dặn dò tôi phải thận trọng hơn.

      Mấy ngày sau đó tôi đành giam chân trong phòng, chỉnh sửa bản vẽ và ra sức học tiếng Tochari. Nhưng đến ngày thứ năm tôi chịu được nữa. Lần thực tiễn này, tôi rút ra kinh nghiệm và hành động thận trọng hơn. Tôi quan sát mọi thứ tỉ mỉ sau đó mới trở về phòng và vẽ lại. thể làm vậy, trừ phi tôi muốn vẽ tranh trong ngục lần nữa.

      Mười ngày có lẻ cứ thế trôi qua, những tập giấy đầy hình vẽ của tôi ngày dày lên. buổi tối nọ, tôi bỗng nhận thấy Kumalajiba tập trung vào bài học như mọi ngày, hình như cậu ta mải suy nghĩ điều gì đó. Tôi hỏi được biết ngày mai có người thách đấu Kumalajiba luận chiến và điều đó khiến cậu rất lo lắng. Tôi hỏi hai người tranh luận về nội dung gì, cậu ngày mai mới công bố chủ đề. Tôi hỏi tiếp cậu tranh luận với ai, cậu ta bảo đó là đại sư luận kinh rất nổi tiếng, khắp vùng Tây Vực ai là đối thủ. Ông cho rằng, đời này ai thắng nổi mình, nên tuyên bố hùng hồn rằng, nếu có người thắng ông, ông lấy đầu mình xuống để tạ tội.

      - có muốn đến xem ?

      Cậu ta hơi ngập ngừng, có lẽ vì thái độ đáng phê phán của tôi tại buổi giảng kinh trước đó.

      Tôi gật đầu lia lịa:

      - Có chứ, tôi nhất định !

      cuộc thi hấp dẫn với cái giá là trừng phạt đáng sợ như thế, với đại ngông cuồng như thế, làm sao tôi có thể bỏ lỡ được!

      - Cậu có biết chỗ nào đặt cược ? Tỉ lệ ăn thua bao nhiêu? 5- 5 hay 4- 6?

      Kumalajiba chau mày, tôi vội vàng im bặt.

      Vì muốn cậu ta tập trung tinh thần cho buổi quyết đấu ngày mai nên tôi kết thúc giờ học sớm hơn thường lệ. Nhận thấy vẻ đăm chiêu ưu phiền của cậu ta trước lúc ra về, tôi kêu cậu ta lại, rồi bắt chước động tác cổ vũ tinh thần thường thấy trong các bộ phim kinh điển của Hàn Quốc, tôi giơ tay phải lên và hô:

      - AZA, AZA, FIGHTING!

      Nhìn vẻ mặt ngơ ngác của Kumalajiba, tôi phì cười, gào to:

      - Đó là phương ngôn bán đảo ở phía đông bắc. Có nghĩa là: Pháp sư trẻ của chúng ta nhất định chiến thắng!

      Kumalajiba cười rạng rỡ, dường như những ưu phiền khi nãy bị xua , cậu nhìn tôi gật đầu quả quyết và cũng học theo tôi giơ tay phải lên. Động tác hơi gượng gạo, nhưng tràn đầy tự tin, phong thái ung dung, đĩnh đạc thường thấy trở lại với cậu. Đó là nụ cười đầu tiên của cậu trong buổi tối hôm nay, ánh sáng của tự tin trong nụ cười ấy tỏa khắp căn phòng, phả vào gian quanh tôi dư vị của ấm áp.

      lạ lùng là buổi sáng hôm sau tôi ngủ nướng như mọi ngày mà từ tờ mờ sớm chờ sẵn ở cổng.

      Buổi luận chiến diễn ra tại chính điện trong hoàng cung. Đây là lần thứ ba tôi bước vào nơi này, hai lần trước, tất nhiên là dự tiệc cùng mẹ con ni có xuất thân bí . Bởi vậy, cảm giác háo hức còn nữa. Tranh vẽ xong, tên gọi cũng đặt rồi. Cung điện này chẳng lớn lắm, kiến trúc và trang trí họa tiết đều hết sức đơn giản.

      Nhưng, gian của buổi luận chiến lại rất lớn. Chỉ có người tham gia tranh luận và nhà vua, hoàng hậu được phép ngồi, những người còn lại đều phải đứng nghe. Vì vậy, chỉ trong chốc lát, toàn bộ đại điện chật kín người.

      Theo tôi biết, luận chiến là cách thức chủ yếu để thu hút tín đồ của các giáo phái thời kỳ đầu. Ở Ấn Độ, các buổi biện kinh diễn ra rất bi thảm, người thua thường phải mai danh tích, vĩnh viễn biến mất. Có người còn tự cắt lưỡi, thậm chí tự vẫn. hơn đóng cửa giáo phái, tôn người thắng làm thầy. Trái lại, người chiến thắng chỉ dựa vào lần biện kinh, tiếng tăm nổi như cồn, được mọi người sùng kính, có đông đảo tín đồ đến bái sư, người đó được quốc vương trọng vọng và ban thưởng hậu hĩnh, trở thành đại sư quyền lực. Trần Huyền Trang cũng từng nhiều lần giành chiến thắng trong các buổi biện kinh tại Tây Vực và Ấn Độ, danh tiếng lan xa khắp nơi. Từ đó, có thể thấy, cuộc tranh biện này có ý nghĩa to lớn dường nào đối với nhà sư trẻ tuổi như Kumalajiba. Chả trách người thường ngày trầm tĩnh như cậu vậy mà tối qua khỏi lo lắng và bối rối.

      Nhân vật chính xuất . Bên này là pháp sư trẻ tuổi Kumalajiba, thiếu niên tài trí cao rộng, phong độ ngời ngời, phong thái đĩnh đạc, mình khoác áo choàng màu nâu sòng giản dị. Đối thủ là người đàn ông trung tuổi, đạo sĩ ra đạo sĩ, hòa thượng phải hòa thượng, mình khoác áo nhung màu xanh da trời. thể tin được, tuổi tác của hai người chênh lệch quá xa. Đối phương có lẽ cũng nhận biết được điều này, nên ông ta hếch mũi vênh vang nhìn cậu thiếu niên tuy dáng người cao ráo nhưng thân hình mảnh khảnh ở phía đối diện.

      Hai người được trao đến tay tấm thẻ , họ đọc tấm thẻ vài giây rồi bắt đầu trầm tư suy ngẫm. Sau tuần hương, tiếng trống vang lên. Đôi bên bắt đầu đặt câu hỏi dồn dập cho đối thủ, có vẻ như Kumalajiba chiếm ưu thế. Tuổi trẻ có lợi thế là phản ứng rất nhanh nhạy. Tốc độ biện luận của cả hai đều khá nhanh, người này vừa kết thúc câu, người kia trực tiếp trả lời. Khán thính giả bên dưới tưởng như nín thở lắng nghe, chốc chốc lại “ồ” lên hoặc “à” lên tiếng, với những trạng thái biểu cảm hết sức phong phú.

      Tôi chú ý đến khu vực quần chúng bởi vì tôi hiểu chữ nào. Khi họ bắt đầu luận chiến tôi biết mình thể hiểu được, vì họ sử dụng tiếng Phạn. Vậy là tôi chỉ có thể vừa quan sát sắc mặt của đám đông, vừa lục tìm trong trí nhớ những thông tin lịch sử liên quan đến các kỳ biện kinh.

      Biện kinh biến mất hoàn toàn tại các ngôi chùa ở Trung Nguyên, ở Nhật Bản, Hàn Quốc và khu vực Đông Nam Á thời đại. Phật giáo Ấn Độ vốn suy yếu từ lâu, chỉ có Phật giáo Tây Tạng vẫn bảo lưu và duy trì truyền thống này. Tôi được chứng kiến những buổi biện kinh tại ngôi đền Sera Monastery và đền Drepung Monastery ở Lahsa. Hoạt động này thường được diễn ra ngoài trời vào khoảng ba đến bốn giờ chiều. Lạt Ma của các đền chùa khác cũng cử người đến tham dự, sau khi buổi biện kinh kết thúc, có người nghi chép lại kết quả biện luận [7] .

      Khác với những cuộc thi hùng biện, tranh biện mà chúng ta từng biết, biện kinh là hoạt động tập thể. Mỗi buổi biện kinh có thể có đến vài trăm Lạt Ma tham gia, họ chia thành những nhóm từ hai đến bốn người, trong đó, người biện luận chính, những người khác đóng vai trò hỗ trợ. Mỗi khi đưa ra câu hỏi cho đối phương, người biện kinh thực những động tác hết sức khoa trương, như: vỗ tay mạnh, sau đó thi triển thế thủ giống hệt Lý Tiểu Long lúc đấu võ, tay tung vạt áo, lắc tràng hạt, chân giậm mạnh, điệu bộ dữ dằn. Bên phản biện ngồi xếp bằng đất, tay giơ lên phản ứng dữ dội. Toàn bộ khu vực diễn ra hoạt động biện kinh vang động tiếng vỗ tay, tiếng áo cà sa của Lạt Ma tung bay loạt soạt và tiếng người huyên náo. Những người ngoại đạo, hiểu tiếng Tạng như tôi, chỉ biết quay qua quay lại quan sát biểu cảm của nét mặt và những động tác tay chân phong phú của những người tham gia biện kinh, thực chất hiểu họ gì.

      Trước mắt tôi lúc này chỉ có hai người, tuy hoa chân múa tay, tạo các thế võ, nhưng biểu cảm gương mặt họ vẫn hết sức phong phú. Có thể dễ dàng nhận thấy, pháp sư trẻ tuổi của chúng ta càng vào cuộc càng say sưa, dáng người rướn cao, áp đảo đối phương, giọng càng ngày càng hào sảng, vang dội. Đối phương trái lại, càng lúc càng mặt ủ mày chau, vẻ hung hăng mất dần, giọng cũng dần, sau cùng gương mặt biến sắc, thần trí hỗn loạn, mồ hôi đầm đìa trán, ngã bổ nhào về phía trước, quỳ gối xin thua.

      Đám đông hoan hô dậy sóng. Quốc vương và hoàng hậu cũng nén nổi xúc động, lập tức đứng lên kính cẩn hành lễ chúc mừng Kumalajiba. Sau tiếng vỗ tay của nhà vua, biết bao nhiêu hòm to hòm được khiêng vào, hẳn nhiên đó là phần thưởng dành cho người chiến thắng. Trời ơi, tôi ngưỡng mộ pháp sư trẻ tuổi này quá, mới mười ba tuổi mà cậu ta đánh bại vị tiền bối hơn ba mươi tuổi, biết sau này trưởng thành hơn cậu ta còn tài giỏi đến mức nào nữa?

      Sau khi kết thúc buổi luận chiến, Kumalajiba tiếp tục giảng kinh, cậu được hộ tống ra ngoài cung giữa vây bọc của đám đông người hâm mộ. chú voi lực lưỡng được trang trí rất bắt mắt và đặt lưng chiếc ghế sang trọng chờ sẵn bên ngoài. Kumalajiba trèo lên lưng voi, quốc vương trước dẫn đường, đoàn người bắt đầu diễu hành. Quốc vương chính thức công bố thắng lợi của đại sư Kumalajiba cho toàn thể dân chúng trong thành được biết. Hoa tươi từ khắp mọi nơi được bà con tung lên người pháp sư trẻ, kèm theo những tiếng hoan hô vang dội, ngớt. Đoàn diễu hành dọc theo các con phố chính, và cả những ngõ suốt buổi chiều. Ngày hôm đó, Kumalajiba được tôn vinh, ca ngợi hết mức, có lẽ cậu còn được hâm mộ hơn cả các minh tinh màn bạc thế kỷ XXI. Khuôn mặt an nhiên, trầm lặng thường ngày hôm nay sáng lên bởi nụ cười mãn nguyện nhưng khá dè dặt nơi khóe môi, cho đến tận khi cậu bước chân vào phòng tôi vào buổi tối.

      Chờ cậu ta yên vị, tôi lập tức đặt câu hỏi:

      - Cậu và người đó tranh luận chủ đề gì vậy?

      - Có và .

      Tức là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm ư?

      - Ông ta luận về “có” còn cậu luận về “”?

      Cậu ta gật đầu, tôi lại hỏi tiếp:

      - Cậu thắng như thế nào?

      - Rất khó diễn đạt. Tôi khẳng định là có hay , mà đặt ra giả thuyết “nếu như có”. là “nếu như có” thể là “” được. Có có , phải có cũng phải .

      Tôi nghe mà ù cả tai, những là có có , có có.

      - Ông ấy có đồng ý với giả thuyết của cậu ?

      - Có. Sau đó tôi lại hỏi, bóng trăng dưới nước là có hay ? Ông ấy thể ngoa ngôn trả lời là có. Như thế, cái chính mắt ta nhìn thấy mà vẫn là tồn tại, vậy mọi thứ đời này phải chăng cũng chỉ là ảo ảnh, giống như bóng trăng dưới nước. “Nếu như có” tức là , là có mà cũng , vậy tất cả chỉ là cõi tịch mịch.

      - Vậy có cái gì là “có” ?

      Tên ranh mãnh, lập luận lắt léo như thế làm gì vị sư già kia chẳng thua. Nếu là ở thời đại như thế được gọi là “phép lập luận chủ quan vô căn cứ”.

      - Mọi thứ đời đều tồn tại, chỉ có Nirvana là vĩnh hằng.

      - Nirvana là gì vậy?

      - Tức là thông qua con đường tu hành, có thể dứt bỏ triệt để mọi phiền não, tích thêm nhiều công đức, thoát ly khỏi vòng sinh tử luân hồi và bước vào cõi bất sinh bất diệt.

      Cậu ta đưa đôi mắt sáng long lanh về phía tôi:

      - Ngải Tình, chắc chắn biết phải giải nghĩa từ này như thế nào bằng tiếng Hán, đúng ?

      - Ngôn ngữ đạo Phật có các từ: diệt độ, tịch diệt, giải thoát, viên tịch, Niết Bàn, tất cả đều có nghĩa là chết.

      Cậu ta vỗ tay tán thưởng:

      - Hay quá! Diệt độ tức là “diệt” trừ mọi phiền não và thoát ra khỏi sống chết. Tịch diệt tức là giữ cho tâm tĩnh và rũ bỏ mọi ưu phiền.

      Tôi thở dài. Tôi phải xin lỗi các vị đại sư dịch giả biết bao nhiêu lần về cái tội đánh cắp bản quyền này rồi! Mà cái tên ranh này, trình độ Hán ngữ của càng ngày càng tiến bộ, nào là nào là có, mà học thuyết duy tâm của khiến tôi giờ đây cũng trở nên tiêu cực vài phần rồi!

      - Vị đại sư đó từng tuyên bố rằng, nếu có người thắng ông ấy, ông ấy sẵn sàng lấy đầu mình xuống để tạ tội.

      nụ cười nơi khóe miệng, hình như cậu ta rất đắc ý:

      - Tôi cần đầu của ông ấy để làm gì kia chứ!

      - Đúng thế, vì vậy cậu buộc ông ta tôn cậu làm thầy, theo cậu học Phật pháp.

      Tôi nhớ lại màn thu nhận đệ tử sáng nay. Đúng là tâm tính của những người trẻ tuổi, bước vào cửa thiền, sắc sắc rồi mà vẫn còn nguyên tính hiếu thắng.

      Tôi thở dài:

      - Theo cậu, ông ta có lòng quy phục ?

      Rồi chợt nhớ ra chuyện, chờ cậu ta trả lời câu hỏi kia, tôi thích thú đề nghị:

      - Nào, chúng ta hãy thử thi tài. Nếu thua, tôi tôn cậu làm sư phụ.

      Đằng nào cậu ta cũng là thầy dạy tiếng Tochari của tôi rồi, có thua tôi cũng sợ thiệt.

      - Thi như thế nào? Biện luận nội dung gì?

      Cậu ta có vẻ bị bất ngờ.

      - Chúng ta biện luận thế nào là thua, thế nào là thắng.

      chờ cậu ta đáp lời, tôi vội vàng trổ tài trước:

      - Nếu tôi và cậu luận chiến và cậu thắng tôi, có chắc là cậu đúng còn tôi sai ? Nếu tôi thắng, có chắc là tôi đúng còn cậu sai ? Có chắc người này đúng còn người kia sai ? Hay cả hai đều sai hoặc đều đúng? Hai chúng ta thể định đoạt ai đúng ai sai, vậy ai đứng ra quyết định? Nếu chúng ta nhờ người thứ ba đứng ra phân xử, người đó cũng thể đưa ra quyết định chính xác. Bởi vì, nếu như cậu mời người có đồng quan điểm với cậu đứng ra phân xử, người đó có chung lập trường với cậu làm sao phán xét công bằng được? Nếu người đó đồng quan điểm với tôi, cũng tương tự, cũng chẳng thể đưa ra phán xét công bằng. Vì vậy, cả tôi, cả cậu và người thứ ba kia đều thể quyết định ai đúng ai sai. Nếu tôi cứ kiên trì quan điểm của mình và chịu thua, vậy ai đúng ai sai là câu hỏi vĩnh viễn có lời giải.

      Tôi ba hoa chích chòe hồi bằng tốc độ biện luận của Đường Tăng, sau đó mỉm cười liếc nhìn Kumalajiba.

      Cậu ta nhìn tôi chớp mắt, miệng khẽ mở, sững sờ mất chừng nửa phút. Lắc lắc đầu định gì đó lại thôi. Sau đó chắp hai tay lại, cung kính:

      - Tôi thua rồi.

      Tôi bật cười nhìn điệu bộ thua trong thỏa mãn, thua tâm phục khẩu phục của cậu ta.

      - Cậu còn nhớ câu chuyện Trương Châu nằm mơ hóa hồ điệp mà tôi từng kể ?

      Cậu ta gật đầu.

      - Rốt cuộc là mơ hay thực, là Trương Châu hay hồ điệp, chúng ta chẳng cần nhọc lòng truy xét. Bởi vì, tiêu chuẩn nhận thức của con người chỉ là tương đối. Người ta chỉ có thể nhận biết phần trong khoảng thời gian hữu hạn, ai dám khẳng định mình nắm vững chân lý tuyệt đối. Bởi vậy, các cuộc luận chiến của các giáo phái đều là đem cái phi lý của mình ra để phủ nhận cái có lý của đối phương. Làm thế thể phân biệt giả, đúng sai.

      Cậu ta nhìn tôi bằng ánh mắt khâm phục. Vậy là tôi vớt vát được chút thể diện của người làm thầy trước mặt chàng trai trí tuệ siêu phàm này rồi!

      Ngày hôm sau, cậu ta đến gặp và vài câu với người đàn ông trung tuổi vô cùng tủi hổ và sợ hãi kia bằng thái độ cung kính đáng ngạc nhiên. Người đàn ông kinh ngạc nhìn Kumalajiba. Cậu phải nhắc lại lần nữa, lúc ấy, người đàn ông mới tin vào những gì mình vừa nghe và liền sau đó là những lời cảm ơn rối rít. Rồi ông ta vội vã về phòng mình. Tôi biết ông ta muốn nhanh chóng thu dọn hành lý rời khỏi nơi này.

      Tôi đưa mắt nhìn Kumalajiba đúng lúc cậu ta quay đầu về phía tôi, đôi mắt trong như nước hồ thu. Tôi ngước lên nhìn trời, hôm nay là ngày oi ả, sao mới sáng sớm mà ánh nắng làm tôi choáng váng thế này!

      Chú thích:

      [4] Tỷ khâu: tiếng Phạn là Bhikkhu, nghĩa gốc chỉ những người tu hành theo đạo Bà La Môn ở Ấn Độ, về sau Phật giáo mượn dùng tên gọi này. Ở Trung Quốc, người ta quen gọi Tỷ khâu là hòa thượng: chỉ những người từ mười hai đến mười bảy tuổi, thân thể khỏe mạnh, xuống tóc tu, khoác áo cà sa và chịu “Cụ túc giới”. Giới luật cụ túc có nhiều cách diễn giải khác nhau, như: Tỷ khâu giới 227 điều, 250 điều; Tỷ khâu ni giới 311 điều, 500 điều. cách tổng quát: Cư sĩ thọ ngũ giới, Sa di thọ thập giới, Tỷ khâu (ni) thọ Cụ túc giới (còn gọi là đại giới).

      [5] Nghi thức này được tác giả viết dựa việc tham khảo nghi thức đón tiếp Trần Huyền Trang khi hòa thượng đến Khâu Từ trong sách “Huyền Trang tây du ký” của tác giả Tiền Văn Trừng. Huyền Trang sống vào thời Đường, cách nhân vật nam chính trong truyện này chừng hai trăm năm, vì vậy nghi thức đón tiếp có lẽ thay đổi nhiều.

      [6] Về việc các nhà sư được phép ăn thịt: Phật giáo Tiểu Thừa chỉ cho phép các nhà sư ăn loại “thịt thanh sạch”, đến nay quy định đó vẫn hề thay đổi trong giới tăng sĩ Tiểu Thừa khu vực Đông Nam Á. Thời gian đầu, khi Phật giáo mới được truyền bá vào Trung Nguyên, cũng cấm ăn thịt. Theo các tài liệu nghiên cứu có lẽ quy định cấm ăn thịt đối với nhà sư bắt nguồn từ thời Nam Triều dưới trị vì của vị vua sùng bái đạo Phật – Lương Vũ Đế.

      [7] Hoạt động biện kinh của Phật giáo Tây Tạng: là môn học biện luận giáo lý Phật giáo dựa phương pháp suy luận logic theo hệ thống lý luận Nhân mình học (hay còn gọi là Logic học Phật giáo). Tiếng Tạng gọi là Thôn- Ni- Tác- Ba, nghĩa là “pháp tướng”. Đó là phương pháp bắt buộc khi nghiên cứu giáo lý Hiển Tông của các Lạt Ma. Biện kinh, cũng là hoạt động tôn giáo đặc sắc nhất diễn ra tại ba ngôi đền lớn ở Tây Tạng. Hoạt động này bắt nguồn từ cuộc tranh biện giữa hòa thượng Đại Thừa thời vua Tshiong Dezan (Xích Tùng Đức Tán) với Liên Hoa Giới (Kamalasila - Đệ tử chân truyền của đại sư Tịch Hộ).

    3. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

            Chương 8: Hòa thượng vĩ đại
       

      Sau cuộc luận chiến, tiếng tăm của Kumalajiba lan truyền khắp nơi, đến đâu cậu ta cũng được người dân vây quanh, tung hoa chúc tụng và chỉ cần được chạm tay vào vạt áo của cậu là ai nấy mặt mày hớn hở, ý chừng rất thỏa nguyện. Ngay cả giáo viên bé như tôi cũng được thơm lây. Lúc ra phố, dân chúng trong kinh thành đều đặt vào tay tôi đủ thứ lễ vật nào là dầu thơm, các loại thịt, hoa quả... Đám lính tráng từng bắt giam tôi, nay gặp mặt là kính cẩn cúi chào. Và đặc biệt, chiến thắng của Kumalajiba giúp cho công việc khảo sát của tôi được tiến hành hết sức thuận lợi, tôi gặp phải đề phòng hay ngăn cản nào cả.

      Hơn mười ngày nữa trôi qua, tôi bấm ngón tay, vậy là chỉ còn khoảng chục ngày nữa, Kumalajiba kết thúc thời gian thuyết giảng Phật pháp ở đây, sau đó chúng tôi lên đường Khâu Từ. Hơn tháng ở lại Wensu, chỗ nào tôi chưa từng lại lại ba lần, vì vậy tôi thực mong mỏi ngày khởi hành Khâu Từ.

      Khi được hỏi: “Nếu có kiếp sau, ông muốn được sinh ra ở đâu”, nhà nghiên cứu lịch sử người Arnold Joseph Toynbee trả lời rằng: “Tôi muốn được sinh ra ở Khâu Từ, vùng đất thuộc Tân Cương ấy, hai nghìn năm về trước từng là nơi giao thoa của rất nhiều nền văn hóa và dân tộc”. Sau khi đọc câu trả lời này, tôi rất khao khát được tìm hiểu về Khâu Từ: nhạc Khâu Từ, Thiên Phật động Kizil, sách của H.Bower, di chỉ Subash và cả nhân vật nổi tiếng nhất nhất Khâu Từ - hòa thượng Kumarajiva! biết ngài Toiynbee nghĩ gì nếu biết rằng ước mơ của ngài sắp được tôi biến thành thực?

      Thế là tôi kết thúc buổi lên lớp tiếp theo với tâm trạng đặc biệt phấn chấn. Tôi giảng cho Kumalajiba về “Luận ngữ”. Những cuốn nhập môn như “Tam tự kinh” tôi có sách trong tay, mà cũng chưa thuộc hết và điều đáng ngại hơn cả là, tôi nhớ “Tam tự kinh” ra đời vào thời đại nào. Để đảm bảo tính an toàn của trật tự lịch sử, tôi quyết định chỉ giảng những cuốn ra đời trước thời Hán. Và cuốn đầu tiên, tất nhiên là “Luận ngữ”, sau đó đến “Kinh thi”, rồi đến “Tả truyện” và “Chiến quốc sách”. Tôi hy vọng tiền học phí từ nay đến khi khởi hành Tràng An đủ để tôi chi tiêu đường.

      Vừa ra khỏi cửa, Kumalajiba bỗng nhiên quay lại:

      - Ngày mai quốc vương đến, chúng ta phải ra đón ngài, cùng nhé!

      Tôi vẫn chưa hết hưng phấn với kế hoạch Khâu Từ, nên hơi bất ngờ:

      - Quốc vương đến đây làm gì vậy?

      - Đến đón mẹ con tôi.

      Sao kia? Vua của nước mà phải đến tận nước khác đón mẹ con họ, thể tin nổi! Tôi vội túm lấy tay cậu ta kéo lại:

      - Cậu , rốt cuộc cậu là ai? Vua Khâu Từ là cha cậu phải ? Cậu là thái tử? Nếu phải vậy vì sao nhà vua lại phải vượt ngàn dặm xa xôi đến tận đây đón cậu.?

      Kumalajiba kéo lại tay áo bị tôi nắm chặt, lắc đầu:

      - đừng như vậy, tôi phải thái tử. Vả lại, Khâu Từ cách đây có ba trăm dặm, đâu phải ngàn dặm xa xôi gì, hơn nữa, danh tiếng và xuất thân...

      - Đều tồn tại chứ gì? Tôi biết cậu vậy mà!

      Tôi ngắt lời Kumalajiba. Cậu càng tôi càng tò mò. cậu ta có người khác . Khả năng tiếng Tochari của tôi còn a, b, c, i, t như trước nữa đâu nhé!

      Tôi cười tinh nghịch, chắn trước bậc cửa:

      - Chúng ta hãy ôn tập lại tiếng Tochari. Mẹ tôi tên là... ba tôi tên là..., trai tôi tên là...

      Cậu ta thở dài thườn thượt:

      - Thôi được, giấu nữa, để phải tìm hiểu bên ngoài, chi bằng tôi cho biết.

      Kumalajiba chớp chớp đôi mắt tinh nhìn tôi, chậm rãi :

      - Tôi phải thái tử. Đức vua Khâu Từ là cậu ruột của tôi, mẹ tôi vốn là công chúa, bà là em của ngài.

      Vậy ra họ đúng là hoàng thân quốc thích, dòng dõi cao quý, chả trách lúc nào người họ cũng toát lên nét vương giả.

      - Vậy còn cha cậu?

      - Ông là người Thiên Trúc (Ấn Độ), lẽ ra ông là người kế thừa ngôi vị, nhưng ông từ bỏ để xuất gia. Ông vượt qua dãy núi phía đông và tìm đến Khâu Từ. Đức vua mời ông làm quốc sư, rồi gả em , tức mẹ tôi cho ông.

      Khoan , sao tôi nghe câu chuyện này quen quá! Chắc chắn tôi đọc ở đâu đó rồi. tia sáng vụt lên trong đầu tôi:

      - Cậu còn có người em trai, đúng ?

      Cậu ta gật đầu:

      - Kém tôi ba tuổi.

      - Mẹ của cậu vốn biết tiếng Phạn, nhưng khi mang thai cậu, bà đột nhiên biết thứ ngôn ngữ này, đúng ?

      - Đó chỉ là tin đồn. Mẹ tôi học tiếng Phạn từ cha tôi.

      - Vậy, có phải, bảy tuổi cậu theo mẹ xuất gia, chín tuổi đến Kashmir và gì nữa, Gandhara và Ka.. gì đó. này khó viết quá!

      Tôi nhớ lại từng địa danh cách khó nhọc.

      - Kabul?

      - Đúng rồi!

      - Lên chín tuổi, tôi cùng mẹ đến Kabul, tại đó tôi theo học Phật giáo Tiểu Thừa.

      - Vậy, cậu... cậu... cậu là...

      Tôi tiếp được nữa, tôi biết cậu ta là ai! Tôi gõ mạnh vào đầu, sao tôi có thể phạm sai lầm lớn như vậy chứ!

      Các bạn, sau nhà Tần đến nhà Hán, đúng ? Cậu ta từng , Trung Nguyên do vua nhà Tần/Thanh cai quản, nhưng lại luôn với tôi về người Hán, tiếng Hán. Nếu lúc này là thời đại nhà Tần trong chữ Tần Thủy Hoàng, vì sao cậu ta lại gọi tôi là người Hán? Cậu ta vừa nhắc đến chữ: “Tần” tôi lập tức mặc định đó là triều đại nhà Tần hiển hách trong lịch sử. Hơn nữa, xưa nay chúng tôi quen với việc tự nhận mình là người Hán, nên tôi hoàn toàn quên mất rằng, cách gọi đó xuất phát từ thời kỳ thịnh trị của vương triều nhà Hán trong lịch sử? Thế nên, nghiên cứu sinh chuyên ngành lịch sử là tôi đây phạm phải sai lầm thể tha thứ.

      Tất nhiên, thể là đời nhà Thanh, vì khi đó Khâu Từ trở thành quá vãng hơn nghìn năm. Nếu vậy, trong lịch sử Trung Quốc, còn triều đại nào được gọi là nhà Tần ?

      Có đấy! Nhà Tiền Tần của Phú Kiên Kiến và nhà Hậu Tần của Diêu Trưởng Kiến, thực ra tiền tố “Tiền” và “Hậu” là do người đời sau thêm vào để phân chia hai giai đoạn, còn tại thời điểm lúc bấy giờ, người ta chỉ gọi là nhà Tần. Điều đó cho thấy, là tôi có mặt ở thời kỳ Ngũ Hồ thập lục quốc. Tức là tôi trở về thời đại lịch sử sớm hơn năm trăm năm so với dự tính ban đầu, kết quả là, ở bên nhân vật lịch sử vĩ đại suốt mấy chục ngày mà tôi hề hay biết.

      Người đó chính là cháu ngoại của vua Khâu Từ ở Tây Vực thời Thập lục quốc, thần đồng với chỉ số IQ 200, hòa thượng với huyết thống cao quý được mọi người sùng kính, thanh niên tuấn tú với dung mạo thoát tục, người được đám sinh viên ký túc xá khoa lịch sử chúng tôi mệnh danh là hòa thượng vĩ đại nhất trong lịch sử, còn có thể là ai khác nữa?

      Sách “Tấn thư” chép rằng: “Có lần ngài thuyết giảng kinh Phật tại chùa Thảo Đường, nhà vua, triều thần cùng với hơn ngàn cao tăng cung kính lắng nghe, Kumarajiva đột nhiên bước xuống, đến gần vùa Diêu Hưng và : Có hai đứa bé cứ nhảy múa vai ta, hãy ban cho ta thiếu nữ. Diêu Hưng lập tức ban cho Kumarajiva mười cung nữ, ngay sau đó, trong số các cung nữ hạ sinh hai con trai”.

      Tôi vô cùng ngỡ ngàng khi đọc đoạn sử này. Quả là có hai. trong lịch sử, ít hòa thượng bị lên án bởi có liên quan đến chuyện tình ái. Hòa thượng Biện Cơ - trợ thủ dịch thuật kinh Phật đắc lực nhất của Huyền Trang từng có quan hệ tình ái nhiều năm với công chúa Cao Dương - người mà vua Đường Thái Tông sủng ái nhất. Nhưng mối quan hệ đó chỉ diễn ra lén lút, giấu giếm. Sau khi vua Đường phát ra, Biện Cơ bị chém làm đôi.

      Nhưng đối với câu chuyện của Kumarajiva, với việc ngài công khai đòi hỏi sắc dục trong bối cảnh trang nghiêm như vậy, dù ở góc độ tôn giáo hay luận thường đạo lý, đều khiến người ta cảm thấy khiếp sợ. Đó là thái độ bất chấp giới luật, ngang nhiên thể dục vọng của mình, xưa nay chưa ai dám làm như vậy. Diêu Hưng tặng ngài cả mười cung nữ và ngài vui vẻ tiếp nhận. Ngài sống trong thiền viện như các tăng sĩ khác mà ở nhà riêng và có người cung phụng. Ngài sống sung túc với vợ con như những người bình thường khác. Vậy mà lòng tôn kính của người đời đối với ngài hề giảm . Thậm chí, hậu thế còn hết lời ca ngợi ngài, tiếng tăm của ngài truyền ra tận nước ngoài. hòa thượng như vậy, chẳng phải là nhân vật vĩ đại trong lịch sử hay sao?

      Nhớ lại cuộc bình xét ở ký túc xá, khi đó sáu bạn nhất trí bầu chọn Kumarajiva, dịch giả kinh phật nổi tiếng thời Thập lục quốc là “hòa thượng vĩ đại nhất trong lịch sử”.

      - Cậu... cậu... cậu chính là Kumarajiva! Cậu là Kumarajiva ư? Trời ơi, cậu chính là Kumarajiva! Cậu chính là nhân vật lịch sử lừng lẫy đó!

      Tôi bối rối đến thốt được lên lời, đầu óc choáng váng, tâm trí rối bời. Giống như là đột nhiên bạn gặp được thần tượng của mình vậy! Chuyến này quả tồi chút nào, tôi lại có cớ để tự hào với chúng bạn khi trở về rồi!

      cốc nước đặt ngay trước mặt tôi, mảnh khăn ướt thấm trán. Tôi ngẩng lên và bắt gặp trong đôi mắt như hồ nước thu ấy vẻ lo lắng giấu giếm:

      - Trán hơi nóng, hình như bị cảm lạnh. Ngày mai tôi căn dặn người làm sắc thuốc cho .

      Tôi nhìn thấy hình ảnh tay chân mình run rẩy phản chiếu trong đôi mắt như hai vực nước sâu hun hút ấy.

      Sau khi uống nước, tôi trở nên bình tĩnh hơn. Ngượng ngùng nở nụ cười ngây ngô:

      - Tôi vô ý quá!

      Cậu ta cũng cười:

      - Tôi chưa từng thấy Ngải Tình như vậy bao giờ. Mà luôn miệng gọi tôi là Kumarajiva, đó có phải tên tiếng Hán của tôi ?

      Tôi gật đầu. Kumalajiba là tên tiếng Phạn của cậu ta, Kumala chính là Kumara. Nhưng còn Jiba sao lại biến thành Jiva được nhỉ? biết ai dịch tên của Kumarajiva sang tiếng Hán, nhưng ràng nghe hay hơn tên Kumalajiba mà lâu nay tôi thường gọi. Sở dĩ tôi nhận ra cậu ta chính là pháp sư lừng danh Kumarajiva, là vì tôi nhầm lẫn thời đại lịch sử. Thêm nữa là vì, phát của từ “Jiba” và từ “Jiva” rất khác nhau. Nên tôi biết người ngày ngày ở bên mình chính là dịch giả kinh Phật hàng đầu Trung Quốc, người được xếp ngang hàng với sư phụ Huyền Trang.

      Tôi hỏi cậu ta về ý nghĩa của tên gọi Kumarajiva trong tiếng Phạn, được trả lời rằng, Kumara là họ của cha cậu, nghĩa là “đồng tử” (cậu bé). Jiva là tên mẹ cậu, nghĩa là “thọ” (nhiều tuổi). Bởi vậy ý nghĩa tên gọi của cậu trong tiếng Hán là “đồng thọ” (cậu bé già dặn). Đặt tên con cái bằng cách ghép họ của người cha và tên của người mẹ vốn là phong tục của người Ấn Độ xưa, cũng có lúc tên gọi còn được đưa thêm vào số ý nghĩa khác nữa, do đó, tên của người Ấn Độ thời xưa rất dài. Chả trách khi đọc sách lịch sử Phật giáo, tôi thể nào nhớ nổi tên của các vị cao tăng Tây Vực và Ấn Độ. Thực là rất dài và rất khó đọc.

      Tôi biết cha cậu là Kumarayana, còn mẹ cậu là Jiva, những tên gọi vốn rất quen thuộc đối với người Hán. Tăng sĩ Tây Vực và Ấn Độ đều dùng tên gọi thông thường, khác với cách dùng pháp hiệu của các nhà sư Trung Nguyên.

      Kumarajiva đặt tập giấy nháp trước mặt tôi và đề nghị:

      - có thể viết tên gọi tiếng Hán của tôi vào đây được ?

      Tôi nắn nót từng nét : Ku- ma- ra- ji- va.

      Cậu ta ngắm nghía tỉ mỉ, đọc lại lượt, rồi ngước lên nhìn tôi, khuôn mặt rạng rỡ niềm vui:

      - Hay! Kumarajiva. Nếu là tên gọi do Ngải Tình đặt, từ nay về sau tên tiếng Hán của tôi là Kumarajiva!

      Tôi giật mình ngẩng lên, bắt gặp đôi mắt trong sáng tràn ngập ánh cười nhìn mình. Tôi bỗng hốt hoảng, thần trí mất tập trung, cứ bay bay tận đâu đâu. có tài liệu nào ghi lại thông tin về người đặt tên tiếng Hán cho cậu ta, lẽ người đó là tôi? Tên gọi mà tôi đọc được ở thế kỷ XXI hoàn toàn trùng khớp với tên gọi mà tôi đặt cho cậu ta 1650 năm về trước. Điều đó có nghĩa là, việc tôi vượt thời gian đến đây và gặp gỡ Kumarajiva đều là tất nhiên ư? Điều này có mối liên quan, logic gì? Tôi chỉ là du khách bên lề lịch sử, hay tôi gia nhập vào thời đại này cách hoàn toàn tình cờ?



                   Chương 9: Tôi muốn xin thôi việc


      Tôi cùng mẹ con Kumarajiva, nhà vua và đại thần Wensu đến trước cổng thành nghênh đón đức vua Khâu Từ. Vì giờ đây tôi biết cậu là là Kumarajiva, nên tất nhiên tôi hiểu vì sao cái tên Wensu nghe quen đến vậy, ra là Wensu, huyện bên cạnh Aksu, thuộc tỉnh Tân Cương. Hai nghìn năm trước, Wensu chỉ là quốc gia , lệ thuộc vào Khâu Từ.

      Sở dĩ quốc gia bé này có trong trí nhớ của tôi là vì Kumarajiva. Cuộc luận chiến nổi tiếng đó sử sách gọi là cuộc luận chiến ở Wensu, nó được xem như bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời đầy thăng trầm nhưng lẫy lừng của Kumarajiva. Sách sử chép rằng, chính nhờ cuộc luận chiến này mà tiếng tăm của Kumarajiva “vang khắp vùng Pamirs, chấn động hải ngoại”, “được quốc vương nhiều nước trọng vọng”. Bởi vậy, đức vua Khâu Từ phải đích thân đến đón Kumarajiva, để các nước khác tranh giành hiền tài.

      Nghi thức đón tiếp diễn ra rất long trọng, thảm đỏ được trải đến tận hoàng cung, nhạc rộn ràng dứt, hoa thơm vương ngập lối . Tôi nhớ vị vua này tên Bạch Thuần, vương triều nhà Bạch vốn do Ban Siêu dựng lên, Tây Vực đô hộ phủ của Ban Siêu đặt tại Khâu Từ. Từ thời Ban Siêu cho đến cuối đời Đường, rồi sau đó Khâu Từ bị người Hồi Hột (Ujur) tiêu diệt, trong suốt tám trăm năm, vương quốc Khâu Từ đều do nhà Bạch nắm quyền cai quản.

      Vị vua Khâu Từ này rất giống Jiva, cũng da trắng, mũi cao, mắt to và sâu, lông mày dày và rậm. Có lẽ Bạch Thuần chưa đến bốn mươi tuổi, thời trẻ chắc hẳn rất tuấn tú. Nhà vua cắt tóc ngang vai như những người đàn ông khác, phía trước để mái lửng, phía sau quấn búi lên đỉnh đầu, rồi buộc gọn lại bằng mảnh vải nhiều màu, thả xuống sau gáy.

      Điều thú vị là trán của nhà vua cũng được nén dẹt xuống. Trong “Đại Đường Tây Vực ký”, Huyền Trang từng viết về tập tục nén đầu ở Khâu Từ. Họ dùng tấm gỗ ép chặt phần đầu phía trước của đứa trẻ. Nhưng tập tục này chỉ được phép áp dụng đối với thành viên của hoàng thất. mừng là Kumarajiva xuất gia từ , nếu vẻ điển trai mê hồn của cậu chắc chắn bị tập tục này hủy hoại.

      Tôi tiếp tục quan sát trang phục của quốc vương. Cũng là áo choàng ngắn, cổ bẻ, ống tay hẹp, thắt eo, ủng cao đến đầu gối, nhưng bên ngoài còn khoác thêm chiếc áo tay lỡ với những hoa văn thêu kim tuyến cầu kỳ. thanh kiếm dài đeo bên hông, tay còn có thêm thanh đoản kiếm. Có vẻ như nhà vua rất thích dùng kiếm.

      Thoáng thấy mẹ con Kumarajiva, nhà vua vội sải những bước dài về phía trước, dang rộng tay ôm chầm lấy hai người. Hai mẹ con Kumarajiva dường như rất xúc động, họ xa nhà những bốn năm trời kia mà. Tôi nghe được bập bõm đoạn đối thoại của họ. Đức vua chúc mừng thành tích học tập và cuộc luận chiến thành công của Kumarajiva. Ông rằng chuẩn bị mọi thứ ở Khâu Từ để chờ đón hai người trở về...

      Khi đức vua Khâu Từ đưa mắt nhìn sang người con đứng cạnh Jiva, ngài có vẻ hơi ngạc nhiên. Tôi căng tai luyện nghe tiếng Tochari, để ý đến ánh nhìn đột ngột đó, nên kịp phản ứng, bất giác nở nụ cười ngờ nghệch. Nụ cười chưa kịp tắt, trong tôi chợt nhen lên cảm giác bất an, thôi thế là xong, tôi mất điểm hoàn toàn rồi, những nghi lễ mà tối qua tôi được học biến mất khỏi đầu tôi, để lại dấu vết.

      Đức vua Khâu Từ cũng ở lại trong cung, nhưng ngài ngự tại cung điện khác. Yến tiệc buổi tối vẫn như thường lệ, được tổ chức đại điện, tôi cũng được tham dự. Nhưng vì mẹ con Kumarajiva ăn tối nên chúng tôi chỉ được uống nước suông. Đôi mắt mở to của tôi dán chặt vào món thịt nướng bàn của hai vị quốc vương, miệng nuốt nước bọt ừng ực. có ca nhạc, có hát múa, buổi tiệc chỉ là bữa cơm thân mật trong gia đình nhân dịp đoàn tụ. Tôi cảm thấy lạc lõng, nên chẳng bao lâu, tôi bắt đầu giở trò ngọ ngoạy chỗ ngồi của mình.

      Đột nhiên tôi bắt gặp ánh mắt quen thuộc chiếu về phía mình, là Kumarajiva. Cậu ta mím chặt môi, cố nhịn cười. Tôi liếc nhìn xung quanh để chắc chắn có ai chú ý, sau đó bóp mũi, lè lưỡi ra chọc cậu ta, Kumarajiva khổ sở mím chặt môi hơn nữa. Cậu quay người sang với hai vị quốc vương, rằng đêm khuya, đức vua Khâu Từ đường thấm mệt, ngài nên về nghỉ ngơi sớm. Sau đó, mọi người cùng nâng cốc (chúng tôi chỉ được phép uống nước) chúc tụng lần cuối, rồi kết thúc bữa tiệc.

      Tôi trở về với cái bụng rỗng , mắt mờ vì đói, vội vàng hạ lệnh cho hầu nữ nấu chút gì đó lót dạ. Trong thời gian chờ đợi đồ ăn, tôi nằm im giường cố gắng hạn chế tiêu hao năng lượng. Trong cơn mê man, mùi hương ngào ngạt bất chợt bốc lên, tôi bật dậy và nhìn thấy đôi mắt sâu như hai vực nước long lanh ánh cười đứng bên giường, tay là đĩa thịt nướng, thơm chết người!

      Tôi kéo vai cậu ta xuống, cảm động :

      - Rajiva, cậu tốt bụng!

      Thực ra tôi suy nghĩ rất nhiều về cách xưng hô với Kumarajiva. Tên tiếng Phạn của cậu ta rất khó đọc, tên tiếng Hán nghe có vẻ khách sáo. Trong các tài liệu liên quan, tên cậu ta có lúc là Rajiva, có lúc là “Jiva”. Sách cổ thường gọi cậu ta là Jiva, còn trong văn bản đại đều viết là Rajiva. Nếu phân tích rạch ròi, Kumara là họ, Jiva mới là tên. Nhưng nếu chỉ gọi là Jiva, nghe ổn lắm. Bởi vậy, sau khi suy tính lại, tôi quyết định gọi cậu ta bằng cách của những người đại, Rajiva. cậu ta cũng vui vẻ chấp nhận.

      Lúc buông tay ra tôi mới nhận thấy khuôn mặt cậu ta đỏ như gấc chín, ánh mắt ra sức tránh né, dám nhìn thẳng vào tôi. Bộ dạng ngượng ngùng, xấu hổ ngây thơ đó đáng !

      Trời đất, tôi vừa làm gì thế này! Lại vỗ cái mạnh vào đầu tự trừng phạt. Cậu ta giật mình, lo lắng hỏi:

      - Ngải Tình, sao vậy?

      Nhìn khuôn mặt đỏ bừng vì thẹn thùng của cậu ta, tôi bỗng bối rối. Đón đĩa đồ ăn từ tay Kumarajiva, tôi giả đói giả khát cắm đầu gặm món thịt nướng để che nỗi xấu hổ dâng đầy. Làm sao có thể để cậu ta hiểu tôi áy náy về hành động mất kiểm soát khi nãy của mình đến thế nào. Dù cậu ta vẫn ít tuổi, tôi cũng thể có những cử chỉ thân mật cách tự nhiên như ở thời đại của tôi được. Vì dù sao có thân phận hết sức đặc biệt và điều đó bao giờ có thể thay đổi.

      lúc sau, sắc mặt Kumarajiva mới trở lại trạng thái bình thường, cậu lấy giọng vu vơ hỏi tôi:

      - Hôm nay chúng ta học bài gì?

      Tôi thở dài, ngừng nhai thịt:

      - Cậu mời người khác dạy , tôi dạy cậu nữa đâu.

      Kumarajiva tỏ ra hết sức kinh ngạc, khuôn mặt vừa tan sắc đỏ chuyển sang tái nhợt:

      - Vì sao? Tôi làm gì sai ư?

      - Cậu làm gì sai cả. Chỉ tại tôi đủ trình độ để dạy cậu nữa. Cậu là Kumarajiva kia mà!

      Khi giảng “Luận ngữ” tôi có sách, cũng thuộc hết. Tôi chỉ giảng cho cậu ta những phần tôi thuộc và tất nhiên là trật tự các bài bị đảo lộn, số chỗ tôi còn nhớ chính xác. Cậu ta vốn thông minh tuyệt đỉnh, chỉ đọc lần là nhớ ngay. Nếu tôi tiếp tục dạy học như vậy, trong đầu cậu ta đầy ắp những lỗi sai. Làm sao cậu ta trở thành dịch giả kinh Phật hàng đầu Trung Quốc được? Tôi cũng gánh nổi tội lỗi tày trời đó. nghiệp phát triển Phật giáo tại Trung Nguyên vẫn trông chờ cậu ta kia mà!

      - Nhưng, nhưng mà, giáo viên rất giỏi!

      Có chút run rẩy trong giọng của Kumarajiva.

      - giảng bài rất hay, nên tôi chỉ nghe lần là nhớ.

      - Đó là vì cậu thông minh, phải do tôi dạy giỏi.

      Tôi nhìn thẳng vào hai vực nước trong vắt ấy, nghiêm nghị:

      - Rajiva, cậu là người thông minh nhất mà tôi từng gặp.

      Giọng của cậu ta êm dịu và lôi cuốn như vò rượu ngon được ủ nhiều năm, nhưng khẩu khí chắc nịch:

      - Ngải Tình, cũng là thông minh nhất mà tôi từng gặp. Vốn hiểu biết của rất phong phú và điều quan trọng hơn là, am hiểu sâu sắc Phật pháp. Vì có người thầy như , Rajiva cảm thấy rất hứng thú với Trung Nguyên. Tôi rất mong được đặt chân đến đó, để có thể tận mắt chứng kiến mảnh đất, bầu trời và gian như thế nào mà có thể khai sinh ra người con thông minh, xinh đẹp như Ngải Tình.

      Những câu ấm áp được thốt lên bằng chân thành, giúp tôi cảm thấy tự tin hơn. Bất giác câu hỏi ra trong đầu: lẽ cảm tình dành cho vùng đất Trung Nguyên của Kumarajiva bắt nguồn từ tôi ư? Nhưng thực là tôi thông minh, tôi đánh cắp kiến thức của người khác, kể cả thành quả dịch thuật của Kumarajiva. Vậy mà cậu ta vẫn khen ngợi tôi có tuệ căn. Nếu ở vào thời đại, chắc chắn tôi bị kết tội vi phạm bản quyền. Thế nên, tôi cứ cúi gằm mặt xuống, dám ngẩng đầu.

      - Nhưng mà...

      Kumarajiva cố nhịn cười khi tôi ngước bộ mặt âu sầu lên nhìn cậu ta:

      - Nhưng nếu có vẻ mặt ngây ngô kia càng thông minh hơn...

      Tên ranh, dám trêu cả giáo! Tôi bật dậy định vít cổ cậu ta xuống, nhưng cậu ta nhanh như chớp, cười ngất và né sang bên. Tôi đuổi cậu ta chạy vòng vòng. Rajiva tuổi trẻ chân dài, tôi già cả bắt kịp. Nhưng tôi tin mình tóm được cậu, nếu thế tôi ra đời trước cậu ta mười năm oan uổng quá! Tôi kêu lên tiếng “ui da”, rồi ngã sõng soài ra đất. Quả nhiên cậu ta vội chạy đến, vẻ mặt lo lắng hỏi tôi có sao . Nhân lúc cậu ta đề phòng, tôi lập tức giơ tay tóm lấy cổ cậu ta.

      - Tên ranh, từ nay về sau cấm chê giáo ngây ngô nhé! Như thế gọi là ngây ngô mà là thà, nhớ chưa? Tôi là giáo của cậu, cậu phải tôn trọng tôi, biết chưa? Dù cậu có là Kumarajiva nữa, trước mặt tôi cũng phải tỏ ra ngoan ngoãn!

      Tôi lắc mạnh chiếc cổ dài thanh tao và nhìn vào khuôn mặt ngày càng ửng đỏ của cậu ta. Hình như tôi xiết tay hơi mạnh. Vội vàng buông cậu ta ra, tôi sát lại, ghé mắt nhìn:

      - Này, tôi có mạnh tay quá ? Cậu có đau lắm ? Xin lỗi nhé!

      Ánh mắt khuôn mặt đỏ như gấc chín ấy lại tìm cách lẩn trốn. Cậu ta quay mặt , tách tôi ra đoạn, miệng lí nhí:

      - Ngải Tình, tiếp tục dạy tôi, được ?

      Tôi lại thở dài, tay túm cằm suy nghĩ:

      - Nhưng tôi có giáo trình, tài liệu gì cả. “Luận ngữ” mà tôi dạy cậu đều là dựa vào trí nhớ, mắc ít lỗi sai. Người xưa có câu: dạy sai kiến thức chi bằng dạy, chớ làm hỏng học trò.

      Vẫn khuôn mặt đỏ lựng nhìn tôi, nhưng ánh mắt trở nên long lanh và khóe môi hé điệu cười rạng rỡ:

      - lo lắng điều này ư? Có khó gì đâu!

       “To teach or not to teach, this is a question”.

      Tôi có cách nào từ chối, nhưng lại sợ truyền đạt sai kiến thức cho cậu ấy. Lẽ ra tôi nên xuất trong cuộc đời cậu ấy. có tôi, cậu ấy vẫn có thể trở thành vị pháp sư lừng danh trong lịch sử. Nhưng nếu ngược lại sao? Rốt cuộc, tôi đóng vai trò gì trong hành trình cuộc đời Kumarajiva? Liệu tôi có tác động xấu đến cậu ấy, để rồi làm sai khác lịch sử? hiển nhiên là cậu ấy vốn biết dù chỉ câu tiếng Hán đại.

      Thấy tôi trầm ngâm hồi lâu, Kumarajiva đặt hai tay lên tay tôi, hơi ấm từ lòng bàn tay cậu lan tỏa khắp người tôi.

      - Ngải Tình, chính Phật tổ an bài để tôi được gặp , tôi thực trân trọng mối duyên này. Tôi lòng muốn học tiếng Hán, nhưng nếu muốn dạy, cũng sao, hãy đến Khâu Từ cùng tôi, rồi mới trở về Trung Nguyên, được ?

      Trong đôi mắt màu xám nhạt long lanh ngấn nước phản chiếu khuôn mặt ủ dột của tôi. Tôi chỉ là người khách qua đường, sớm muộn tôi cũng phải trở về thế giới của mình, dù cho chiếc đồng hồ vượt thời gian tạm thời gặp cố.

      Nhưng việc tôi vượt thời gian và gặp gỡ Kumarajiva thời niên thiếu, nếu dùng chữ “cơ duyên” còn có cách giải thích nào khác nữa? Hai hàng dấu chân cát của chúng tôi chỉ là tình cờ hợp thành , khi hành trình ngắn ngủi đó qua , còn bất cứ gặp gỡ nào nữa. Vậy , việc gì tôi phải suy nghĩ nhiều đến vậy? Chỉ cần từ nay về sau tôi thận trọng hơn trong mọi ứng xử, thể ra bất cứ dấu hiệu mang nét đặc trưng của thời đại mình, tôi tác động và làm thay đổi lịch sử. Nhưng, điều quan trọng hơn hết thảy đó là, tôi thực mong muốn được ở bên chàng trai thiên tài này mỗi ngày, để được đón nhận và cảm nhận tình cảm nồng ấm từ cậu ấy.

      - Nếu vậy, ta đồng ý tiếp tục dạy trò.

      Tôi lồm cồm bò dậy, phủi sạch bụi mông:

      - Thầy trò ta cùng ôn lại kiến thức của buổi học trước.

      Tôi phải nhanh chóng sửa đổi phương thức giao tiếp bằng tiếng Hán đại của cậu ta mới được.

      Cậu ta vừa vui mừng vừa ngạc nhiên, có vẻ chưa thích ứng với lối văn ngôn trang trọng đó của tôi, nhưng cũng thắc mắc, vội vàng đứng lên tìm tập giấy nháp.

      Tối hôm sau, cậu ta xuất ở cửa phòng tôi với cuốn “Luận ngữ” tay.


                   Chương 10: Chúng tôi đến Khâu Từ


      Cuối cùng, chúng tôi cũng lên đường Khâu Từ. Buổi đưa tiễn diễn ra rất náo nhiệt, dân chúng Wensu từ mọi ngả đổ ra phố chính, đứng chen chân hai bên đường. Đức vua Wensu đích thân cưỡi ngựa tiễn đoàn chúng tôi mấy mươi dặm.

      cùng vua chúa quả có khác, chúng tôi được chăm sóc rất chu đáo và vương giả, khác hẳn với khi tôi cùng mẹ con Rajiva. Hàng ngày, Rajiva vẫn đều đặn đến lán trại của tôi học bài sau giờ tụng kinh buổi chiều. Giờ đây tôi có sách trong tay, nên bài giảng cũng ngày trọn vẹn và sâu rộng hơn, tôi luôn mở rộng, bổ sung kiến thức mới cho Rajiva. Tôi thường vận dụng những câu chuyện lịch sử làm dẫn chứng minh họa cho những đạo lý sâu xa của cổ nhân, Rajiva rất hứng thú và luôn hết lời khen ngợi.

      Vua Bạch Thuần có lần đến kiểm tra việc dạy học của tôi, tiếng Hán của ngài rất trôi chảy. Khi ấy tôi giảng sách Luận ngữ “Chương 9: Tử Hãn”, Nhà vua chọn ra câu để thử tài tôi, câu đó là: “Tử viết: Ngô vị kiến hiếu đức như hiếu sắc giả dã”.

      Câu này vốn rất dễ lý giải, tôi suy nghĩ lát, đáp:

      - Khổng Tử than phiền rằng con người coi trọng sắc dục hơn đức hạnh. Thế nhưng người ta ai nấy đều ham muốn sắc dục, bởi vậy háo sắc là biểu chân thực của bản tính con người. Giữa con người và sắc đẹp có lôi cuốn rất tự nhiên, khó lí giải nhưng vô cùng mãnh liệt. Cáo Tử từng : “Nhu cầu ăn uống và sắc dục thuộc về bản năng tự nhiên của con người”. Nhưng đức hạnh phải. Người ta, nếu có coi trọng đức hạnh cũng xuất phát từ nhu cầu tự thân giống như ham muốn mỹ sắc. Người xưa vậy, người nay vẫn thế.

      Tôi ngừng lại, Bạch Thuần gì, nhưng tôi luôn có cảm giác ánh mắt ngài nhìn tôi mấy thiện cảm. Cũng tại tôi ruột để ngoài da, chẳng suy nghĩ thấu đáo, cứ thà phát biểu: háo sắc là thiên tính của con người. Vì sao tôi kịp nhớ rằng, xưa nay các vị hoàng đế vốn thích hô khẩu hiệu to tát và ưa thể diện kia chứ?

      Do đó, tôi vội vã bổ sung:

      - Nhưng chữ “sắc” ở đây hoàn toàn là mỹ sắc, mà chỉ tất cả những thứ đẹp đẽ. Và “đức” cũng là trong số những thứ đẹp đẽ đó. Người coi trọng đức hạnh ngang với coi trọng cái đẹp được gọi là quân tử. Sở dĩ Khổng Tử than phiền như vậy là vì bao năm lênh đênh, chu du khắp thiên hạ, ghé qua hầu hết các nước chư hầu, vậy mà ngài vẫn bơ vơ như kẻ nhà, chỉ vì chưa gặp được vị quân vương nào xem trọng người tài đức như xem trọng sắc đẹp. Nhưng nếu ngài còn sống đến ngày nay, gặp được vị vua minh hiếu đức như đức vua đây, hẳn ngài còn phải thở dài buông lời cảm thán như vậy!

      Biểu cảm gương mặt Bạch Thuần vẫn hề thay đổi, tôi hoang mang biết “nịnh bợ” kiểu đó có chút hiệu quả nào ? “Làm bạn với vua như chơi với hổ”, người xưa quả sai! Ông ta mới là vua của tiểu quốc Tây Vực xa xôi mà vậy, nếu là Tần Hoàng Hán Vũ còn đáng sợ đến thế nào? Chỉ cần khiến các ngài vui là mất đầu như chơi. Chợt như có luồng hơi lạnh chạy dọc sống lưng, tôi chỉ dám hé mắt nhìn trộm ngài. Bạch Thuần thèm đếm xỉa đến tôi, ngài vài câu với Rajiva bằng tiếng Tochari rồi bước ra ngoài.

      Ngày hôm sau, ngài về tôi trước mặt hai mẹ con Rajiva, rằng:

      - giái này còn quá trẻ, thái độ thiếu nghiêm túc, thiếu tư chất của người thầy.

      Tôi giận quá định bỏ . Ông ta tưởng tôi hiểu tiếng Tochari chắc, hay ông ta vốn chẳng thèm quan tâm tới tôi có hiểu hay ? Chắc chắn là tại điệu cười ngu ngốc đó, như vậy chứng tỏ trò nịnh bợ của tôi ngày hôm qua tìm nhầm đối tượng rồi! biết tôi điều gì khiến ông ta phật ý? Ông ta bảo sau khi về Khâu Từ tìm thầy dạy khác cho Rajiva, còn ở Khâu Từ có rất nhiều giáo viên người Hán tài giỏi, kiến thức uyên thâm. Rajiva cảm ơn và từ chối khéo léo, ca ngợi tôi là giáo viên giỏi nhất mà cậu từng gặp, khen tôi là người làu thông kim cổ, tỉ mỉ, tận tâm. Quả làm tôi thất vọng. Bạch Thuần hết cách đành quay sang thuyết phục Jiva, nhưng ni xinh đẹp , bà tôn trọng ý muốn của Rajiva.

      Jiva quả là người mẹ tuyệt vời, chả trách lúc nào Rajiva cũng kính bà! Bạch Thuần cố nhiên là vui, tôi biết ý nên vội vã cúi đầu, vờ như nghe thấy gì.

      Chúng tôi tiếp tục vượt qua Bái Thành, trước mắt còn là sa mạc mênh mông hoang vắng nữa. Những hẻm núi đủ mọi dáng vẻ nối tiếp nhau dằng dặc, bóng lùm cây, dưới ánh mặt trời, khung cảnh ra hùng vĩ hệt như hẻm núi Grand vùng Colorado của nước Mỹ. Chúng tôi bắt đầu tiến vào vùng núi thuộc dãy Thiên Sơn. Rajiva cho tôi biết, vượt qua những hẻm núi kỳ vĩ này, thêm hai mươi dặm sa mạc nữa là đến biên giới Khâu Từ.

      dòng sông xuất giữa những khe núi hiểm trở. Có sông có nước là có ốc đảo. Hai bên bờ là vách núi cheo leo, nơi đây vốn là huyết mạch quan trọng của con đường tơ lụa. Thấp thoáng vài hộ nông dân và nhà trọ. Rajiva với tôi, sông này là sông Muzat, còn núi này là núi Karadag. Tôi thấy những tên gọi này rất quen thuộc. Nơi đây cách Khâu Từ những mấy chục dặm, biết điều gì khiến tôi có cảm giác quen thuộc đến vậy? Tôi nhìn lại lượt khung cảnh núi non trùng điệp, sông suối lượn quanh, ốc đảo xanh tươi với hai bên là vách núi dựng đứng này, địa danh chợt lóe lên trong đầu tôi: Thiên Phật động Kizil.

      - Rajiva, Thiên Phật động Kizil ở đây phải ? Đưa tôi xem có được ?

      Tôi sung sướng tột độ. Thiên Phật động Kizil là quần thể hang đá nằm ở cực Tây, được xây dựng sớm nhất ở Trung Quốc. Giá trị to lớn của di tích này nằm ở các bức bích họa, vẻ đẹp của nó có thể sánh ngang với các bức bích họa ở Đôn Hoàng. Về mặt thời gian những bức bích họa này còn ra đời trước các bức bích họa ở Đôn Hoàng hơn hai thế kỷ. Phong cách nghệ thuật đậm màu sắc tín ngưỡng Phật giáo Đại Thừa, là đặc trưng của nghệ thuật Khâu Từ, là nguồn tư liệu vô cùng quý giá để nghiên cứu về quốc gia này. Tiếc thay, về sau, những người Ujur theo tín ngưỡng Hồi giáo phá hoại nghiêm trọng công trình này. Thêm vào đó, khoảng thế kỷ thứ XIX, nhà khoa học về phương Đông người Đức, A. Von Le Coq cũng đến đây và lấy ít vật quý giá. Nếu tôi được tận mắt ngắm nhìn công trình đồ sộ này khi nó còn nguyên vẹn và phác thảo lại, có giá trị biết bao!

      - Thiên Phật động Kizil nào vậy?

      Dường như cậu ta hiểu. Có lẽ vì Kizil là tiếng Duy Ngôn Nhĩ (Uygur) và vào thời gian này, vẫn chưa xuất tên gọi Thiên Phật động Kizil.

      - Đó là ngôi chùa kiểu kiến trúc hang đá được xây dựng vách núi, bên trong có rất nhiều tranh bích họa và những hang đá kéo dài hàng ngàn dặm, chạy suốt dọc vách núi Karadag.

      Hai mắt sáng lên, tôi xúc động mô tả cho cậu ta nghe, nhưng Kumarajiva dường như vẫn hiểu gì cả. Cậu ta đưa mắt quan sát lượt khung cảnh trước mặt rồi dừng lại ở dãy núi đối diện:

      - Ngải Tình, ở đây có hang đá nào như vừa .

      Lẽ nào tại thời điểm này, Thiên Phật động Kizil vẫn chưa được xây dựng? Tài liệu lịch sử ghi lại rằng công trình này được khởi công vào khoảng thế kỷ thứ III, thứ IV sau Công nguyên, từ thế kỷ VIII đến thế kỷ IX, công việc xây dựng chậm lại và ngừng hẳn. Cho nên, thời điểm khởi công là thời gian này mới phải chứ?

      - Ngải Tình.

      Rajiva đột nhiên ngước đôi mắt sáng long lanh nhìn tôi.

      - Vì sao biết ngôi chùa như thế được xây dựng ở đây?

      Tôi sợ toát mồ hôi. Đúng rồi, sao tôi lại biết được? Thiên Phật động này được xây dựng sớm nhất ở Trung Quốc và bây giờ nó còn chưa ra đời kia mà!

      - Tôi...

      Tôi cười ha ha kéo dài thời gian, rồi chỉ tay về phía con đường uốn lượn ngoằn ngoèo giữa những khe núi hẹp và :

      - Tôi nghĩ rằng đây là nơi mà các lái buôn nhất định phải qua. Những nhà buôn con đường tơ lụa gặp rất nhiều rủi ro, nguy hiểm, nào là thời tiết khắc nghiệt, địa hình hiểm trở, đạo tặc hoành hành. Nguy cơ trắng tay, thậm chí mất mạng là rất lớn. Bởi vậy họ cần Phật pháp như nơi nương tựa về tinh thần, ban cho họ bình an. Nếu xây chùa ở đây, những thương nhân đó chắc chắn ghé qua cầu xin thần Phật phù hộ. Vả lại, nơi này thanh vắng yên tĩnh, rất phù hợp để tu hành.

      Niềm vui ngời ngời lên khuôn mặt Rajiva, ánh mắt cậu ta mỗi lúc long lanh rạng rỡ, tôi thở phào nhõm. Quý Tiễn Lâm từng rằng, nhà buôn và Phật giáo có mối quan hệ hết sức mật thiết. Các khoản quyên tặng và lễ vật cúng bái của nhà chùa chủ yếu dựa vào các thương nhân. Đây chính là lý do vì sao các ngôi chùa và thiền viện Phật giáo hầu hết được xây dựng dọc theo con đường tơ lụa. Và Phật giáo cũng nhờ con đường này, từng bước được truyền bá vào Trung Nguyên. Nên lí do mà tôi đưa ra hoàn toàn hợp lý.

      Tôi quan sát những vách núi cao vút bốn xung quanh, lắc đầu ảo não:

      - Còn vì sao phải khai mở động đá. Là vì nơi đây là hẻm núi, cây cối nhiều, nếu muốn xây chùa bằng gỗ phải vận chuyển từ nơi khác đến, rất tốn kém, hơn nữa, công trình sử dụng chất liệu gỗ rất khó bảo tồn, vì vậy, xây chùa hang đá vách núi là hợp lý nhất.

      Rajiva gật đầu tán đồng:

      - Chùa hang đá mà miêu tả rất giống với kiến trúc chùa chiền ở Ấn Độ và Kabul. Ở những nơi đó, họ xây chùa vách núi vì những con đường huyết mạch đều là đường qua núi.

      Trầm tư lát, cậu ta quay lại, hỏi tôi:

      - Nhưng sao lại gọi ngôi chùa này là Kizil?

      Tôi há hốc miệng, cậu ta vẫn chưa hết nghi vấn à? Tên ranh này sao mà thông minh thế biết!

      - Kizil, Kizil...

      Tôi lẩm bẩm đọc đọc lại cái tên này, vừa đọc vừa suy nghĩ.

      - Đây là từ địa phương, ở nơi tôi sinh sống, Kizil có nghĩa là hang đá.

      May quá, tôi nhanh trí viện ra cái cớ này để lòe cậu ta vì dù gì cậu ta cũng là người nước ngoài.

      Cậu ta nhìn tôi rất lâu, đúng vào lúc tôi bắt đầu lung lay vì lời nới dối của mình, đột nhiên cậu ta tươi cười gật đầu:

      - Ngải Tình rất có lý!

      Cậu ta ngừng lại, suy nghĩ lát rồi hỏi tiếp:

      - Vậy theo , ngôi chùa hang đá này nên thiết kế ra sao để thể được uy nghi của Phật pháp?

      - Cái đó...

      Đâm lao phải theo lao thôi, nếu tôi , chỉ e ngày sau, Thiên Phật động này biến dạng. Tôi ngập ngừng hồi lâu, nhưng sau đó vẫn quyết định trình bày hết suy nghĩ của mình:

      - Trước tiên cần khai mở động đá trong núi, ở giữa dựng các cột trụ, đặt tượng Phật vào các hốc tường phía trước cột trụ, đường hành lang bên trái và gian buồng phía sau vẽ các bức bích họa kể câu chuyện của Phật tổ và các truyền nhân của ngài. Như vậy, tăng ni Phật tử có thể bái Phật ở gian chính, sau đó vòng qua hành lang bên phải về phía buồng sau để ngắm nhìn các tượng Phật ở tư thế nằm cõi Niết Bàn, cuối cùng, quay lại gian thờ chính, ngẩng đầu lên chiêm ngưỡng những bức tranh thuyết pháp của Di Lặc, Bồ Tát ở phía cửa ra vào hang đá. Các bức bích họa được vẽ trong khung hình thoi, với ý nghĩa là núi Tu Di (Sumeru), hình vẽ bên trong kể về câu chuyện của Phật tổ và luật nhân quả.

      Nhìn vẻ mặt chất đầy nghi vấn của Rajiva, tôi hết sức lo lắng, tôi tiếp tục lục lọi trong trí nhớ để tìm kiếm những tài liệu về Thiên Phật động Kizil:

      - À, còn nữa, phải xây các phòng làm nơi tọa thiền cho các tăng sĩ, những phòng đá này cần trang trí bích họa, có thể thiết kế theo kiến trúc phòng ở gắn liền với lối . Phòng đá dành cho tăng sĩ và hang đá chứa bích họa có thể đặt cạnh nhau, tạo nên quần thể thống nhất, đó chính là ngôi chùa Phật giáo.

      - Ngải Tình, từng đến Ấn Độ và Kabul, đúng ?

      - Hả?

      Đúng là tôi từng đến Ấn Độ, nhưng tình hình chính trị ở Kabul, tức vùng Peshawa thuộc Kashmir ngày nay hết sức phức tạp, nên tôi chưa có cơ hội đến đó. Kabul là thành phố cổ đại nổi tiếng nằm con đường giao nhau giữa vùng Nam và Trung Á, là thủ đô của vương triều Kushan do đức vua Kanishka lập nên, là khởi nguồn của nghệ thuật Phật giáo Gandhara và là vùng thánh địa mà tôi mơ ước được đến thăm từ lâu.

      Nhưng vấn đề nan giải nay là tôi phải tiếp tục dối như thế nào đây? ràng, mô hình kiến trúc tôi vừa miêu tả hề có tại Trung Nguyên và thậm chí ngay ở Tây Vực cũng chưa từng có. Nhưng nếu tôi rằng tôi từng đến đó, chắc chắn tôi bị lật tẩy. Cha cậu ta là người Ấn Độ, bản thân cậu ta từng sống ở Kabul mấy năm trời.

      - Tôi... Là vì... Tôi tình cờ gặp nhà sư người Ấn Độ, ông ấy với tôi...

      - Ngải Tình hiểu tiếng Phạn từ khi nào vậy

      Cậu ta ngắt lời tôi, ánh mắt sắc như dao nhìn xoáy vào tôi khiến tôi biết lẩn trốn vào đâu.

      - Tôi...

      Người ta quả sai: dối lần dễ nhưng để duy trì lời dối ấy, bạn phải nghĩ ra thêm nhiều lời dối khác và đến sau cùng bạn vẫn cứ bị lật tẩy.

      - Ngải Tình, chẳng biết dối gì cả!

      - Tôi...

      Thế là tôi bị lộ. Sao khi nãy tôi liều lĩnh như vậy, thốt ra những lời bịa đặt chút suy nghĩ.

      - Rốt cuộc là ai?

      Lại câu hỏi gai góc nữa, đầu óc tôi chao đảo.

      - Tôi...

      Tôi quên mất rằng tên ranh này từng đánh bại nhà biện kinh vô địch Tây Vực. Nếu cậu ta tiếp tục chất vấn, bí mật của tôi chắc chắn thể giữ được nữa!

      - Thôi được rồi, đừng lo lắng.

      Nhìn gương mặt đỏ bừng của tôi, cậu ta bỗng bật cười:

      - Nếu muốn , tôi ép buộc. Tôi thuyết phục đức vua xây dựng chùa hang đá này khi về đến Khâu Từ, đặt tên là Thiên Phật động Kizil. Và tất nhiên xây dựng theo thiết kế vừa .

      Cậu ta nhìn tôi, đôi mắt tinh tỏa sáng, lắc đầu và cười:

      - Ngải Tình, có biết điệu bộ ngơ ngác của khi nãy rất dễ thương ? Bất kể từ đâu đến, thông minh xinh đẹp nhất mà Rajiva từng gặp.

      Hai má tôi bớt nóng, nhưng miệng tôi vẫn chưa khép lại. thể tin được, Thiên Phật động Kizil được xây dựng như thế đấy! Tôi đập khẽ vào miệng mình tự trừng phạt và dặn lòng từ nay cấm năng lung tung. Tôi làm sao mà gánh nổi tội danh làm rối loạn lịch sử kia chứ!

      Quay đầu lại và phát hành động tự phạt vừa rồi lọt vào mắt Rajiva, đen đủi thế biết! Cậu ta gì, nhưng ánh mắt nhìn tôi như nghiên cứu lại như dò la. Kể từ lúc ấy, tôi luôn nhắc nhở mình được nhiều lời.

      Cuối cùng, chúng tôi đến được Khâu Từ. Đội ngũ nghênh tiếp lần này còn long trọng hơn cả khi ở Wensu, từ xa văng vẳng tiếng nhạc mừng réo rắt. Những lán trại chạy dài hàng mấy trăm mét trước cổng thành. Phía trước mỗi lán trại đều có các tăng sĩ với trang phục của các cao tăng hướng về phía chúng tôi hành lễ. Rajiva và Jiva lập tức xuống ngựa, cung kính chắp tay tạ lễ với các cao tăng đó. Tôi chỉ để tâm đến những pho tượng Phật dựng bên trong các lán trại, giá như có thể bảo tồn đến thời đại tốt biết bao!

      Dẫn đầu đoàn nghênh tiếp là phụ nữ trung tuổi, thân hình béo tốt, khoác mình bộ trang phục quyền quý với váy dài thêu kim tuyến tay lỡ, chắc chắn là hoàng hậu! Đám phụ nữ và trẻ ăn mặc cầu kỳ quý phái phía sau hẳn là các phi tần, hoàng tử và công chúa. Tiếp đó là đến các quan văn quan võ, hàng trăm con người cung kính hành lễ với đức vua Bạch Thuần, khí hết sức trang nghiêm. Chỉ trong phút chốc tôi được diện kiến toàn bộ giới quý tộc và hoàng thất Khâu Từ, tôi ước sao có cái máy ảnh ở đây để ghi lại khung cảnh cảm động này.

      Hoàng hậu ôm chầm lấy Jiva và Rajiva, xúc động bật khóc nức nở. Mẹ con Jiva mắt đỏ hoe, họ cùng nhau ôn lại bốn năm xa cách. Tôi để ý đến người trong đám quý tộc phía sau hoàng hậu, người ấy có ngoại hình khác hẳn những người Khâu Từ khác.

      Đó là người đàn ông trung niên, với nước da bánh mật, dáng người rất cao, thân hình mảnh khảnh, lưng dài thẳng tắp, vầng trán hẹp và dài, đôi mắt to sâu trũng in giữa khuôn mặt khắc khổ, đồng tử màu nâu nhạt, thần thái toát lên vẻ thông thái và nhân hậu. Ông thả tóc ngang vai như người Khâu Từ, mái tóc ông cắt ngắn giống kiểu tóc của con người ở đại nhưng lốm đốm sợi bạc. Dù ông mặc mình trang phục của người Khâu Từ, tôi vẫn dễ dàng nhận ra ông là người Ấn Độ. Ở tuổi này, nếu dùng từ “đẹp trai” để miêu tả về ông thiệt thòi cho ông quá! Điều đáng ở đây là khí chất thoát tục ở ông, đó là thứ khí chất thanh cao khiến ông trở nên khác biệt giữa hàng trăm con người, khiến người khác phải chú ý và khi chú ý đến ông rồi khó mà dứt được ánh nhìn để chuyển hướng chỗ khác.

      Ông dắt theo cậu bé chừng mười tuổi, khuôn mặt tròn xoe, làn da trắng ngần giống người Khâu Từ và những đường nét khuôn mặt giống hệt Rajiva, nhưng dễ thương hơn nhiều! Đôi mắt màu xám nhạt ấy bận ngó nghiêng khắp nơi, khi thấy tôi, cậu bé có vẻ hơi ngạc nhiên, cứ chăm chú nhìn tôi mãi. Tôi cười với cậu bé, lén lút làm mặt ngáo ộp trêu chọc. Cậu bé giật mình, vội vã quay mặt .

      nghi ngờ gì nữa, người đàn ông Ấn Độ ấy chính là Kumarayana, người từng từ bỏ ngôi vị để xuất gia, người từng vượt qua dãy núi Pamirs ở phía đông để đến đất Khâu Từ và được đức vua nước này phong làm quốc sư, là cha của Kumarajiva và là người mà năm xưa Jiva tìm mọi cách để được lấy làm chồng. Cậu bé có khuôn mặt giống Kumarajiva như đúc kia chính là em trai của cậu, tôi nhớ tên cậu bé là gì. Trong “Truyện cao tăng”, Tuệ Giảo chỉ ghi lại cái tên, tức là trong phát triển của lịch sử, cậu bé đó chỉ tồn tại vì là em trai của Kumarajiva.

      Hoàng hậu ngừng khóc, đưa hai mẹ con Rajiva đến bên Kumarayana, Jiva chắp tay hành lễ trước người từng là chồng của bà, nỗi nhớ nhung bịn rịn ngập đầy trong đôi mắt thẳm sâu của Kumarayana. Chắc hẳn ông rất muốn ôm bà vào lòng, nhưng ông chỉ lặng nhìn bà vài giây, rồi cũng chắp tay tạ lễ. Chú bé tinh nghịch cần biết trời cao đất dày gì, cứ thế lao vào ôm chầm lấy mẹ kêu khóc thảm thiết, Jiva cũng ôm chặt lấy đứa bé, nước mắt chan chứa. Rajiva quỳ lạy cha, nhưng Kumarayana vội vàng đỡ cậu lên. Cha con họ đều rất xúc động, họ trò chuyện với nhau bằng tiếng Phạn.

      Nghi lễ đón tiếp diễn ra hơn tiếng đồng hồ. Kumarayana xin phép đức vua được đưa vợ con về phủ, Jiva phản đối, có lẽ vì bà cũng rất nhớ con. Thế là tôi cùng gia đình họ trở về phủ quốc sư.

      Tôi tìm hiểu và được biết em trai Rajiva tên là Pusyseda, đó là tên tiếng Phạn, vậy là lại có thêm cái tên khó đọc nữa.

    4. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

      Chương 11: Tôi có thêm học sinh


      Jiva và Rajiva chỉ ở lại nhà ba ngày, rồi chuyển đến chùa Vương Tân (chùa Tsioli). Đó là ngôi chùa của hoàng gia, tọa lạc khu đất phía Tây hoàng cung, cách phủ quốc sư chừng mười lăm phút bộ. Trước khi chuyển , Rajiva sắp xếp chu đáo mọi việc: Vì tôi là giáo của cậu nên vẫn được ở lại trong phủ. Hàng ngày cậu về nhà sau giờ tụng kinh buổi chiều để học bài.

      Kế hoạch đến Trung Nguyên phải hoãn lại, vì nay là mùa đông, tuyết rơi dày đặc, đóng băng mọi ngả đường, các đội lái buôn tạm dừng hành trình. Nếu muốn , phải chờ đến mùa xuân năm sau. Vả lại, tôi cũng vội vàng gì. Vừa mới chân ướt chân ráo đến Khâu Từ, tôi còn chưa bắt đầu công việc khảo sát của mình, mà tiếng Tochari tôi cũng chưa học ra ngô ra khoai gì cả. Có người chịu cấp cho tôi nơi ăn chốn ở tử tế, có lý gì tôi lại từ chối công việc dạy học này.

      Chủ nhà, Kumarayana hiếu khách và rất đôn hậu, lúc nào ông cũng ân cần, chu đáo với tôi. Ông nho nhã, lịch thiệp giống hệt giáo sư ở các trường đại học vậy. Giá như trường tôi có giảng viên như ông, chắc chắn toàn thể học sinh nữ của trường đua nhau đăng ký môn ông giảng dạy, lớp học có chỗ ngồi, thậm chí, hành lang cũng chật cứng ấy chứ. Nếu ông dạy tiếng Phạn, thầy Quý còn phải rầu rĩ than phiền vì có sinh viên nào chịu theo học ngôn ngữ này nữa. Kumarayana hoàn toàn tin tưởng ở tôi, ông bao giờ gặng hỏi tôi về phương pháp lên lớp. Và sau khi nghe Rajiva tán dương tôi, ông còn đề nghị tôi tiếp nhận thêm học sinh nữa.

      Tôi kịp dạo quanh mấy vòng thành cổ Khâu Từ. Quốc gia này có ba tòa thành quách rộng lớn, được canh phòng nghiêm ngặt. Chính giữa là cung điện nguy nga tráng lệ. Diện tích tòa thành lớn gấp năm, sáu lần tòa thành Wensu mà tôi từng khảo sát. Tín ngưỡng Phật giáo được đón nhận nồng nhiệt ở nơi đây. Đến đâu cũng bắt gặp đền chùa, miếu mạo hoặc to hoặc được xây lên với mật độ dày đặc.

      Khâu Từ dựa lưng vào núi Thiên Sơn ở phía bắc, được xem là quốc gia có nguồn nước dồi dào nhất Tây Vực, vì vậy trồng trọt và chăn nuôi rất phát triển. Núi Thiên Sơn lại dồi dào khoáng sản, có thể cung cấp cho tất cả các quốc gia trong khu vực. Thêm vào đó, Khâu Từ nằm giao lộ của con đường tơ lụa, thương nghiệp phát triển kèm theo phát triển rực rỡ của thủ công nghiệp. Vì vậy, Khâu Từ là quốc gia giàu có nhất ở Tây Vực.

      Mỗi ngày, từng đoàn ngựa thồ tơ lụa lũ lượt qua lại những trục đường chính, cảnh buôn bán, trao đổi hàng hóa giữa các thương lái diễn ra cực kỳ tấp nập, ngựa xe như nước như nêm. Cả thành phố hệt như buổi triển lãm của các sắc tộc: Người Yue Zhi, Wusun, Hung Nô, Turk, Sienpi, Joujan, Mông Cổ, Ba Tư, Iran, Ấn Độ, thậm chí cả những người thuộc chủng tộc người châu Âu đại như: Hy Lạp và Roma và rất nhiều người Hán. Mỗi lúc bước chân ra phố, tôi đều dừng lại, mê mải ngắm nhìn dòng người đủ mọi màu da và trang phục qua lại trước mặt. Chỉ đến khi cậu học trò mới dắt tay tôi bên cạnh vác bộ mặt khinh khỉnh nhìn lên, tôi mới cất bước tiếp trong nuối tiếc.

      Nhắc đến cậu học trò mới này mới nhớ, cậu ta chính là vấn đề khiến tôi đau đầu nhất nay.

      chú nhóc trắng trẻo, cực kỳ đáng say sưa cầm bút chì vẽ nguệch ngoạc lên tập giấy nháp của tôi, sau đó dùng cục tẩy xóa rồi lại tiếp tục vẽ. Cậu nhóc coi dụng cụ học tập có thể sử dụng nhiều lần này của tôi là thứ đồ chơi hấp dẫn nhất, cứ miệt mài vẽ vẽ xóa xóa cả ngày chán.

      Tôi đứng bên, lòng đau như cắt:

      - Cậu ơi, ông ơi, quỷ sứ ơi! Cậu nghĩ nhà tôi mở cửa hàng bán dụng cụ học tập chắc? Cục tẩy chỉ còn nửa, bút chì cũng chỉ còn nửa cây, lại mất oan thêm ba trang giấy nữa rồi. Cậu có biết những thứ này đều là tài nguyên thể tái sinh ? Cậu dùng hết của tôi như thế, ở cái thời đại này, cậu đâu mà mua đền cho tôi đây hả?

      Thực ra trong túi tôi vẫn còn, nhưng ai mà biết được tôi phải ở lại đây bao lâu nữa, thế nên tôi thể tiết kiệm.

      Cậu nhóc thèm để ý đến lời van xin của tôi, vẫn tiếp tục vẽ. Mà cũng vì cậu ta chưa hiểu tiếng Hán. Nhưng khi tờ giấy thứ tư “qua đời”, tôi thể nhẫn nhịn thêm được nữa, liền quát to bằng tiếng Tochari:

      - Đừng. .. vẽ. .. nữa!

      Cái giọng nạt nộ sư tử Hà Đông của tôi chẳng ăn thua. Cậu nhóc ngước đôi mắt to tròn, sáng long lanh nhìn tôi chớp chớp. Đôi mắt giống hệt Rajiva, đều thừa hưởng từ cha đôi đồng tử màu xám nhạt và mái tóc xoăn hung đỏ của mẹ. Đôi mắt ấy đảo qua đảo lại vài lượt, rồi buông bút chì, trèo xuống ghế, lao thẳng vào lòng tôi:

      - Thế chị hát cho em nghe !

      Lại thế rồi! Lần trước Kumarayana có việc phải Gumo, mấy ngày liền về, đêm nào cậu nhóc cũng lẻn vào phòng tôi đòi ngủ cùng. muốn phí sức quát nạt, tôi đành hát ca khúc thiếu nhi cho cậu ta nghe. Nào ngờ, kể từ hôm đó, ngày nào cậu nhóc cũng vòi tôi hát cho bằng được và còn cầu được hát trùng bài. Thế là các ca khúc đại của tôi trở thành nhạc ru. Xui xẻo đến thế là cùng!

      Tôi thở dài, nhích sang bên, nhường nửa phần ghế cho cậu nhóc ngồi lên và tựa người vào lòng tôi. Vừa khe khẽ hát bài “Ngủ ngoan bé ” của Châu Hoa Kiện, vừa vỗ nhè vào lưng cậu. Cậu nhóc nhắm tịt mắt lại, hai hàng lông mày dài và mượt mà càng tôn thêm sống mũi cao thanh tú, rất đáng !

      Tôi có thể hiểu được vì sao cậu nhóc thích quấn tôi như vậy. Mẹ và trai đều phụng Phật tổ, cậu ta vừa lên sáu mẹ bỏ ra nước ngoài, bốn năm biền biệt, bặt vô tín. Vú già, người gần gũi nhất, chăm sóc cậu từ qua đời mấy năm trước. Tuy trong nhà ít người hầu và bảo mẫu, nhưng ai có thể cho cậu ta tình thương của người mẹ. Ở tuổi này, cậu nhóc rất cần có bạn, tuy hàng ngày vẫn vào cung học bài cùng các hoàng tử, nhưng về đến nhà, ai chơi với cậu, nô đùa với cậu. Người hơn cậu ba tuổi trở nên già dặn từ rất sớm, mà bốn năm rồi họ gặp nhau. Mỗi lần nhìn thấy Rajiva, cậu nhóc tỏ ra rất dè dặt.

      Bởi vậy xuất của tôi vừa đóng vai trò người mẹ, vừa là bạn chơi đùa, vừa là đối tượng để ngày ngày cậu vòi vĩnh, nũng nịu. Những hành động nghịch ngợm của cậu chẳng qua là để thu hút chú ý của tôi, vì muốn được tôi quan tâm hơn mà thôi. Nhưng như vậy khổ cho tôi quá! Mỗi ngày tôi phải diễn biết bao nhiêu vai: lúc đầu là quân lính dưới trướng của đại tướng quân, nghe tướng quân sai khiến vào báo cáo tình hình. Sau đó lại vờ giả giọng quân địch khiêu chiến với đại tướng quân. Và cuối cùng giả làm bại trận giương cờ trắng đầu hàng và xin tha mạng. Ngày ngày phải nô giỡn, chạy đuổi, chiến đấu với cậu nhóc tuổi ăn tuổi lớn, khiến tôi mệt thở nổi.

      Khi làn điệu thương , ru vỗ kết thúc, cũng là lúc cậu nhóc chìm vào giấc ngủ say sưa. Tôi ôm cậu đặt lên giường. Tay bóp vai, miệng khẽ lẩm bẩm: Nhóc nặng quá, lớn thêm chút nữa chắc chị bế nổi. Mười tuổi rồi mà vẫn ham chơi như con nít ấy. Mới hát hết bài mà say sưa ngủ.

      Tuyết rơi ngớt mấy ngày qua. Tôi là người vùng Giang Nam, nên mặc dù hiệu ứng nhà kính làm cả trái đất nóng lên, tôi vẫn rất ít khi được chứng kiến những trận tuyết lớn như thế này. Mấy ngày đầu tôi rất thích thú, còn hào hứng kéo Pusyseda cùng đắp người tuyết. Nhưng chẳng được bao lâu, tôi bắt đầu thấy chán, vì tuyết rơi quá dày mà tôi sợ lạnh. Nên từ hôm đó, tôi rất hạn chế ra khỏi phòng, công việc khảo sát cũng phải tạm gác lại bên. May mà Rajiva mang đến cho tôi rất nhiều sách tiếng Hán: “Sử ký”, “Tả truyện”, “Lã thị xuân thu”, “Chiến quốc sách”, “Kinh thi”,. .. những cuốn mà tôi đọc từ lâu. Và cả số thư tịch vốn thất truyền như “Thạch thị tinh kinh”.

      Phòng đọc sách của gia đình Rajiva có rất nhiều kinh văn và tài liệu viết bằng các thứ tiếng: Phạn, Tochari, Brahmi, Kharosthi, với nội dung phong phú, đa dạng, đề cập đến hầu hết các lĩnh vực: thanh vận, ngữ văn, công nghệ, kỹ thuật, phương pháp tính lịch, y học, logic học, thiên văn học, nhạc luật và lịch pháp.

      Tôi nhìn kho sách đồ sộ ấy mà thèm thuồng. Nếu như có thể đưa chúng về thời đại, có giá trị nghiên cứu lớn lao đến nhường nào. Phần đông mọi người thể mua nổi những thư tịch của thời đại này, vì mỗi cuốn sách có giá trị tương đương bằng năm thu nhập của người dân. Đó là chưa kể những cuốn sách được viết lụa. Rồi những công văn của quan phủ, những khế ước mua bán, phần lớn đều được viết gỗ, vì giấy viết đắt hơn gỗ rất nhiều lần.

      Nhìn bên ngoài, phủ quốc sư trông rất giản dị, cách bày trí cũng đơn giản, ra toàn bộ của cải giá trị nhất đều nằm trong căn phòng này.

      Thế nên, mỗi ngày tôi đều đến và ngồi lì ở đây mấy tiếng đồng hồ, miệt mài chép lại những tài liệu quý giá đó. Tôi từng nghĩ đến việc mua, nhưng ở đây có rất nhiều cuốn sách, mà dù có cầm bao nhiêu tiền ra phố cũng thể mua được. Đó là những cuốn mà Kumarayana mang về từ Ấn Độ, hay những cuốn sách quý hiếm do sứ giả các nước lân bang dâng tặng vua Khâu Từ. Nếu tôi thể mang , vậy chỉ còn cách chép lại. Do vậy, hơn mười ngày qua , với tôi hề buồn tẻ.

      Hàng ngày, mỗi khi về đến nhà, Rajiva vào chào cha, rồi đến chỗ tôi học bài, sau đó đến thư phòng đọc sách. Cậu ta lặng lẽ đọc sách, tôi lặng lẽ chép sách. Lúc về chùa, cậu thường mang theo cuốn sách còn đọc dở dang, nhưng hôm sau thấy cậu ta đổi lấy cuốn mới. Có hôm cậu về nhà khi giờ học của Pusyseda vẫn chưa kết thúc. Cậu lặng lẽ ngồi bên cạnh nghiên cứu trước bài học. Đến lúc tôi bắt đầu giờ dạy cậu thuộc làu những nội dung tôi sắp thuyết giảng, nhiều chỗ tôi đọc sai, cậu ta còn nhàng nhắc nhở, khiến tôi toát cả mồ hôi. Cậu ta tưởng tôi là thiên tài chắc. Kiến thức lịch sử của năm ngàn năm chứ ít à, sai vài chỗ có sao đâu? Tôi tức quá cốc vào đầu cậu ta cái, cảnh cáo cậu ta được qua mặt giáo viên.

      vừa ôn lại những kỷ niệm làm gia sư trong hơn mười ngày qua ở phủ quốc sư, vừa kéo chăn lên đắp cho Pusyseda, chợt có cảm giác lành lạnh sau lưng, ra là Rajiva. Cậu vén tấm rèm chắn gió và đứng tựa lưng bên bậu cửa, nhìn tôi.

      - Ủa, sao hôm nay cậu về sớm vậy?

      Giờ tụng kinh buổi chiều của Rajiva bắt đầu từ bốn giờ và kết thúc lúc năm giờ. Vì vậy, thông thường, khoảng sáu giờ cậu ta mới đến chỗ tôi học bài. Nhưng hôm nay năm giờ ba mươi phút có mặt. Bạn thắc mắc vì sao tôi nắm được giờ giấc chính xác như vậy ư? Vì chiếc đồng hồ vượt thời gian của tôi có cả chức năng báo giờ, có cả lịch , dương đối chiếu nữa, rất tiện dụng. Từ khi chức năng vượt thời gian bị hỏng, chiếc đồng hồ này chỉ có thể dùng để xem giờ. Nên tôi vẫn ngày ngày đeo nó tay, mọi người nhìn thấy cũng chỉ cho rằng đó là chiếc vòng tay kì dị.

      Còn điều này nữa tôi cần phải . Múi giờ ở Tân Cương và Bắc Kinh chênh lệch nhau hai tiếng. Vì vậy, khi du lịch Tân Cương, tôi thường điều chỉnh thời gian theo giờ địa phương. Nếu thời gian biểu hằng ngày của tôi trở nên rất quái dị vì: mười giờ sáng thức giấc, hai, ba giờ chiều ăn trưa, buổi tối chín giờ đèn vẫn sáng trưng, giờ đêm mới ngủ. Dù sao 1650 năm trước, con người vẫn chưa có khái niệm về chênh lệch múi giờ, nên tôi điều chỉnh theo giờ ở Tân Cương thế kỷ XXI.

      - Tôi vào cung trò truyện với đức vua, sau đó về thẳng đây.

      Cậu ta bước vào phòng, liếc nhìn Pusyseda ngủ giường, rồi đột nhiên bằng tiếng Tochari:

      - Đừng giả vờ nữa!

      Pusyseda lập tức mở mắt, trườn xuống khỏi giường, khuôn mặt ửng đỏ, miệng lí nhí:

      - trai!

      Tôi trợn tròn mắt, thằng bé láu lỉnh này, dám giả vờ ngủ để được tôi bế lên giường. Vẫn vẻ thản nhiên khi nãy, Rajiva nhắc nhở Pusyseda về phòng ngủ. Pusyseda sợ trai hơn cả cha, nên vội vàng lủi ngay.

      - Cậu ấy còn , nên nghiêm khắc quá.

      Bản năng người mẹ trong tôi chợt trào dâng, tôi chưa bao giờ nặng lời hay gay gắt với Pusyseda.

      - Bài hát khi nãy rất hay.

      Cậu ta khéo léo đổi đề tài.

      - Chỉ là mấy ca khúc thiếu nhi của người Hán thôi. Nhạc Khâu Từ chắc hay hơn nhiều.

      nhạc Khâu Từ nổi tiếng khắp vùng, ai nấy đều biết”, đó là lời ca ngợi của Huyền Trang về nhạc Khâu Từ.

      - Tôi chưa được nghe bao giờ.

      Cậu ta ngập ngừng, chút buồn vương đôi mắt.

      - Cha mẹ tôi chưa bao giờ hát ru tôi như .

      Tôi bật cười tưởng tượng cảnh Kumarayana và Jiva hát ru các con, có lẽ thay vì hát họ tụng kinh.

      Rajiva hơi ngạc nhiên khi thấy tôi cười. Tôi vội đề nghị:

      - Cậu có muốn nghe ?

      Cậu ta hơi do dự, trả lời tôi, chỉ cúi đầu im lặng. Rồi như phải quyết tâm lắn, cậu ta mới ngẩng đầu nhìn tôi gật mạnh cái. Tôi thấy hơi lạ, chỉ nghe bài hát thôi mà, việc gì phải đắn đo đến vậy? Tôi hát lại bài “Ngủ ngoan bé ”. Rồi, tôi chợt nhớ đến trường đoạn Song Hye Kyo vừa sáng tác lời vừa tự biên tự diễn những điệu nhảy rất mắc cười trong phim “Ngôi nhà hạnh phúc”. Điệu nhảy chẳng có gì là nghệ thuật, nhưng có tác dụng gây cười rất tốt. Thế là tôi ra sức bắt chước điệu nhảy đó. Tiểu hòa thượng đẹp trai trước mặt tôi cười rạng rỡ, đó là điệu cười thoải mái, vô lo vô nghĩ thường thấy ở thiếu niên mười ba tuổi.

      Tôi hát xong rồi mà cậu ta vẫn tiếp tục cười sảng khoái, nụ cười rất đẹp. Tôi lặng lẽ ngắm nhìn Rajiva, muốn in lại hình ảnh trẻ trung đó trong trí nhớ. Suốt mấy ngày tôi hì hục vẽ Rajiva, vì tôi muốn đem hình cậu ta trở về thời đại, để mọi người ở thế kỷ XXI được chiêm ngưỡng chân dung sống động của vị hòa thượng vĩ đại 1650 năm về trước. Nhưng tôi vốn phải họa sĩ, tôi có thể phác thảo hình cắt ngang cắt dọc của vật thể, nhưng vẽ chân dung quả là trình độ còn hạn chế. Vẽ vẽ lại nhiều lần vẫn ưng ý. Chưa đến thần thái thoát tục của cậu ấy, chỉ riêng ngoại hình của cậu ấy cũng chưa đạt nổi ba phần. Lúc này, tôi ước gì có cây bút thần. Nụ cười ấy, đẹp như tạc, nếu có thể họa lại, để lưu giữ đến ngàn sau, tuyệt biết bao!

      Khuôn mặt Rajiva lại bắt đầu ửng đỏ, ánh mắt phiêu du xa xôi. Tôi chợt tỉnh cơn mơ, khi nãy chắc là tôi nhìn cậu ta chăm chú quá khiến cậu ta mất tự nhiên. Tôi vội vàng tìm cách chuyển chủ đề:

      - Này Rajiva, đức vua gặp cậu có việc gì thế?

                  Chương 12: Vì sao xuất gia?


      - Đức vua muốn tôi hoàn tục, trợ giúp ngài xử lý công việc triều chính.

      - Cậu từ chối, đúng ?

      Nếu , chúng ta làm sao có được dịch giả vĩ đại chứ!

      - Sao biết được?

      Rajiva nghiêng mắt nhìn tôi, vẻ ngạc nhiên.

      - Vì cậu là Kumarajiva kia mà!

      như vậy chỉ người đại mới hiểu được. Thế nên tôi vội vàng đổi giọng:

      - Bởi vì, cậu chỉ muốn giải thoát cho bản thân bằng con đường tu hành sau khi thấu tỏ luân hồi sinh tử, tránh xa dục vọng và đạt đến cảnh giới cao nhất, mà cậu còn mong muốn cảm hóa con người, cứu rỗi chúng sinh, tu thành chính quả, cứu giúp cuộc đời.

      Trong những ngày lênh đênh sa mạc, chúng tôi từng thảo luận về lí tưởng. Khi ấy tôi vẫn chưa biết cậu ta là Kumarajiva, nên dám mở lời. Nhưng giờ đây, tôi biết được thân phận của cậu ấy, lại từng đọc tài liệu về cậu ấy, nên tôi hiểu Rajiva trăn trở điều gì.

      Tôi luôn cho rằng Phật giáo là tôn giáo thú vị và các vị cao tăng tín Phật đều là những triết gia.

      Trước khi viên tịch, Phật Thích Ca Mâu Ni (Sakya Mani) để lại bất cứ kinh văn có tính chuẩn mực nào giống như “Kinh Thánh” của đạo Cơ đốc hay “Kinh Coran” của đạo Hồi và khi ấy, Phật giáo cũng mới chỉ là chi phái trong số rất nhiều tôn giáo lớn ở Ấn Độ. Nhưng kể từ thời đại Thích Ca Mâu Ni, Phật giáo có những chi phái của mình, như chi phái do người em họ Devadatta của Đức Phật lập nên chẳng hạn.

      Các đệ tử của Phật tổ cũng có những kiến giải giống nhau về giáo lý Phật giáo. Những người có tư tưởng khác biệt thường viết ra bộ kinh văn và lập nên giáo phái của riêng mình. Bởi vậy, mấy ngàn năm qua, các tông phái Phật giáo ra đời như nấm sau mưa, tổng hợp các loại kinh văn từ những tông giáo này có thể phải mấy đời mới đọc hết. Đại Thừa, Tiểu Thừa, Mật Tông là những nhánh chính, còn những nhánh khác nhiều vô kể. Tiểu Thừa có Tuyết Sơn Bộ với thuyết “nhất thiết hữu bộ” (tất cả, quá khứ, tại và tương lai đều hữu đồng thời). Phật giáo Đại Thừa ở Trung Nguyên có Thiên Đài Tông, Tịnh Thổ Tông, Pháp Tướng Tông, Hoa Nghiêm Tông, Thiền Tông. Giáo phái Mật Tông Tây Tạng có: Gelugpa giáo, Nyingmapa giáo, Kagyur giáo, Sakya giáo, Hoàng giáo, Hồng giáo, Hoa giáo, Hắc giáo, nhiều đến nỗi hồi du lịch Tây Tạng, mặc dù đọc rất nhiều sách, tôi vẫn lơ mơ hiểu gì hết.

      nhiều như thế là để giải thích vì sao Phật giáo lại có nhiều tông phái đến vậy.

      Có thể thấy rằng, các vị cao tăng đều đắc đạo, sáng lập ra giáo phái riêng ấy đều là những triết gia uyên bác. Phật giáo là tôn giáo có sức lôi cuốn mãnh liệt với những con người trí tuệ siêu việt này. Thử nghĩ xem, nếu bạn là người có trí tuệ vượt xa người bình thường, với tầm tư duy mà người bình thường có được và cơ sở ngược lại những giáo lý truyền thống, bằng con đường tôn giáo, bạn có thể phát biểu nhân sinh quan, thế giới quan hay những kiến giải uyên thâm của bạn về thế giới tinh thần, để được ngàn vạn người cảm phục, ngưỡng mộ và tin theo. Điều đó vĩ đại. Đối với các vị cao tăng, nếu có thể đem toàn bộ những kiến thức tích lũy đời xây dựng lên những học thuyết, những giáo lý với quan điểm của riêng mình, rồi lập ra tông phái riêng, đó là thành tựu lớn nhất trong lĩnh vực Phật học.

      Rajiva thông minh trác tuyệt, lại giỏi tư duy, biện luận khác triết gia, chắc chắn cậu ấy cũng muốn được trở thành người cha tinh thần của vạn người, giác ngộ và dẫn dắt chúng sinh đến cảnh giới mà cậu cho là tuyệt đối. Tuy mới mười ba tuổi, nhưng tôi tin rằng, cậu sớm hình thành nhân sinh quan và thế giới quan đó từ lâu rồi.

      Tôi cứ mải mê theo đuổi những suy nghĩ bất tận của mình mà nhận ra khí im lặng kéo dài từ nãy đến giờ. ra Rajiva nhìn tôi chăm chú, khóe môi hơi run run, ánh mắt như muốn dồn tất cả ánh sáng vào tôi, đôi mắt ấy như thưởng thức, như xúc động và nhiều hơn cả là cảm giác như được an ủi bởi vừa gặp được tri .

      - Ngải Tình, Rajiva có phẩm hạnh gì mà được gặp giữa nhân gian rộng lớn này.

      Tôi cười gượng gạo. Chẳng qua vì tôi đọc được những tài liệu viết về cậu ta, tôi biết lúc đầu Rajiva theo học Phật giáo Tiểu Thừa nhưng sau đó chuyển sang Đại Thừa. Những gì tôi vừa chỉ là khái quát, tựu chung điểm khác biệt cơ bản giữa hai tông phái này mà thôi. Vả lại trước đó, Rajiva cũng từng thể nỗi trăn trở, nên tôi có thể đoán được mối suy tư lúc này của cậu chính là vấn đề thay đổi tông phái.

      - Ngải Tình, còn nhớ buổi tối nọ sa mạc, từng hỏi tôi vì sao lại xuất gia ?

      Ánh mắt Rajiva bỏ tôi ở lại, để trôi về nơi xa xăm. Tôi xốc mình ngồi ngay ngắn, để có thể lắng nghe cách nghiêm túc.

      - Năm tôi lên bảy, mẹ tôi ra ngoại thành du ngoạn, thấy xác người đầy gò, xương trắng đầy đồng, bà nhận ra rằng, tham lam là nguyên nhân gây ra mọi đau khổ. Dục vọng của con người khủng khiếp tựa ngọn lửa dưới địa ngục, ngọn lửa ấy thiêu đốt con người thành tro bụi, khiến con người phải phơi xác chốn đồng hoang. Bà muốn phải chịu đựng những dày vò khốn khổ ấy thêm nữa, nên thề rằng: nếu thể cắt tóc tu, bà ăn uống gì hết. Cha tôi lúc đầu phản đối kịch liệt, nhưng mẹ quyết chí tuyệt thực. Cho đến buổi tối ngày thứ sáu, khi hơi thở của mẹ mỏng như làn gió, mà bà vẫn chịu ăn uống. Cha tôi hoảng sợ, đành nhận lời với bà. Nhưng mẹ sợ cha đổi ý, cầu phải để bà xuống tóc trước rồi mới chịu ăn. Ngày hôm sau bà thọ giới, ra khỏi nhà, chuyển đến tu tại chùa Tsio- li.

      Truyện kể về Rajiva chép rất ràng nguyên nhân Jiva xuất gia, nên tôi khẽ gật đầu:

      - Vì vậy, cậu theo mẹ xuất gia?

      Rajiva lắc đầu, ánh mất dừng lại hồi lâu ngọn đèn dầu đu đưa trong gió, dường như cậu nhớ lại điều gì.

      - Sau khi mẹ xuất gia, vì quá nhớ thương bà, tôi thường xuyên đến chùa thăm mẹ. Khi bà và các vị đại sư tụng kinh, tôi ngồi bên cạnh lắng nghe. biết vì sao, những kinh văn đó, tôi chỉ nghe lần là thuộc làu làu, khiến ai nấy đều kinh ngạc. Trong chùa có vị cao tăng Phật Đồ Thiệt Di hỏi tôi về ý nghĩa những bài kệ mà tôi thuộc, tôi đều trả lời lưu loát. Thầy khen tôi là nhân tài của Phật môn, nên trò chuyện với mẹ, bày tỏ mong muốn nhận tôi làm đệ tử.

      Trí tuệ siêu phàm của Rajiva được bộc lộ từ khi còn rất . Trong truyện kể về cậu lúc bảy tuổi, miêu tả như sau: “ ngày đọc thuộc năm nghìn bài kệ, mỗi bài ba mươi hai chữ, tổng cộng ba mươi hai nghìn chữ”. Bạn thử nghĩ xem, cậu bé mới bảy tuổi mà mỗi ngày có thể học thuộc ba mươi hai nghìn chữ, mà là những kinh văn khó hiểu, có lẽ chỉ có Albert Einstein hay Steven William Hawking mới có thể so sánh được. Tôi nghĩ rằng nếu để Rajiva đọc thuộc lòng số Pi, chắc chắn cậu ấy phá được kỷ lục Guiness.

      - Mẹ hỏi tôi có bằng lòng xuất gia hay . Tôi nghĩ rằng xuất gia được ở bên mẹ, nên đồng ý.

      Tôi hơi sững sờ, nhưng cũng phải thôi, dù cậu ấy có thông minh bao nhiêu, cũng chỉ là chú nhóc hơn kém, chú nhóc ấy muốn xa mẹ. Lí do này, rất tự nhiên. Nhưng cuộc đời của Rajiva được quyết định bởi cái gật đầu năm bảy tuổi ấy.

      Ánh mắt Rajiva rời khỏi ngọn đèn, trôi về phía tôi, vẻ băn khoăn lại nét mặt:

      - Lần trước, khi hỏi tôi vì sao xuất gia, tôi mới nhận ra, tôi biết phải trả lời thế nào. Vì muốn ở bên cạnh mẹ ư? Tôi đâu còn là đứa trẻ bảy tuổi. Thêm vài năm nữa, tôi thọ đại giới và chính thức bước vào cõi sắc sắc . Nhưng, những ngày qua, hằng đêm tôi vẫn tự hỏi, rốt cuộc, tôi xuất gia vì điều gì?

      - Cậu có câu trả lời chưa?

      Tôi hơi tò mò.

      - Trước đây, khi theo học Phật pháp, các thầy đều giảng rằng, bằng con đường tu hành có thể tự giải thoát, thấu tỏ luân hồi sinh tử, tránh xa sân si, dục vọng và vươn đến cõi Niết Bàn. Khi ở Kabul, tôi theo đại sư Bandhudatta nghiên cứu Phật giáo Tiểu Thừa, tổng cộng có bốn triệu câu kinh giảng giải về phương pháp tu thành chính quả. Nhưng...

      Rajiva đứng lên, bước về phía cửa sổ, xoay tay đặt sau lưng, trước mắt tôi là dáng hình đơn, khổ hạnh. Tuy tuổi còn trẻ, nhưng toát lên thần thái của bậc cao tăng.

      - đường trở về Khâu Từ, chứng kiến cảnh xương trắng chất đầy sa mạc, đạo tặc hoành hành khắp nơi, người người khổ ải lầm than. Tôi lấy làm băn khoăn, tôi có thể đắc đạo thông qua con đường tu hành, nhưng những con người đó sao? Đám giặc cướp ấy vẫn ngang ngược làm càn, chúng sinh vẫn chìm đắm trong nỗi khổ ải của sinh lão bệnh tử. Vậy tôi nghiên cứu Phật pháp phỏng ích gì?

      Tôi đứng lên, bước lại gần Rajiva, nhàng lên tiếng:

      - Tiểu Thừa xuất thế, Đại Thừa nhập thế. Vì vậy, khi tiếp xúc với Phật giáo Đại Thừa, cậu cảm thấy tông phái này phù hợp với ý nguyện của mình hơn. Địa Tạng Vương Bồ Tát từng : Khi nào địa ngục còn chưa vắng hồn, thề thành Phật. Có phải cậu cũng muốn học theo Bồ Tát, cứu rỗi nhiều người chứ chỉ cứu rỗi bản thân?

      Rajiva đột ngột quay lại nhìn tôi, ánh mắt cảm động, gương mặt rạng rỡ.

      - Đúng vậy. Khi còn ở Sulaq, tôi theo học đại sư Suryasoma, lần đầu tiên tiếp xúc với Phật giáo Đại Thừa, tôi bị thuyết phục sâu sắc. Mấy ngày qua, cùng thảo luận về Phật pháp, những kiến giải thâm thúy của về Phật giáo Đại Thừa và Tiểu Thừa khiến tôi vô cùng ngưỡng mộ, có điều...

      Gương mặt thoáng chút ưu tư, giọng trở nên u uẩn:

      - Có điều sau khi trở về Khâu Từ, mỗi lần tôi đề cập đến giáo lý Đại Thừa, các vị sư phụ đều cho rằng đó là thứ luận thuyết ngoại đạo sai trái, khiến tôi cảm thấy rất khổ tâm.

      Tôi có thể hiểu được tâm trạng ấy. Phật giáo Tiểu Thừa tồn tại và hưng thịnh suốt mấy trăm năm ở Khâu Từ. Thời gian đầu, cuộc phân tranh giữa hai tông phái này diễn ra rất kịch liệt. Khi ấy việc truyền bá giáo lý Đại Thừa, vốn là tông phái bé lúc bấy giờ, bị xem là hành vi “xấu xa” của bộ phận rất các “tăng sĩ tích cực”. Vì vậy, có thể hiểu được Rajiva gặp phải kháng cự, phản đối mạnh mẽ đến thế nào và nội tâm cậu phải đấu tranh, giằng xé ra sao.

      - Rajiva, thực ra, Đại Thừa được phát triển nền tảng của giáo lý Tiểu Thừa, hai tông phái này đối lập nhau. Phật tổ sáng lập và đạo Phật vì muốn chống lại đạo Bà La Môn, phản đối chế độ phân biệt đẳng cấp khắc nghiệt, bởi vậy giáo lý của ngài hết sức đơn giản. Phương thức tu hành phỏng theo lối tu khổ hạnh rất được ưa chuộng lúc bấy giờ, hy vọng bằng cố gắng của bản thân, có thể đạt đến giải thoát. Nhưng xã hội đà phát triển và đổi thay. Những điểm hạn chế của giáo lý Tiểu Thừa ngày càng trở nên rệt.

      Tôi bước đến bên cạnh Rajiva và nhìn cậu bằng chân thành lớn nhất mà tôi có:

      - Phật giáo Tiểu Thừa đề cao “tự cứu độ”, muốn được giải thoát, nhất thiết phải xuất gia. Những người tu hành theo Phật giáo Tiểu Thừa tham gia sản xuất, sinh con đẻ cái. Nếu ai cũng xuất gia và theo tông phái này, quốc gia thể tồn tại, loài người tất diệt vong. Đúng vậy, lúc Phật giáo và quyền lực thống trị phát sinh mâu thuẫn tông phái Đại Thừa ra đời để giải quyết vấn đề đó.

      Tôi ngẩng đầu, dõng dạc:

      - Hơn nữa, giáo lý Đại Thừa có thể cứu giúp mọi người. Chỉ cần bái phật và đọc kinh Phật là có thể thành Phật. Và như vậy, cần phải xuất gia, cư sĩ cũng có thể thành Phật, tức là giải tỏa được mâu thuẫn về sức sản xuất. Cư sĩ lại có thể thành thân, tức là giải tỏa được nhu cầu sinh sôi nảy nở ngừng của nhân loại. Chỉ khi được giai cấp nắm quyền công nhận, Phật giáo mới có thể được lưu truyền rộng rãi và thu hút thêm nhiều tín đồ. Đó chính là khi Phật quang phổ chiếu, phổ độ chúng sinh.

      Rajiva dường như nghe rất nhập tâm, vẻ mặt đăm chiêu. Tôi biết cậu ta hiểu được bao nhiêu. Tôi chỉ đưa ra phân tích của mình dựa mối quan hệ giữa tôn giáo và sức sản xuất, giữa tôn giáo và giai cấp thống trị mà thôi. Sau đó bổ sung thêm:

      - Rajiva, nguyện vọng thay đổi tông phái của cậu là đúng đắn. Phật giáo Đại Thừa phù hợp với xu hướng phát triển của thời đại, giúp giải tỏa nhu cầu tinh thần của rất nhiều người.

      Với tính cách phóng khoáng và tư tưởng cấp tiến của cậu ấy, giáo lý Đại Thừa chắc chắn phù hợp với cậu ấy hơn. Thế nên quyết định thay đổi tông phái của cậu ấy về sau này cũng là tất yếu.

      Rajiva ngẩng đầu lên nhìn tôi, khuôn mặt thiếu niên phảng phất nét ưu tư:

      - Vậy ở Trung Nguyên sao? Liệu người Hán có đón nhận Phật giáo Đại Thừa ?

      Tôi cười:

      - Điều ấy là tất nhiên. Phật giáo Đại Thừa được lưu truyền rộng rãi ở Trung Nguyên từ đời này sang đời khác.

      Quý Tiễn Lâm từng : “Thời gian phát triển hưng thịnh của tôn giáo dài hay ngắn phụ thuộc vào mức độ Trung Quốc hóa của nó. Giáo lý nào càng bình dân càng dễ được lòng quần chúng và như vậy càng được giai cấp thống trị ủng hộ. Giáo lý Tiểu Thừa đòi hỏi con người tu hành khắc khổ mà chưa chắc có thể thành Phật. Trong khi Phật giáo Đại Thừa, nhất là phái Thiền Tông đề xướng giác ngộ, “Icchantika (nhất xiền đề: chỉ hạng người thấp kém, thiếu thiện căn) cũng có Phật tính”. Vì vậy, chỉ cần thành tâm khấn Phật, học Phật là có thể vứt bỏ đao kiếm, lập tức thành Phật. Như thế thanh thản, thoải mái hơn sao!”

      Rajiva dần trở nên tươi tỉnh hơn, vẻ kiên định toát ra từ vầng trán rộng. Hình như quyết tâm mạnh mẽ được thiết lập.

      - Mấy hôm trước, tại điện thờ bỏ hoang trong chùa Tsio- li, tôi tình cờ lượm được cuốn kinh thư, đó là kinh luận Đại Thừa. Tôi cầm lòng được nên lén mở ra đọc. Nhưng vì lo ngại gây ảnh hưởng xấu đến những bài giảng và dạy dỗ của các sư phụ, tôi dám cho ai biết tôi mong muốn được học theo giáo lý mới kia đến thế nào. Hôm nay, sau khi luận đàm với Ngải Tình, tôi biết mình phải làm gì. Khi trở về, tôi đọc lại cho các sư phụ và sư huynh cùng nghe. Và ngày sau truyền bá rộng rãi giáo lý Đại Thừa, cứu rỗi và phổ độ cho ngày càng nhiều chúng sinh thành Phật.

      Cuốn sách mà cậu ta nhắc đến, tôi thấy rất quen.

      - Rajiva, cuốn sách mà cậu tìm thấy đó có phải là cuốn “Kinh phóng quang” ? Và có phải ma vây lấy cậu, buộc cậu phải từ bỏ ?

      Trong truyện kể về Rajiva có đoạn viết: “Khi Kumarajiva mở ra đọc cuốn “Kinh phóng quang”, đột nhiên chữ viết thẻ gỗ biến mất. Đại sư biết đó là do ma gây chuyện, nên quyết tâm đọc kinh càng lớn hơn. Thế là ma lực trở nên vô hiệu, chữ viết lập tức trở lại và đại sư tiếp tục nghiên cứu sách. Bỗng nhiên, trong trung truyền đến giọng : Ngươi là người tài trí, sao lại đọc Kinh phóng quang? Sư đáp: Đồ ma quỷ quái, hãy xéo mau ! Quyết tâm của ta lớn tựa đất này, gì có thể lay chuyển được”.

      Tất nhiên là tôi nghĩ cậu ấy thực gặp ma. Tôi tin rằng Tuệ Giảo viết lên câu chuyện ly kỳ này mục dích là muốn nhấn mạnh, Kumarajiva gặp phải những trở ngại tâm lý rất lớn khi quyết định thay đổi tông phái. Bởi vì, phải thay đổi tín ngưỡng mà xưa nay bản thân vẫn sùng bái và tin theo là việc vô cùng đau khổ. Chắc chắn cậu ấy từng day dứt, do dự, thậm chí từng muốn bỏ cuộc. Những ràng buộc tâm lý bao giờ cũng là trở ngại lớn nhất và khó dứt bỏ nhất.

      Cậu ta ngạc nhiên thốt lên:

      - Kinh phóng quang?

      Rồi đọc lần tên cuốn sách bằng tiếng Phạn và gật đầu tán thưởng:

      - Tên sách dịch rất hay. Đức Phật tỏa ánh hào quang, chiếu rọi đến chúng sinh.

      Rajiva cân nhắc hồi lâu, rồi :

      - Cuốn kinh này rằng, việc truyền bá đạo Phật nhằm giúp cho người mù thấy được ánh sáng, người điếc nghe được thanh, người câm có được tiếng , người gù được thẳng lưng, khiến người ngông cuồng trở nên nghiêm chỉnh, người bối rối được yên lòng, người bệnh được chữa khỏi, người ốm yếu được khỏe mạnh, người già được trẻ lại, người rách nát được áo ấm. Phật pháp chiếu rọi, giúp cho chúng sinh được bình đẳng như nhau, cư xử với nhau như cha mẹ, như chị em ruột thịt. Đều có nghĩa là, mục đích của tu hành là nhằm cứu rỗi chúng sinh, chứ đề cao cá nhân đắc đạo. Những giá trị sâu sắc này, bản thân tôi hết sức tán đồng.

      Hai hàng lông mày của cậu ta khẽ chau lại:

      - Nhưng, làm gì có ma quỷ nào quấy rối tôi?

      Ánh mắt thoáng qua nét cười, suy nghĩ lát, lại tiếp tục giải thích:

      - Nếu có, đó là những trở ngại tâm lý của chính tôi. Tôi biết có nên học theo giáo lý Đại Thừa hay . Kể từ khi có được cuốn kinh này, tôi do dự biết bao nhiêu lần, rốt cuộc có nên đọc hay . Đọc xong lại do dự. Có nên truyền bá hay ? Những trở ngại đó, đến tận hôm nay mới được rũ bỏ triệt để.

      Còn nhớ buổi tối hôm đó từng hỏi tôi, lí tưởng của cuộc đời tôi là gì ?

      Hít hơi sâu, rướn mình về phía trước:

      - Đến nay, tôi có thể giống như , lên ràng lí tưởng của mình.

      Cậu ta ngừng lại lát rồi cất giọng sang sảng:

      - Truyền bá đạo Phật tại mọi nơi tôi đặt chân đến, lập ra luận thuyết mới, cứu rỗi chúng sinh, đây chính là lí tưởng của cuộc đời tôi.

      Rajiva trong tư thế ngẩng cao đầu, ánh đèn dầu leo lét che nổi tự tin ngập tràn gương mặt cậu. Khí chất bất phàm này khiến tôi cứ ngắm nhìn mê mẩn. tự tin và trí tuệ trác việt ấy tỏa sáng dáng hình thiếu niên, tựa như tôi nhìn thấy ánh sáng rực rỡ của tương lai, đó là thứ ánh sáng tỏa ra từ ngọn lửa xung thiên được đốt lên bằng tất cả nội lực sống, hào quang tỏa chiếu khắp nơi.

      - Rất có chí khí!

      Tôi ra sức vỗ tay, gật đầu và hô vang lời tán thưởng.

      - Tôi rất khâm phục những người có lí tưởng, có hoài bão. Hãy tiến lên theo mục tiêu định, chắc chắn cậu thành công.

      Rajiva đột nhiên quay sang tôi, cung kính chắp tay cúi lạy, khiến tôi giật bắn cả mình. Khi cậu ngẩng lên, tôi bắt gặp khuôn mặt hao gầy hắt lên sắc đỏ, ánh mắt chân thành và mãnh liệt:

      - Ngải Tình, Phật tổ thương tình gửi đến cho tôi người thầy thông thái như để chỉ dẫn và khai mở đường cho Rajiva. Rajiva nguyện phụ lòng !

      Cậu ta chưa bao giờ tỏ ra cung kính như vậy đối với tôi. tia lửa bất ngờ nhen nhóm trong tim tôi và nhanh như chớp, tỏa khắp cơ thể tôi. Trong vô thức, tôi dùng tay làm quạt đón gió. Vì sao giữa đông mà trời lại oi bức như vậy?

      Buổi tối hôm đó, sau khi kết thúc giờ học, lúc bước ra cửa, Rajiva ngó lên bầu trời đầy sao, :

      - Ngày mai có nắng.

      Rồi quay đầu lại nhìn tôi, nụ cười tươi tắn như gió xuân:

      - Ngải Tình, ngày mai tôi đưa tham quan thành Khâu Từ.

                  Chương 13: ngày du ngoạn Khâu Từ


      Trong “Đại Đường Tây vực ký”, Huyền Trang miêu tả về Khâu Từ như sau: “Nước Khâu Từ, từ đông sang tây hơn ngàn dặm, từ nam chí bắc hơn sáu trăm dặm, thành quách đại đô có chu vi khoảng mười bảy, mười tám dặm.”

      Tôi đứng đoạn tường thành, phóng tầm nhìn ra mãi xa. Thu vào trong tầm mắt là những ngọn núi trùng điệp nối tiếp nhau dãy Thiên Sơn, tuyết rơi trắng xóa. Dưới chân núi là hệ thống tưới tiêu và những thửa ruộng hình chữ điền vuông vức, rất quy củ, tuyết phủ trắng ruộng đồng, thản hoặc để lộ ra dưới ánh mặt trời đôi ba khoảng đất tối sẫm.

      - Ông trời ưu ái người Khâu Từ, nên năm nay mới “được mùa tuyết” như vậy.

      Rajiva ngắm nhìn núi Thiên Sơn phía xa xa, hơi thở theo thanh lan ra ngoài gian.

      Tôi ngước đôi mắt băn khoăn nhìn Rajiva. Cậu mỉm cười giải thích:

      - Khâu Từ vốn là vùng khô hạn, thiếu mưa quanh năm, nếu mùa đông giá lạnh, tuyết rơi nhiều, năm sau mới có đủ nước để trồng cấy.

      Đúng vậy, nơi đây năm cơ hồ chỉ được vài ba trận mưa, nguồn nước tưới tiêu chủ yếu dựa vào tuyết núi Thiên Sơn tan chảy tạo thành. Tuyết tan, tạo nên những dòng sông thời vụ, chỉ cần có sông có thể canh tác, trồng trọt. Những nơi có nước bị hoang hóa, biến thành sa mạc, hoang mạc. Diện tích của các quốc gia ở Tây vực rất cũng chính bởi nguyên nhân này.

      Bỗng nhớ ra rằng, ở Khâu Từ hàng năm đều tổ chức lễ hội Su Mu Zhe (Tô Mạc Già), hay còn gọi lễ hội cầu lạnh. Vào ngày này, người dân Khâu Từ tổ chức các hoạt động nhằm cầu xin trời Phật ban cho mùa đông giá lạnh, tuyết lớn kéo dài. Thời nhà Đường, lễ hội này được truyền đến Trung Nguyên, trở thành trong những lễ hội quan trọng của vương triều này.

      - Lễ hội cầu lạnh diễn ra vào thời gian nào trong năm?

      Tôi thầm hứa với bản thân, nhất định phải xem ngày hội hiếm có này mới được.

      - Đầu tháng Bảy hàng năm.

      - Tuyệt vời! Tôi nhất định tham dự.

      Tôi xoa xoa tay, đưa lên miệng hà hơi, rồi hướng mắt lên nhìn Rajiva.

      - Cậu cùng tôi, được ?

      Cậu ta hơi sững người, ngoảnh đầu nhìn Thiên Sơn, yên lặng hồi lâu. Sao thế nhỉ, tham dự lễ hội chứ có gì nghiêm trọng đâu mà phải suy tính lâu vậy. thích tôi rủ Pusyseda cùng.

      - Ngải Tình, trong mười điều cấm kị của Sa Di là phải tránh xa ca múa, lễ hội. Tôi được phép .

      Ánh mắt rời dãy Thiên Sơn, giọng khô khan, thoáng chút bất lực. Tôi sững người, chả trách tối qua chỉ nghe tôi hát bài mà cậu ấy cũng phải hạ quyết tâm đến vậy!

      Nghĩ đến việc vô tình khiến cậu ấy phá giới, tôi cảm thấy rất áy náy.

      - Xin lỗi, tôi thuộc giới luật nhà Phật. Cậu cho tôi biết mười điều cấm kỵ đó, từ nay tôi cẩn trọng hơn, để cậu phải phá giới nữa.

      Rajiva trầm ngâm, cúi xuống nhìn bàn chân hồi lâu, mãi mới khẽ khàng :

      - Năm giới luật đầu tiên là: sát sinh, trộm cắp, dối, uống rượu, dâm dục.

      Những giới luật này rất quen thuộc, tôi băn khoăn hỏi:

      - Có phải là năm điều cấm kỵ đối với cư sĩ, những người tu tại gia ?

      - Năm điều cấm kỵ dành cho những người tu tại gia chỉ khác những điều cấm kỵ dành cho Sa Di ở điểm.

      Rajiva đột nhiên đỏ mặt, biết có phải tại gió lạnh ? Cậu ta rảo bước đến bờ tường thấp, tôi vội vã theo sau.

      - Điều cấm kỵ thứ năm đối với cư sĩ là “ tà dâm”, còn đối với Sa Di là “ dâm dục” – Rajiva nhìn tôi, hai mắt dán chặt vào bờ tường.

      Bây giờ tôi hiểu. Như vậy tức là các cư sĩ có thể kết hôn và “quan hệ” với người vợ hợp pháp của mình, còn Sa Di được thực hành vi đó với bất cứ ai trong bất cứ trường hợp nào. Gương mặt Rajiva đỏ như gấc, chắc là vì xấu hổ khi nhắc đến giới luật này. Tôi vội vàng hắng giọng, hỏi cậu ta năm điều cấm kỵ tiếp theo là gì.

      Chúng tôi bước xuống tường thành và tiếp, Rajiva tiếp tục cho tôi nghe về năm điều cấm kỵ còn lại.

      Tránh xa giường to ghế rộng – nghĩa là được ngồi lên những chiếc ghế hay giường vừa cao vừa to vừa được trang trí sơn son thếp bạc.

      Tránh xa hoa thơm hương nồng – nghĩa là được xức dầu thơm hoặc đeo những vòng hoa có mùi hương lên người. Đây hoàn toàn là thói quen của người Ấn Độ.

      Tránh xa ca múa hội hè – nghĩa là được xem biểu diễn ca múa nhạc. Điều này, khi nãy Rajiva giải thích với tôi.

      Tránh xa của cải vật chất – điều này rất dễ hiểu, nghĩa là được sở hữu vàng bạc châu báu.

      Tránh xa bữa ăn khác giờ - nghĩa là phải tuân thủ giới luật ăn uống sau giờ Ngọ. Điều cấm kỵ này tôi biết từ lâu và cũng được chứng kiến.

      Chúng tôi vừa vừa trò chuyện, chẳng bao lâu đến quảng trường rộng lớn bên ngoài cổng thành phía tây Khâu Từ. Những bức tượng Phật cao chừng bốn, năm mét tọa lạc dọc hai bên con đường hướng ra quảng trường, tạo cho cảnh quan vẻ uy nghiêm, trầm mặc. Giá như có thể bảo tồn đến thời đại, chúng ta di tích lịch sử nguy nga đến nhường nào.

      Rajiva cho tôi biết đây là nơi tổ chức lễ hội lớn diễn ra năm năm lần. Lễ hội lớn này vốn là phong tục của Phật giáo, được tổ chức năm năm lần và được chủ trì bởi các quốc vương tại các quốc gia tín Phật. Đến lúc đó, chỉ có các cao tăng ở khắp mọi nơi tụ hội về, mà khách thập phương cũng nô nức kéo đến. Trong thời gian diễn ra lễ hội, có rất nhiều các hoạt động như: giảng kinh, biện kinh, phát lộc, cúng dường… Mọi chi phí đều cho quốc vương đài thọ.

      Tôi hiểu, ở Trung Nguyên cũng có lễ hội tương tự, gọi là “lễ hội mở”. Mở tức là che đậy, giấu giếm, dù là tăng ni Phật tử hay dân thường đều được đối xử bình đẳng như nhau.

      Rajiva yên lặng đứng chờ tôi đo đạc và vẽ hình chiếu bằng khung cảnh quảng trường. Tôi phác hoạ các bức tượng bằng hình chiếu đứng vì tài vẽ tranh của tôi rất kém, tôi cũng muốn Rajiva phải chờ lâu, thiết nghĩ, tôi còn quay lại đây nhiều lần và vẽ lại chi tiết. Rajiva dẫn tôi về phía tây bắc của quảng trường, có dòng sông hẹp chảy qua, nhưng mặt sông đóng băng. Bên bờ đối diện là ngôi chùa lớn, đồ sộ. Tôi muốn đến đó tham quan. Cây cầu bắc qua dòng sông nằm triền núi phía xa. Vì muốn tiết kiệm thời gian và sức lực, chúng tôi quyết định bộ qua sông băng.

      Mặc dù lớp băng kết lại và rất cứng, nhưng tôi là người sinh ra và lớn lên ở phía nam sông Trường Giang, tôi biết gì về kỹ năng trượt băng, hay tuyết dày vào mùa đông mà đứa trẻ phương bắc nào cũng thành thạo. Tôi sợ sệt, run rẩy, dám đặt chân xuống mặt băng. bàn tay gầy guộc với những ngón dài thanh mảnh chìa ra trước mặt tôi, kịp suy nghĩ gì, tôi vội vàng nắm chặt lấy. Bàn tay với hơi ấm mềm mại và chút trơn ướt ấy thận trọng dắt tôi , hai mắt tôi mở to, nhìn trân trân xuống mặt băng dưới chân, lo sợ bị trôi tuột xuống khe hở nào đó. Mãi mới sang được bờ bên kia, tôi thở phào nhõm, định ngẩng lên lời cảm ơn với Rajiva, bỗng thấy trước mắt toàn là vùng u tối với những chấm đen lốm đốm, khuôn mặt Rajiva cũng trở nên mờ ảo phía sau màn sương u ám đó.

      Tôi gào lên:

      - Rajiva, sao tôi thấy cậu?

      Chợt cảm thấy có bàn tay che mắt tôi lại và cánh tay khác vòng qua đỡ lấy vai tôi, tôi nép vào thân hình mảnh khảnh và được đưa đến nơi có chỗ để ngồi xuống.

      - Đừng sợ, cứ nhắm mắt lại, lát nữa là sao.

      Hơi thở của Rajiva thổi vào tai tôi, cảm giác gai gai. Từ bé đến lớn, tôi sợ nhất là người khác thổi vào tai, nên với phản xạ tự nhiên, tôi lập tức né đầu, may lại va vào cằm của cậu ta. Hai chúng tôi cùng kêu lên tiếng đau điếng.

      - Có đau ?

      - Có đau ?

      Chúng tôi đồng thanh cất tiếng hỏi thăm người kia, tôi hơi bất ngờ, nhưng chẳng muốn nghĩ nhiều, đưa tay lên day day lại phần đỉnh đầu vừa va chạm, miệng ngừng xuýt xoa. Tôi đau dữ như vậy, Rajiva chắc cũng dễ chịu gì, nhưng cậu ta hề kêu đau, biết nghĩ ngợi gì.

      lúc sau mới lên tiếng:

      - Lỗi ở tôi, lẽ ra nên nhắc đừng nhìn chăm chú xuống lớp băng ấy lâu quá.

      Lại hơi thở nhè trôi vào tai tôi, nhưng lần này tôi dám tránh. Tôi hắng giọng xua hơi nóng bừng lên hai má.

      - Rajiva, tôi bị mù chứ?

      - đâu.

      mà sao giọng cậu ta lại hơi run run. Tôi hoảng sợ, kéo tay áo Rajiva, vội vàng hỏi:

      Nếu tôi bị mù phải làm sao?

      Bàn tay Rajiva vẫn che mắt tôi, cánh tay còn lại khẽ đỡ vai tôi. Mặc dù chỉ là những động chạm khẽ khàng, nhưng qua lớp áo bông, tôi vẫn cảm nhận được cánh tay gầy gò, mảnh khảnh của cậu ta. Cậu ta lẳng lặng đáp: đâu, nhưng trong ngữ điệu còn run rẩy như lúc trước nữa. Tôi lấy làm khó hiểu, cậu ta làm sao vậy nhỉ?

      Ngồi yên lát, Rajiva bỏ tay xuống và bảo tôi mở mắt ra. Khuôn mặt thiếu niên thuần khiết dần dần ra sống động trước mặt tôi. Đôi mắt như hai vực nước sâu chăm chú quan sát tôi với vẻ lo lắng, gương mặt vẫn đỏ ửng như gấc chín. Chưa bao giờ chúng tôi gần nhau đến thế. Trong khoảnh khắc, dường như tôi nghe thấy tiếng tim mình loạn nhịp.

      Tôi đứng bật dậy:

      - Tôi sao, thôi.

      Rajiva bừng tỉnh, vội vàng lùi lại phía sau, khuôn mặt càng lúc càng đỏ, màu đỏ át cả màu da bánh mật, đỏ đến tận phần cổ được che kín bởi lớp áo nâu sòng. Đây là lần đầu tiên chúng tôi có những cử chỉ thân mật như vậy, đừng là Rajiva, bản thân tôi cũng biết phải giấu mặt vào đâu nữa.

      Tôi bước vờ như có chuyện gì xảy ra. Cậu ta hơi ngạc nhiên, vội vàng bước theo tôi, khuôn mặt mãi vẫn chưa hết đỏ. Tôi hắng giọng, làm bộ nghiêm trang hỏi:

      - Chùa này là chùa gì?

      Rajiva ngẩng đầu, ổn định hơi thở, bình tĩnh đáp:

      - Là chùa Acharya. còn nhớ chứ, tôi từng dạy , ‘Acharya’ nghĩa là ‘kỳ lạ’.

      - Vì sao lại có tên là ‘kỳ lạ’?

      Ngày trước có vị vua sùng đạo Phật, ông muốn du ngoạn khắp nơi kiếm tìm và chiêm bái Phật tích, nên giao lại công việc triều chính cho người em trai. Trước khi vua lên đường, người em trao cho ngài chiếc túi thơm, dặn dò phải chờ đến khi trở về mới được mở ra xem. Ngày vua về nước, có người tố giác em vua thác loạn trong cung. Vua nổi trận lôi đình, tống giam người em vào trong ngục, chờ ngày xử tội. Người em nhắc nhở vua mở chiếc túi thơm ngày trước ra xem. Khi mở ra, nhà vua nhìn mà hiểu, mới hỏi người em bên trong là thứ gì?

      Rajiva đột nhiên ngừng lại, khiến tôi sốt ruột:

      Là thứ gì vậy?

      - Cậu ta cứ chần chừ, sắc đỏ gương mặt thanh tú vừa nhạt bớt lại ửng lên.

      Tôi nhớ ra rồi. Trong “Đại Đường Tây vực ký”, Huyền Trang từng ghi lại câu chuyện này.

      - Là cơ quan sinh dục của người em, đúng ?

      Tôi xoa tay lấy hơi ấm, trong lòng vui mừng khôn tả, ngờ, tôi được chiêm ngưỡng ngôi chùa “kỳ lạ” này trước Huyền Trang những hai trăm năm.

      - Người em này đáng khâm phục. Ông ta sớm biết có kẻ hãm hại mình mà ông chẳng thể chứng minh mình trong sạch, nên tịnh thân làm thái giám, cốt để bảo toàn tính mạng.

      Tôi nhịn được, bật cười ha hả:

      - Có điều, cái giá phải trả cao quá!

      Rajiva lạ lùng nhìn tôi, có lẽ vì thể tin được tôi lại có thể thảo luận rất tự nhiên vấn đề nhạy cảm đó chút e dè. Tôi biết ý, cười nữa, gượng gạo hỏi:

      - Sau đó sao?

      - Người em với vua rằng: Ngày trước, khi đức vua lên đường du ngoạn, người em lo sợ có kẻ buông lời gièm pha hòng hãm hại mình, nên mới bất đắc dĩ nghĩ ra cách này. Chẳng ngờ, tai họa quả xảy ra. Nhà vua vô cùng kinh ngạc, sau thấy thương em, bèn cho phép người em được tự do ra vào trong cung. Vào ngày nọ, đường , người em tình cờ gặp lái buôn lùa theo năm trăm con bò, rằng đưa thiến. Người em cảm thấy đó là nghiệp chướng do mình gây nên, mới động lòng trắc , dùng tiền chuộc lấy đàn bò. Sau đó, cơ thể của người em dần dần trở lại bình thường như xưa. Vì muốn bị kẻ xấu tiếp tục hãm hại, người em ra vào cung nữa. Nhà vua thấy lạ, hỏi ra mới biết đầu đuôi câu chuyện. Nhà vua bèn hạ chỉ xây chùa này và đặt tên là “kỳ lạ”, đến nay được hơn ba trăm năm.

      Tôi kìm chế được lại bật cười ha hả:

      - thể tin được! Cái đó có thể mọc trở lại được ư? Hay là người em vốn dĩ hề cắt bỏ . Hoặc xử lý đến nơi đến chốn.

      Rajiva làm bộ lạnh lùng, nhưng hai gò má vẫn ửng đỏ, giọng chắc nịch:

      - Người em chuộc lấy đàn bò, tích nhiều công đức, Phật tổ đại từ đại bi dùng pháp lực của mình phục hồi sức khỏe cho người em, sao lại người đó cố ý lừa gạt? Chính nhờ điển tích kỳ lạ này mà nơi đây sản sinh ra biết bao nhiêu vị cao tăng đắc đạo. Tăng sĩ tử nhiều nơi khác nghe tiếng nô nức kéo về đây học đạo. Quốc vương cùng các đại thần hết lòng ủng hộ, công đức, nhờ vậy hơn ba trăm năm qua, hương khói chưa bao giờ tắt trong chùa. Nếu Phật tổ cảm động trước tấm lòng của người em, nếu nhờ pháp lực của Ngài, làm sao giải thích được điều này?

      Tôi tự phạt bằng cách tát khẽ vào miệng mình, tôi nên làm tổn thương tình cảm tôn giáo của cậu ta! Chuyện này thực ra cũng rất khó giải thích thỏa đáng. Vì người trong cuộc còn, cũng thể kiểm tra, chỉ có thể tin rằng truyện kể đó là có thôi!

      Chúng tôi vừa vừa trò chuyện, lúc đến trước cổng chính của ngôi chùa. Vị sư chúng tôi gặp ngoài cổng nhìn thấy Rajiva vội vã thông báo cho trụ trì. Chưa vào đến đại điện, trụ trì dẫn theo mấy vị cao tăng hòa thượng ra nghênh đón chúng tôi. Vị trụ trì cao tuổi tỏ ra rất cung kính khi trò chuyện với Rajiva.

      Rajiva giới thiệu tôi là giáo viên tiếng Hán của cậu và vì sang xuân tôi phải rời khỏi Khâu Từ, nên hôm nay dẫn tôi tham quan vòng thành phố. Trụ trì nghe xong, tỏ ý hoan nghênh, đích thân dẫn đường và giới thiệu tỉ mỉ cho chúng tôi về ngôi chùa. Chùa Acharya đồ sộ hơn nhiều so với chùa Tsio - li, nhờ có câu chuyện ly kỳ đó, lượng người đến đây thắp hương cúng bái rất đông. Cột trụ mái hiên trong các gian thờ rất cao, thoáng và rộng, tượng Phật được điêu khắc và trang trí tinh xảo, tranh vẽ tường cũng sống động với những đường nét phức tạp. Tôi vừa ngắm nhìn vừa ca tụng. Lòng khát khao được họa lại những bức vẽ tài hoa đó.

      hết vòng, tôi ngượng ngùng xin phép giải quyết vấn đề cá nhân. Trụ trì cử chú tiểu đưa tôi . muốn bắt cậu ta đứng chờ ở cửa, tôi bảo cậu ta về trước, rồi tôi tự tìm đường về sau.

      Từ nhà xí bước ra, chuẩn bị quay lại đại điện, tôi bỗng nghe thấy tiếng thầm to của hai nhà sư ở góc khuất tại hướng rẽ khác, họ nhắc đến tên Kumarajiva. Tôi thấy tò mò, bước chậm lại, ghé tai nghe trộm. Họ trò chuyện bằng tiếng Tochari, nhưng tôi có thể nghe hiểu gần hết.

      - Tên Kumarajiva dám đưa con vào trong chùa lễ Phật, ta lại là người Hán nữa chứ. Giáo viên tiếng Hán cơ đấy, ngờ lại mời phụ nữ làm thầy dạy, ai mà biết được quan hệ của họ là gì?

      - Gia thế của khác chúng ta, dĩ nhiên có thể coi giới luật ra gì, ai dám trách tội kia chứ?

      - được ăn sung mặc sướng, lại còn được người hầu kẻ hạ, ai bảo chúng ta có người cha là quốc sư, có người mẹ là công chúa như . Nhưng quá xem thường giới luật. Ngày ngày ra vào chùa xin phép trụ trì, giờ tụng kinh buổi sáng và buổi tối, thích đến đến thích . Tu hành như thế, làm sao mà đắc đạo được?

      - Nghe , ngoài Phật pháp chính tông, còn lén lút nghiên cứu kinh văn Đại Thừa nữa đó. còn dám tranh luận với các sư phụ về những thứ kinh văn sai trái ấy, coi các thầy ra gì.

      - Đúng thế, loại người này…

      Tôi muốn nghe tiếp, lặng lẽ quay về đại điện. Trong truyện ký của Rajiva có mô tả cậu là người “tính cách thẳng thắn, phóng khoáng, chịu gò bó, khác với những người tu hành khác”. Đối với người tu hành mà , trí tuệ siêu việt giống như con dao hai lưỡi. Xuất thân quyền quý của Rajiva làm tăng thêm ưu thế mà tài năng thiên bẩm mang lại cho cậu, nhưng đồng thời cũng gây thêm bất lợi cho cậu. Tôi có thể hiểu vì sao những nhà sư đó ác cảm với Rajiva đến vậy, có điều tôi cảm thấy rất khó chịu khi phải nghe những lời hay về Rajiva. Tôi bỗng cảm thấy hết sức bực bội!

      Khi chúng tôi rời khỏi chùa “kỳ lạ”, Rajiva ngỏ ý muốn đưa tôi tham quan thêm nơi khác. Tôi nhìn đồng hồ, chỉ còn tiếng nữa là đến giờ tụng kinh buổi chiều, đành thở dài giục cậu ta mau chóng quay về chùa Tsio – li. Tôi cho rằng những giới luật hay những quy tắc kia là quan trọng, nhưng tôi biết, mỗi lời và hành động của cậu ấy đều lọt khỏi tầm mắt của những người khác. Mà dù thế nào, Rajiva cũng thể tách ra khỏi thế giới tăng sĩ của cậu ấy.

      Cậu ta hơi ngạc nhiên, nhưng nhìn lên thấy bầu trời tối dần, lập tức hiểu ý tôi, liền bảo đưa tôi về phủ quốc sư trước. Tôi từ chối, rằng tôi biết đường, tự về. Tôi muốn nghe người khác viện vào mối quan hệ giữa tôi và Rajiva để bôi nhọ thanh danh của cậu ấy.

      Mặt cậu ta hơi biến sắc, nhìn tôi ngơ ngác:

      - Ngải Tình, nghe được điều gì phải ?

      Tôi lắc đầu.

      - Dù nghe thấy điều gì, tôi cũng hề bận tâm.

      Cậu ta bảo bận tâm, nhưng giọng vẫn đượm vẻ giận dữ. Vung tay áo ra sau, ngẩng cao đầu, :

      - Rajiva làm việc gì cũng chịu trói buộc của những lề thói lạc hậu, chỉ cần thẹn với lòng mình.

      Tôi lại thở dài. Thân phận cao quý và trí tuệ hiếm có khiến cậu ấy ngay từ thời niên thiếu vang danh khắp chốn, nhưng đồng thời cũng “tạo điều kiện” để cậu ấy trở nên xem những giới luật của nhà Phật, lúc nào cũng tỏ ra ngang tàng như vậy. Nhưng Rajiva ơi, thái độ bất chấp đó của cậu chẳng qua cũng là vì bất đắc dĩ mà thôi.

      Hôm đó, tôi kiến quyết về mình. Tôi chỉ là lữ khách bên cạnh cuộc đời Rajiva. Tôi muốn trong những đồn đoán hay về cậu ấy lại có thêm nhân tố là tôi nữa.

      Khi tôi về đến phủ quốc sư, thân hình bé, được quấn ủ rất ấm áp lao như bay vào lòng tôi, giọng điệu nũng nịu trách cứ, rằng vì sao cả ngày trời thấy bóng dáng tôi đâu. Tôi vui vẻ dắt tay cậu nhóc cùng chơi trò trốn tìm. Tiếng cười lanh lảnh vang rộn cả khu vườn, xua tan mọi buồn phiền của tôi. Chơi đùa được lúc bóng chiếc áo choàng màu nâu sòng đột nhiên xuất trước cổng. Cậu ta lại trốn giờ tụng kinh buổi chiều rồi!

    5. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

                  Chương 14: Tôi trở về


      Ngày tháng cứ thế trôi qua, chớp mắt sang xuân. Tuy người Khâu Từ ăn Tết Nguyên Đán như người Hán, nhưng vào ngày đầu tiên của năm mới, tôi vẫn tặng quà cho hai em Rajiva, của Rajiva là chuỗi tràng hạt làm bằng gỗ đàn hương, của Pusyseda là bức tranh Doraemon do chính tay tôi vẽ. Tôi với họ, thế là tôi thêm tuổi, năm nay tôi hai mươi tư. Tôi chẳng muốn phải thừa nhận rằng mình già thêm tuổi gì cả. Sinh nhật của tôi rất dễ nhớ, đó là ngày mùng mười tháng Giêng lịch, vì vậy tôi thường tổ chức sinh nhật theo lịch . Nhưng sau tuổi hai mươi tôi còn hứng thú với ngày tết nữa, mỗi dịp tết đến lại nhắc tôi nhớ rằng, mình già, già rồi…

      Ở thời cổ đại chỉ có hai em họ vui sinh nhật với tôi. Tôi dạy họ : chúc mừng sinh nhật và hát bài “Chúc mừng sinh nhật”, rồi đề nghị họ hát cùng tôi. Giọng hát trẻ con bập bẹ của Pusyseda rất buồn cười, rất đáng . Rajiva lắc đầu kiên quyết chịu hát. Nhưng khi tôi bảo, vào ngày sinh nhật người Hán “chúc mừng sinh nhật” rồi hát bài hát này, sau đó ăn loại bánh ngọt vừa thơm vừa ngậy và còn được tặng quà nữa. Rajiva nghe xong, vẫn còn lần chần, mãi sau mới chịu cất giọng. Giọng hát của cậu ấy cũng trầm ấm, truyền cảm như giọng , tuy vẫn còn có nhiều khàn đục, do trong thời kỳ vỡ tiếng, nhưng lại tạo cho bài hát điệu rất đặc biệt. Bài chúc mừng sinh nhật mà cậu ấy khe khẽ hát cho tôi nghe là bài hát hay nhất mà tôi từng được nghe vào dịp này. Có điều, gương mặt của cậu ấy, như tôi biết từ trước, đỏ như gấc chín, át cả nước da bánh mật vốn rất nổi bật.

      Buổi tối ngày tiếp theo, sau khi kết thúc giờ học, Rajiva đến thư phòng đọc sách như mọi khi, cậu ta dùng dằng ngập ngừng mãi mới lôi từ trong áo ra chiếc khăn lụa thêu hình thoi khổ dài với các màu sắc đỏ, vàng, xanh da trời đan xen.

      - Tặng .

      Cậu ta lại đỏ mặt.

      - bảo sinh nhật muốn được tặng quà…

      Tôi có thời gian để bận tâm về chu đáo này, tôi còn mãi ngẩn ngơ ngắm nhìn món quà của mình. Đây là chiếc khăn lụa Atala, Atala có nghĩa là loại tơ lụa được làm ra bằng kỹ thuật xoắn sợi tơ dọc và nhuộm đồng thời, đây cũng là loại vải dùng để may quần áo phổ biến nhất của phụ nữ Tân Cương ngày nay. Tơ lụa Khotan là thương hiệu nổi tiếng nhất. Lụa, ngọc và thảm được mệnh danh là ba “quốc bảo” của Khotan. Đến tận thế kỷ XXI, người Khotan vẫn sử dụng những phường nhuộm nguyên thủy với chiếc máy dệt cồng kềnh, cao hơn năm mét, được xây đắp bằng đất và gỗ.

      - Rajiva, cậu có biết ngôi chùa Masa ở Khotan ? Những hạt giống của cây dâu mà công chúa người Hán mang đến Tây vực được gieo trồng ở chùa này đó.

      Trong “Đại Đường Tây vực ký”, Huyền Trang ghi lại quá trình tơ lụa được truyền đến Khotan như thế nào.

      - Tôi biết. Người Tây vực vốn biết trồng dâu nuôi tằm để lấy tơ, khi đức vua Khotan đến đất Hán cầu thân, ngài riêng với công chúa Hán triều rằng Khotan có tơ lụa, nên công chúa thể ăn mặc đẹp được. Công chúa bèn giấu hạt dâu và tằm giống vào trong túi mang theo. giàu có của Khotan chính là nhờ vào tơ lụa.

      Tơ lụa vốn là sản phẩm độc quyền của người Hán ở Trung Nguyên, kỹ thuật sản xuất được xem là bí mật vô cùng quan trọng, được phép tiết lộ ra bên ngoài. Nhưng nhờ có công chúa kia, kỹ thuật này được truyền đến Tây vực, từ Tây vực lại truyền sang Tây Á và châu Âu, từ đó, quyền lũng đoạn thị trường tơ lụa của Trung Quốc tan thành mây khói. Sản phẩm tơ tằm của Khotan từ thế kỷ IV nổi tiếng khắp nơi, thời cổ đại, nơi đây từng được mệnh danh là “kinh đô của lụa”. Hôm nay, chiếc khăn lụa quý giá của thế kỷ thứ tư ấy bày trước mắt tôi, điều này chứng minh tính xác thực của câu chuyện kể về xuất của kỹ thuật sản xuất tơ lụa con đường tơ lụa huyền thoại.

      - Sao chỉ hỏi về câu chuyện đó, hay thích món quà này?

      Rajiva nhìn tôi lo lắng, tay cầm chiếc khăn quý mà lúng túng biết nên đặt ở đâu.

      - Lụa Khotan, tất nhiên thể sánh bằng lụa Trung Nguyên, nếu thích, tôi

      - Làm gì có chuyện đó!

      Tôi gào lên, bật dậy, ôm chầm lấy cậu ta, rồi giật lấy chiếc khăn áp chặt vào lòng.

      - Cậu đừng hòng mang nó !

      Rajiva thở phào, gương mặt đỏ như gấc của cậu ta tôi nhìn quen rồi nên thấy ngạc nhiên nữa. Cậu ta nhìn tôi cười rạng rỡ như vừa được tặng món quà chứ phải vừa tặng cho người khác món quà.

      - Nhưng mà…

      Rajiva nhìn tôi băn khoăn:

      - Ngải Tình, vì sao biết ở Khotan có chùa Masa?

      Lại nữa rồi! Tôi chẳng bao giờ kiểm soát được cái miệng tai bay vạ gió của mình!

      Tôi trợn tròn hai mắt, rồi vò đầu bứt tai, tư duy logic của cậu ta ở trình độ cao như thế, dù tôi có bịa ra chuyện gì cũng lộ tẩy mà thôi. Tốt hơn hết là đừng nghĩ cách gạt cậu ta làm gì cho mệt.

      - Cậu đừng hỏi nữa, tóm lại là tôi biết, thế thôi!

      Rajiva hỏi thêm, chỉ cười, đến lúc ra về vẫn nhìn tôi bằng ánh mắt tò mò khó hiểu, khiến tôi cảm thấy yên tâm.

      bao lâu nữa là đến ngày lập xuân. Sang xuân đồng nghĩa với việc con đường tơ lụa được khai thông, tôi có thể chuẩn bị khởi hành Trường An được rồi. Kumarayana giúp tôi liên hệ với đội thương nhân rất đáng tin cậy, ông còn tặng tôi rất nhiều đồ đạc. Tôi rất biết ơn ông. Nhưng tôi vui chút nào khi phải đối diện với hai em Rajiva. Vẻ mặt lạnh lùng, an nhiên thường thấy của Rajiva khiến tôi đỡ buồn phần nào. Tuy nhiên, cũng có đôi lúc tôi cảm thấy ánh mắt cậu ta nhìn tôi có điều gì rất lạ, nhất là vào hôm tôi quàng chiếc khăn lụa Atala lên vai. Ánh mắt ấy khiến tôi hồi hộp, nhưng tôi vờ như thấy, giả bộ ngốc nghếch là sở trường của tôi mà! Ai bảo cậu ta là Kumarajiva kia chứ! Tôi làm sao mà dám động vào vĩ nhân như thế. Thôi, hãy cứ ngoan ngoãn mà ra ! Nhưng với chú nhóc Pusyseda tôi chẳng thể ứng phó nổi. Hơi tí là nước mắt giàn giụa, giọng trẻ thơ, nấc lên những tiếng thổn thức xin tôi ở lại. Cậu bé khiến tôi mủi lòng và có cảm giác ra lần này chẳng khác nào sinh ly tử biệt, nên tôi phải an ủi Pusyseda bằng cách lặp nhiều lần lời hứa rằng tôi nhất định quay lại.

      Còn khoảng sáu, bảy ngày nữa là phải lên đường, tôi muốn tắm rửa sạch . tắm có gì mà phải kể? Đúng là chẳng có gì để , nhưng vì lần này xảy ra chuyện lớn. Bạn đừng hiểu nhầm, như trong các tiểu thuyết mà bạn thường đọc, hay có cảnh: nhân vật nữ tắm nhân vật nam xuất đâu! Chuyện “hay ho” ấy chẳng bao giờ đến với tôi cả! thực là, khi tôi vừa tắm xong và trở về phòng xảy ra chuyện lớn.

      Lúc tôi vừa đưa tay lên vặn đám tóc ướt vừa bước vào phòng thấy Pusyseda ngồi nghịch chiếc đồng hồ vượt thời gian mà trước khi tắm tôi tháo ra và đặt tạm bàn. Thấy tôi, chú nhóc hớn hở lắc lắc chiếc đồng hồ:

      - Ngải Tình, đồ chơi này hay quá, nó biết nhảy và kêu tích tắc tích tắc nhé, chị cho em được ?

      Tôi run bắn. Khi ấy trời nắng to, ánh sáng tràn ngập căn phòng. Tôi chạy bổ đến bắt lấy chiếc đồng hồ, nó hoạt động trở lại rồi! Đèn tín hiệu mà lúc trước tôi ra sức bật lên nhưng ăn thua giờ đây tích tắc đếm ngược. Trời đất ơi, biết Pusyseda chạm vào chỗ nào mà khởi động được cái đồng hồ chết tiệt này? Thời gian đếm ngược là ba phút, giờ chỉ còn hai phút rưỡi. Tôi cố sức nhấn nút dừng hoạt động, nhưng thứ quái gở này, lúc cần chạy chạy, lúc cần dừng nó nhất định chịu dừng. Đầu óc rối bời, tôi biết phải làm sao nữa! Chuyện này xảy ra quá đột ngột, chỉ tắm cái mà lúc quay về gặp phải biến cố lớn thế này. Tôi nên hay ở?

      - Ngải Tình, chị làm sao vậy?

      Tôi giật mình ngẩng lên, đôi mắt tròn xoe, ngây thơ nhìn tôi chớp chớp. lát nữa chiếc đồng hồ phát ra tia phóng xạ, tôi thể để cậu nhóc nhiễm phải. Tôi vội vàng túm lấy Pusyseda, dùng hết sức đẩy cậu bé ra ngoài. Cậu bé bị tôi túm chặt quá, mặt mũi tái vì sợ. Vừa đẩy cậu nhóc ra đến cửa nghe thấy tiếng gào khóc ầm ĩ. Tôi cài then chốt cửa lại với tốc độ của vận động viên điền kinh, tôi lao đến cạnh tủ tìm chiếc ba lô Northface, lôi ra chiếc áo chống tia phóng xạ, động tác nhanh và dứt khoát, tôi cởi bỏ quần áo người và quên quay đầu ra phía cửa hét to:

      - Pusyseda, cậu nghe đây. Tôi là tiên nữ, bây giờ tôi phải quay về trời. Lát nữa tia sáng xuất , cậu phải nhắm mắt lại, được nhìn tia sáng đó, nếu cậu bị mù đấy! Nhớ chưa?

      Thực ra nghiêm trọng đến vậy, nhưng rất nguy hiểm nếu cậu bé nhìn thẳng vào tia phóng xạ.

      Cậu bé sợ hãi, càng khóc to hơn.

      - Đừng sợ, tôi biến mất, tôi chỉ quay về với thế giới của mình thôi. Ở trời, tôi dõi theo cậu.

      Tôi muốn lưu lại những ký ức đáng sợ trong tâm hồn cậu bé.

      Mặc vội chiếc áo chống tia phóng xạ lên người, tôi cảm thấy lạnh buốt, toàn thân nổi da gà. Mặc kệ, thời gian sắp hết rồi. Tôi cuống cuồng kéo các loại khóa, bỗng nghe tiếng Pusyseda bên ngoài nức nở:

      - Chị đừng ! Pusyseda hứa nghịch ngợm nữa, em nghe lời chị, chịu khó học bài, chị đừng có được ?

      Tôi thở dài. Chiếc đồng hồ này chỉ sử dụng được lần duy nhất, nếu , tôi phải ở lại nơi này mãi mãi. Tôi giống những tình nguyện viên nữ khác, vượt thời gian trở về thời cổ đại chỉ để vui thú đương. Mục đích của tôi rất ràng, tôi đến đây để làm việc, nếu quay về, giá trị của tôi được công nhận.

      - Hãy với Rajiva, cậu ấy trở thành nhân vật vĩ đại, nhắc cậu ấy đừng quên nhiệm vụ đến Trung Nguyên truyền bá đạo Phật!

      - Chị có quay lại nữa ?

      Tôi biết, thực biết. Có lẽ duyên phận giữa chúng tôi chỉ đến đây thôi. Tôi biết sau khi quay về có tiếp tục công việc này hay . Nếu có, tôi biết, lần vượt thời gian tới tôi có thể trở lại Khâu Từ hay . Đến được Khâu Từ, tôi cũng biết khi ấy họ còn sống ở thời đại đó

      Tôi đội mũ bảo vệ, đeo đồng hồ vào tay, chỉ còn ba giây. Tôi hít hơi sâu, chỉ kịp gào to:

      - Nếu cậu chăm chỉ học hành, đọc thuộc “Kinh thi”, tôi trở lại…

      Những tia sáng chói mắt phát ra, tôi cảm nhận được cảm giác bay bổng, cưỡi mây lướt gió quen thuộc, gan ruột tôi quay đảo tưởng như sắp vỡ tung. giây trước khi mất ý thức, tôi chợt nhớ ra rằng tập giấy nháp với biết bao nhiêu bức vẽ kỳ công, cuốn sổ tay ghi chép toàn bộ tài liệu khảo sát dài mấy mươi vạn chữ, những tập sách quý hiếm bằng tiếng Tochari tôi sưu tầm được, những vật dụng sinh hoạt hàng ngày tôi mua ở chợ về và giấu dưới gầm giường, những quà tặng của Jiva, Kumarayana và nhiều người khác và còn nữa, chiếc khăn lụa Atala của tôi, tất cả, tất cả, tôi đều quên mang theo. Trời ơi, chuyến này tôi lỗ nặng rồi!!!

                  Chương 15: Tôi lại “vượt”


      Đưa tay quờ quạng, thấy mềm mềm, mịn mịn. Mở mắt, vầng quang rực rỡ chiếu thẳng tới, vội nhắm chặt lại. Vậy là lần tiếp đất này cũng rơi xuống sa mạc giống hệt lần trước. Tôi quả là có duyên với sa mạc, có điều biết là thời đại nào và nơi này có phải là nơi đó . Tôi đứng lên, kiểm tra toàn bộ vật dụng mang theo bên mình, rồi nhìn chiếc đồng hồ vượt thời gian được cải tiến. Tốt rồi, đèn tín hiệu màu xanh, có nghĩa là mọi thứ vẫn bình thường, công sức sáu tháng trời của nhóm các nhà khoa học ấy uổng phí. Rút kinh nghiệm từ bài học lần trước, các nhà khoa học quyết định sử dụng năng lượng mặt trời để khởi động thiết bị nữa, vì ổn định mà thay vào đó là loại pin Lithium siêu bền. Nghe , đây là sản phẩm đời mới nhất của hàng BYD, tốt hơn nhiều so với pin của Sony.

      Chuyến của tôi tạo nên tiếng vang lớn, sánh ngang với chuyến bay vào vũ trụ rất thành công của Dương Vỹ. Tôi mất tích hơn năm tháng, nhóm nghiên cứu xác định được tôi vượt thời gian thành công hay chết. Suốt thời gian dài, sếp tôi rất phiền não vì biết phải giải thích như thế nào với bố mẹ tôi. Cho đến buổi chiều nọ, tôi từ trời rơi xuống, lơ lửng cành liễu bên ngoài phòng thí nghiệm, làm gẫy gần hết những chạc cây xanh tốt đó.

      Trong năm tháng sau khi trở về thế kỷ XXI, tôi bận rộn chóng mặt. Kiểm tra sức khỏe, viết báo cáo và còn phải đến Tân Cương cùng sếp tháng trời nữa chứ. Thành cổ Khâu Từ xưa kia (hay còn gọi là di tích Diên Thành) nằm giữa thành phố Kucha mới và cũ ngày nay, được người địa phương gọi bằng cái tên thành cổ Pilang. Tôi theo đoàn các nhà khảo cổ quan sát, đo đạc, nghiên cứu di tích tường thành Khâu Từ, di tích hoàng cung, ngôi chùa “kỳ lạ”, quảng trường lớn, sau đó cùng các nhà ngôn ngữ giải mã văn tự Tochari tại viện bảo tàng. Khi mình lang thang giữa những di tích này, nhìn những ngôi nhà, những thửa ruộng phủ kín khuôn viên di tích, có thể nhận ra địa tầng của hơn nghìn năm về trước, nhưng còn những thứ khác bóng chim tăm cá, trong tôi trào dâng cảm xúc khó tả. Vì với riêng tôi, mọi thứ sống động của vài tháng trước đó chỉ trong chớp mắt vật đổi sao dời, trở thành quá vãng dâu bể 1650 năm. Những con người sống động của vài tháng trước, trong khoảnh khắc chỉ còn lại là mấy dòng chữ giấy cũ. Đứng gò đất mấp mô, nơi xưa kia từng là thành quách nguy nga, bên tai tôi như vẫn vang vọng giọng trầm ấm đó.

      - Ngải Tình, ngày mai tôi đưa tham quan thành Khâu Từ.

      - Ông trời ưu ái người Khâu Từ, nên năm nay mới “được mùa tuyết” như vậy.

      - Đừng sợ, cứ nhắm mắt lại, lát nữa là sao.

      Mỗi lúc như vậy, tôi lại giật mình quay đầu nhìn bốn phía, mãi đến khi nhận ra bóng chiếc áo nâu sòng ấy chỉ là ảo giác, tôi mới bình tâm trở lại. Rajiva, có phải chúng ta ở trong cùng gian, nhưng chúng ta cách nhau những 1650 năm thời gian? Cậu vẫn ổn chứ? Tôi cười buồn, sao lại hỏi ngớ ngẩn như vậy, vận mệnh của cậu ta, lẽ nào tôi ?

      Khi khảo sát Thiên Phật động Kizil, tôi ngẩn ngơ hồi lâu trước pho tượng đồng tạc hình Rajiva đặt phía trước hang đá. Pho tượng khắc họa dung mạo của Rajiva ở độ tuổi từ ba mươi đến bốn mươi. chân gập lại, tay phải đặt lên đầu gối, mình khoác chiếc áo lộ bên vai của tăng sĩ, thân hình mảnh khảnh, vầng trán rộng giữa hai hàng lông mày vươn dài, dung mạo ấy toát lên trí tuệ trác việt, trái tim rộng lớn và khí khái bất phàm. Tuy thể sống động bằng con người thực, nhưng tôi nghĩ, nghệ nhân tạc tượng nắm bắt được thần thái của Rajiva. Tôi chưa được nhìn thấy dung mạo Rajiva khi trưởng thành, nhưng pho tượng điêu khắc này khiến tôi nguôi suy tưởng và tưởng tượng về cậu ấy. Tôi chụp bức ảnh đứng dưới chân pho tượng để làm kỷ niệm, buổi đêm khi ngồi viết luận văn, mỗi lúc mệt mỏi tôi lại mở tấm hình ra ngắm nghía. Ước gì tôi được gặp lại Rajiva, Rajiva khi trưởng thành.

      Trong viện bảo tàng Khâu Từ ở Kucha có trưng bày bộ hài cốt của phụ nữ, được khai quật lên từ di chỉ Subash, thời điểm hài cốt này được chôn cất cách nay khoảng nghìn ba trăm năm. Phần đầu của hài cốt có dấu hiệu bị nén bẹp xuống, giống hệt hình ảnh của Jiva và những thành viên hoàng tộc Khâu Từ khác mà tôi từng gặp. Nén đầu có nghĩa là xấu xí, chỉ có điều hợp với thẩm mỹ của chúng ta ngày nay mà thôi. Với tôi, Jiva luôn là phụ nữ xinh đẹp. Tutankhamun (gọi tắt là vua Tut), vị hoàng đế thứ mười hai của triều đại thứ mười tám của Ai Cập cũng từng nén dẹt đầu, bức tượng bán thân của vua Tut sau khi được phục chế nguyên bản và tranh chân dung trong lăng mộ của ngài cho thấy Tutankhamun là pharaon mười tám tuổi cực kỳ khôi ngô, tuấn tú.

      Kế hoạch ban đầu là sau khi kết thúc công việc khảo sát ở Kucha, tôi có buổi gặp gỡ các chuyên gia Phật học, những người chuyên nghiên cứu về Kumarajiva. Tuy tôi chỉ được tiếp xúc với Rajiva thời gian rất ngắn, nhưng cũng có thể cung cấp cho họ những thông tin và tư liệu quý giá mà ai có được. Vì vậy các chuyên gia rất mong ngóng được trò chuyện với tôi. Nhưng, sếp tôi đột ngột nhận được điện thoại từ tổ nghiên cứu, thế là hai thầy trò lại vội vã khăn gói về phòng thí nghiệm, để chuẩn bị cho lần vượt thời gian thứ hai, mà , chính xác phải là lần vượt thứ tư mới đúng.

      Lần này, máy móc được cải tiến rất nhiều. Tôi còn cảm giác khó chịu khi bay vào gian như những lần trước nữa. Tuy vậy, vẫn thể xác định được địa điểm và thời đại mà tôi đến, chỉ có thể ước tính đó là khoảng thời gian hai nghìn năm trước. Sai số là năm trăm năm, tức là nơi tôi đến có thể ở vào khoảng niên đại từ cuối thời Chiến quốc cho đến cuối thời Nam Bắc triều. Với kinh nghiệm của lần “vượt” trước, tôi vẫn quyết định mặc bộ Hán phục to rộng, lả lướt. Trang phục này rất đại chúng và là trang phục được thịnh hành lâu nhất trong lịch sử.

      Tôi quan sát và đánh giá tình hình trước mắt. Những điểm tương đồng về địa hình giữa hai lần “vượt” cho tôi linh cảm mạnh mẽ rằng, tôi trở lại nơi ấy! Do vậy, tôi trở nên bình tĩnh hơn, tôi bắt đầu nghĩ cách để ra khỏi sa mạc và tìm đến nơi có bóng người. Phóng tầm mắt ra xung quanh, nhận thấy mình rơi xuống vùng ven sa mạc, cạnh đó là rừng dương và những khóm liễu đỏ thấp lè tè. Rừng dương xa xa nom có vẻ um tùm, xanh tốt, tôi quyết định về hướng đó.

      Bây giờ là cuối tháng năm, buổi trưa sa mạc oi bức khủng khiếp, vì vậy thứ mà tôi cần nhất lúc này là nước. Rừng dương rậm rạp là thế, nguồn nước chắc chắn ở xa. Khi hồ nước to bất ngờ xuất trước mặt, tôi mừng rỡ khôn tả, lao như bay về phía ấy.

      ngờ, giữa vùng sa mạc mênh mông thế này lại có hồ nước lớn đến vậy. Và điều quan trọng hơn cả là ven hồ có người, phải người mà là đám đông. có niềm vui nào bằng niềm vui nhìn thấy đồng loại giữa chốn hoang vu này, tôi ba chân bốn cẳng lao về phía họ. Nhưng chưa đến nơi, tôi phải đột ngột hãm tốc độ. Phản ứng đầu tiên của tôi sau đó là quay đầu, chạy thục mạng về hướng ngược lại. Nhưng chưa được mấy bước, mũi tên vút tới, cắm “phập” xuống cạnh bàn chân tôi, tôi sợ hãi dừng lại, giơ hai tay lên cao:

      - Đừng bắn! Tôi xin hàng!

      Tôi bị giải đến chỗ đám đông kia, có khoảng hai mươi người. Nhìn cách ăn mặc và tướng tá của đám người đó, toàn những tên mặt mày dữ tợn, hình hài quái dị, đúng là đám kẻ cướp. Còn khoảng chục người nữa quỳ dưới đất, tay chân bị trói chặt, run rẩy lo sợ, len lén nhìn tôi bằng ánh mắt cảm thông, có lẽ họ là người Ba Tư. Cạnh đó có khoảng hơn chục con lạc đà cõng lưng rất nhiều hàng hóa, vẫn thản nhiên, mải mê gặm cỏ. Tôi đoán ra ngay đó là đội lái buôn giữa đường gặp cướp.

      Phải điều này, nơi tôi tiếp đất cách con đường tơ lụa xa, mà con đường này thường xuyên xảy ra nạn giặc cướp. Tôi chưa bao giờ phải giao tranh với ai, lẽ nào lần này buộc phải sử dụng vũ khí? Có khẩu súng gây mê loại trong áo chống phóng xạ của tôi, sếp dặn rằng, nếu đến mức nguy cấp được phép sử dụng, vì đó là sản phẩm của thời đại, có thể làm thay đổi lịch sử. Sếp lúc nào cũng căn dặn được làm gì khiến lịch sử thay đổi, nhưng thầy có nghĩ rằng, bản thân việc tôi vượt thời gian trở về đây cũng là hành động làm thay đổi lịch sử?

      Bọn cướp bàn bạc với nhau bằng tiếng Tochari mà tôi có thể nghe hiểu, với giọng địa phương lơ lớ, phải khẩu Khâu Từ.

      Tôi vắt óc nghĩ cách thoát thân. Tôi giàu bản lĩnh như Huyền Trang, có thể dùng lời lẽ khuyên giải đám giặc cướp ngài gặp đường Tây Trúc thỉnh kinh buông gươm đao quy y cửa Phật. Vì vậy, sau khi quan sát hết lượt và đánh giá tình hình giữa ta và địch, tôi quyết định: bắt giặc phải bắt tên cầm đầu trước.

      Tôi khẽ đưa tay vào trong áo và chạm vào khẩu súng, cũng may chúng cho rằng tôi chỉ là yếu đuối nên trói chân tay tôi lại như những người Ba Tư kia. Tôi nở nụ cười ngọt ngào với tên râu quai nón ngồi ung dung nhai thịt tấm thảm, hơi nhích về phía chút, cất giọng Tochari lơi lả:

      - Đại Vương…

      Cắn răng chặt để xua đuổi nỗi sợ hãi khiến toàn thân nổi da gà.

      cười híp cả mắt, chìa bàn tay nhầy nhụa về phía tôi. Tôi tiến lên phía trước bước, làm điệu bộ chuẩn bị ngả vào lòng , rồi đột ngột rút súng chĩa vào và bắn. Súng gây mê này lợi hại, tên cầm đầu chưa kịp có phản ứng gì ngã lăn xuống đất. Nhân lúc đàn em của còn ngơ ngác hiểu chuyện gì xảy ra, tôi lập tức hạ thêm năm tên đứng gần nhất và lấy giọng uy hiếp những tên còn lại:

      - Bỏ vũ khí xuống, ta tha mạng cho các người!

      Hình như vẫn chưa dọa được chúng, tôi tiếp tục quát:

      - Đây là loại độc dược “kiến huyết phong hầu”, thấy máu chảy tức là người chết, các ngươi sợ đến đây mà thử!

      Có lẽ vũ khí lợi hại của thế kỷ XXI khiến bọn cướp kinh sợ, hơn chục tên còn lại hoang mang nhìn những tên nằm bất động mặt đất. Thực ra tôi chỉ dọa chúng thế thôi, khẩu súng gây mê của tôi rất , chỉ có thể bắn vào đối phương ở khoảng cách dưới năm mét. Thế nên, khi thấy bọn cướp buông hết các thứ đao, cung, kiếm… tôi khẽ thở phào, mồ hôi đầm đìa lưng áo. Tôi vội vàng chạy đến cởi trói cho đám thương nhân kia, nhưng dây quấn quá chặt, tôi đành phải lôi con dao Thụy Sĩ ra cắt.

      Những việc xử lý tiếp theo cần tôi phải bận tâm nữa. Mấy tên cướp còn lại khiếp sợ thứ vũ khí mà tôi cầm trong tay, bây giờ lại thêm đám người Ba Tư đông đảo cầm gươm đuổi phía sau, nên bọn chúng chạy mất dạng từ lâu. Mấy người Ba Tư kia kính cẩn hành lễ tạ ơn tôi. Trong số họ có người biết tiếng Hán và người biết tiếng Tochari. Tuy năng lưu loát, nhưng hai ngôn ngữ bổ sung cho nhau, cộng thêm ngôn ngữ thân thể, chúng tôi cũng có thể hiểu nhau tám, chín phần. Tôi lôi từ trong ba lô ra tập bản đồ, nhờ họ xác định vị trí. Tập bản đồ này rất đặc biệt, được phác họa dựa tình hình khu vực trước và sau đời nhà Hán khoảng năm trăm năm. Lật giở đến trang về Tây vực, vì chú thích bằng tiếng Hán, nên phải mất lúc lâu họ mới chỉ ra cho tôi vị trí tương đối nơi chúng tôi đứng, có vẻ như gần Luntai (Burgur). Tôi xem xét kỹ bản đồ lần nữa, ra tôi rơi xuống ven sa mạc Taklamakan. Ở nơi khô hạn cực độ như thế này mà vẫn có đồng cỏ rộng lớn, vậy chắc chắn là đồng cỏ và hồ nước ở Luntai rồi! Đây chính là nơi cư trú của tộc người Rob (La Bố) cổ đại, họ sinh sống bằng nghề đánh bắt cá trong hồ nước này. Nhưng tôi thấy quanh đây có nhà cửa gì cả, có lẽ họ định cư ở phía khác của hồ nước. Nhưng cũng thể xác định đám cướp kia có phải người Rob hay . Luntai cách Khâu Từ khoảng tám mươi kilômét. Nếu với tốc độ như nay của đoàn lạc đà (bình quân mỗi ngày được hai mươi đến ba mươi kilômét), nhiều nhất là bốn ngày sau tôi có thể đến được Khâu Từ.

      Khâu Từ, mỗi lần nghĩ đến nơi ấy là tim tôi lại đập rất gấp và bóng dáng thanh mảnh, khổ hạnh ấy lại ra trước mắt. biết bây giờ cậu ta bao nhiêu tuổi rồi. Tôi hỏi mấy người Ba Tư là năm nào, họ cung cấp cho tôi số thông tin như sau:

      1. Ở Trung Nguyên vẫn là thời nhà Tần của Phù Kiên (nhưng họ niên hiệu).

      2. Vua Khâu Từ vẫn là Bạch Thuần (họ chỉ biết Bạch Thuần khoảng hơn bốn mươi tuổi).

      3. Chỉ nghe Kumarajiva là vị hòa thượng nổi tiếng (vì người Ba Tư theo tín ngưỡng Hỏa giáo, vốn là tôn giáo thờ thần lửa thời xưa, nên mặc dù Kumarajiva là cao tăng Phật giáo tiếng tăm vang dội, họ cũng hay biết), tuổi tầm hai mươi đến ba mươi tuổi.

      4. Họ vừa qua Khâu Từ, bây giờ đường đến Trường An. Nhưng vì tôi có ơn cứu mạng với họ, nên họ bằng lòng đưa tôi quay về Khâu Từ rồi mới lên đường tiếp.

      phải tôi muốn Trường An, nếu sếp có mặt ở đây, chắc chắn cầu tôi phải cùng họ Trường An ngay, như thế được công đôi việc, tiện thể khảo sát con đường tơ lụa, con đường huyền thoại từ thời Nam Bắc triều. Nhưng giọng cứ vang vọng trong tôi, thôi thúc tôi , đến đó gặp cậu ấy ! Sau khi trưởng thành, Kumarajiva có diện mạo như thế nào nhỉ? Nếu có thể tận mắt nhìn thấy cậu ấy, những nghiên cứu của tôi có ý nghĩa hơn rất nhiều. Vả lại, tôi hứa với Pusyseda nhất định quay lại, tôi phải giữ lời chứ, đúng ?

      Chúng tôi dự trữ nước và lập tức lên đường, vì lo những tên cướp kia quay lại. Mấy tên bị hôn mê, chỉ sau hai mươi tư giờ hồi phục, rất có thể bọn chúng tìm cách trả thù, nghĩ vậy, mọi người đều sợ hãi, ai cũng muốn mau chóng khỏi khu vực ấy càng xa càng tốt. Tôi điều chỉnh lại thời gian đồng hồ cho chậm lại hai giờ, xác lập múi giờ Tân Cương.

      Khi chúng tôi đến được điểm dựng trại bầu trời lấp lánh ngàn sao. Nơi này là thành quách hoang tàn, từ lâu có người ở. Theo phát của người Ba tư nó có tên là Tahanqi. Thành quách này có lẽ rất nhiều tuổi rồi, tường thành trải qua nhiều năm tháng được tu sửa, phần lớn đều sập sệ, dưới ánh trăng vằng vặc, khung cảnh hoang tàn càng làm tăng cảm giác bãi bể nương dâu. Xung quanh là những thửa ruộng, vậy là chúng tôi ra khỏi sa mạc Taklamakan.

      Chúng tôi dựng trại cạnh tường thành, những người Ba Tư hào phóng dựng riêng lán trại cho tôi. Người đàn ông biết tiếng Hán cố diễn đạt cho tôi hiểu rằng nơi này có liên quan đến triều đại nhà Hán. Nhưng vì tiếng Hán của người đó được trôi chảy, phải bổ sung bằng rất nhiều dấu hiệu tay chân, tôi mới hiểu sơ sơ. Ông ta cho tôi biết, thành trì này do người Hán xây dựng lên, đó là vị dũng tướng, với tài thao lược xuất quỷ nhập thần. Người Hán ư? Dũng tướng ư?

      Liệu có phải là thành Taqian do tướng quân Ban Siêu dựng lên ? Tahanqi và Taqian có đọc rất giống nhau. Có lẽ do người Ba Tư phát chuẩn.

      Tim tôi đập mạnh. Thành Taqian thuộc Khâu Từ, vốn là nơi Ban Siêu đóng quân khi nhậm chức đô đốc Tây vực, ở thời đại, vị trí chính xác của nơi này vẫn còn là .

      Nếu như vậy, bí này, giờ đây được giải đáp rồi ư?

      Năm 73 sau Công nguyên, Ban Siêu theo đô úy Đậu Cố tấn công giặc Hung Nô phía bắc, công việc của ông chỉ là văn thư. Ông dẫn theo đoàn sứ giả gồm ba mươi sáu người đến Shanshan, từ đây cuộc đời chinh chiến của ông tại Tây vực mở trang sử đầu tiên.

      Năm 81 sau Công nguyên, ông thống lĩnh đạo quân khoảng hai mươi lăm nghìn người tập hợp từ các nước chư hầu phía nam Tây vực tấn công Yarkland (nay là huyện Yarkland thuộc Tân Cương). Vua Khâu Từ điều quân cứu viện Yarkland, trúng kế của Ban Siêu, thất bại thảm hại và phải bỏ chạy. Yarkland quy thuộc nhà Hán, con đường tơ lụa được khai thông về phía nam.

      Năm 90 sau Công nguyên, nước Yuezhi (nay là các vùng đất thuộc Ấn Độ, Pakistan, Afghanistan) cử đội quân gồm bảy mươi nghìn người tấn công Sulaq (nay là Kashgar thuộc Tân Cương). Ban Siêu nhận thấy đội quân vượt ngàn dặm xa xôi ấy sức cùng lực kiệt, nên cố thủ đánh. Đến khi lương thực cạn kiệt, quân Yuezhi phải chạy đến Khâu Từ xin cứu viện, trước đó Ban Siêu cho quân mai phục, nên tiêu diệt toàn bộ đạo quân kia. Yuezhi đầu hàng, Ban Siêu cho phép tàn quân trở về quê hương, Yuezhi nối lại mối quan hệ hòa hảo với nhà Hán.

      Năm 91 sau Công nguyên, Khâu Từ quy thuận nhà Hán, Ban Siêu được cử làm tướng quân cai quản Tây vực, lập đô hộ phủ tại Khâu Từ, phế bỏ ngôi vua của Vưu Lợi Đa do Hung Nô lập nên, nên đưa thân tín của nhà Hán (chỉ các vương tử do các nước chư hầu Tây vực cử đến triều đình nhà Hán làm con tin), Bạch Bá lên làm vua Khâu Từ. Lịch sử cai trị Khâu Từ hơn tám trăm năm của dòng họ Bạch bắt đầu từ đó, cho đến khi bị người Ughur chiếm đóng.

      Năm 94 sau Công nguyên, Ban Siêu dẫn theo bảy mươi vạn quân tập hợp từ tám nước trong đó có Khâu Từ và Shanshan, chinh phạt tiểu quốc Yanqi ngỗ ngược, bắt trói quốc vương nước này, chém đầu thị uy trước thành trì của vị tướng cai quản Tây vực tiền nhiệm bị giết hại là Trần Mục. Sau đó lập thân tín của nhà Hán là Nguyên Mạnh lên làm vua Yanqi. Từ đó hơn năm mươi quốc gia Tây vực đều quy thuận nhà Hán. Sau khi dẹp tan thế lực của Hung Nô, Ban Siêu dời đô hộ phủ đến thành Taqian. Từ đó, con đường tơ lụa được khai thông về phía bắc.

      Năm 122 sau Công nguyên, vua Khâu Từ khi ấy là Bạch còn băn khoăn biết nên quy thuận hay đối kháng với nhà Hán, con trai Ban Siêu là Ban Dũng dùng lí lẽ thuyết phục, Bạch cùng với hai nước khác là Gumo và Wensu xin hàng Ban Dũng. Từ đó cho đến cuối đời Đông Hán, vương triều Khâu Từ luôn nằm dưới kiểm soát của nhà Hán.

      Tôi nhìn ngắm những mảng tường hoang phế dưới bóng trăng, dấu tích của tháng năm kể lại câu chuyện hào hùng về cuộc đời lẫm liệt và những chiến công rung trời chuyển đất của hai cha con vị tướng quân hùng hai trăm năm mươi năm về trước. Thành quách nguy nga năm nào giờ đây chỉ còn là đống đổ nát, người qua lại. Đến thế kỷ XXI, ngay cả đống đổ nát hoang tàn này cũng lưu lại bất cứ dấu vết nào cả. Trong đêm vắng, lắng nghe tiếng rì rầm tụng kinh của những người Ba Tư theo đạo Hỏa giáo, quan sát họ quỳ lạy trang nghiêm bên đống lửa bập bùng, thần bí của tín ngưỡng lan trong gian mênh mông, càng làm tăng thêm vẻ tịch, lạnh lẽo của chốn này.

      Tôi ở vào thời kỳ Ngũ hồ thập lục quốc, Trung Nguyên đại loạn, các nước chư hầu đua nhau tranh bá, ai màng tới Tây vực. Bởi vậy, từ lâu Khâu Từ còn nghe hiệu lệnh của vương triều Trung Nguyên, Bạch Thuần câu kết với người Hồ ở Trung Á, mưu đồ xưng bá Tây vực, gây bất bình trong các nước ở khu vực này. Phù Kiên đặt nhiệm vụ thống nhất lên hàng đầu, lại nhận được ủng hộ của vua Shanshan và vua Chirsh, lệnh cho Lữ Quang chinh phạt Khâu Từ. Bạch Thuần dựa vào quân Hồ, quân số tổng cộng bảy mươi vạn, vậy mà vẫn thắng nổi mười vạn quân của Lữ Quang. Bạch Thuần tháo chạy, em trai Bạch Chấn lên thay, Khâu Từ trở thành vùng đất trong bản đồ của nhà Tiền Tần. Và số mệnh của Rajiva, cũng rẽ sang hướng mới kể từ đó…

                  Chương 16: Gặp lại người xưa


      Buổi sáng hôm sau, chúng tôi tiếp tục lên đường. Ông trời chứng giám, tôi muốn được ở lại khảo sát thành cổ Taqian biến mất hoàn toàn vào thế kỷ XXI này đến nhường nào. Nhưng sau khi suy tính kỹ lưỡng, tôi vẫn quyết định cùng những người Ba Tư kia lên đường. Có hai lí do, là đoàn thương nhân ấy vì tôi mà phải quay lại Khâu Từ, tôi thể kéo dài thời gian của họ thêm nữa. Hai là, vì an toàn của bản thân, tôi thể tiếp, ai mà biết có hay toán cướp thứ hai. Thôi, hãy cứ đến Khâu Từ trước , rồi quay lại sau vậy, dù sao khoảng cách từ Khâu Từ đến nơi này cũng quá xa. Bởi vậy, sớm tinh mơ tôi trở dậy và vòng quanh thành cổ, thực công việc đo đạc cơ bản nhất, sau đó đánh dấu vị trí lên bản đồ, để tiện cho việc tìm kiếm sau này.

      Lúc lên đường, tôi vẫn lưu luyến dõi theo bóng thành cổ Taqian ngày xa dần cho đến khi chỉ còn là chấm và mất hút trong gian. Nhưng bù lại, đường , tôi được chiêm ngưỡng rất nhiều địa danh khiến tôi phải kinh ngạc. Tôi phát ra di tích quan ải đời nhà Hán, nơi đây vẫn còn lưu lại những vết tích của khói lửa chiến tranh. Tranh thủ giờ nghỉ trưa, tôi xăm xắn chạy đến đo đạc, kiểm tra, tôi còn tìm thấy rất nhiều mảnh sành mảnh sứ và cả tiền đồng thời Hán nữa. Căn cứ vị trí địa lý, nơi đây có lẽ là cửa ải Wulei (Ô Lũy) thời Hán. Về sau, vào thời nhà Đường, ngay cạnh di chỉ này, phong hỏa dài và thành lũy phòng thủ được xây dựng, chung quanh còn có đồn điền và các trại lính, quy mô rất lớn. Công trình kiến trúc này vẫn tồn tại cho đến thế kỷ XXI.

      Tôi cứ thế tất bật với công việc khảo sát suốt dọc đường . Ba ngày sau chúng tôi đến được Khâu Từ.

      Nhận ra bức tường thành quen thuộc, tim tôi đập dữ dội, dường như cảm giác “về đến nhà” trào dâng mạnh mẽ trong tôi. biết Rajiva có ở Khâu Từ ? Cậu ta bao nhiêu tuổi rồi? Có còn nhớ tôi ?

      Chúng tôi vào thành từ cổng phía đông, họ đòi kiểm tra giấy tờ, tôi tròn xoe mắt! nghĩ xem có nên viện cớ là người quen của quốc sư hay người đàn ông Ba Tư biết tiếng Tochari kịp nhét túi vào tay tên lính giữ thành, thế là vung tay ra hiệu cho phép cho chúng tôi qua.

      Đây là thành cổ Khâu Từ mà tôi từng thông thuộc ư? Từ phố lớn đến ngõ chỗ nào cũng được quét dọn sạch , tinh tươm. Dân chúng trong thành mặc những bộ trang phục đẹp nhất, kéo về cổng thành phía tây, ai nấy đều náo nức như trẩy hội. Tôi nhìn những người Ba Tư, họ nhún vai tỏ vẻ hiểu. Đành phải chặn người đường lại để hỏi xem họ đâu. Người đó thấy tôi mặc trang phục của người Hán, liền giải thích cho tôi biết hôm nay là ngày lễ rước tượng Phật (ngôn ngữ Phật giáo gọi là “Hành tượng”), lát nữa có xe hoa chở tượng Phật vào trong thành qua cửa phía tây, sau đó diễu hành qua khắp các đường phố để mọi người được chiêm ngưỡng.

      Ngày lễ rước tượng Phật? Pháp Hiền và Huyền Trang từng viết rằng đây là lễ hội Phật giáo náo nhiệt nhất được tổ chức tại Ấn Độ và các quốc gia Tây vực.

      Thấy tôi ngẩn ngơ suy nghĩ, người đó tưởng rằng người Hán biết về ngày hội này, nên giải thích rất nhiệt tình cho tôi. Sau khi Phật tổ nhập Niết Bàn, Phật tử buồn vì có duyên được thấy Phật, cho nên tổ chức ra ngày hội rước tượng Phật vào ngày Phật Đản để mọi người được chiêm bái và cầu nguyện, vào ngày này, những lời khẩn nguyện đặc biệt linh nghiệm. Nhưng ngày hội lớn như thế này lại được lưu truyền ở Trung Nguyên. Tôi may mắn vì tới đây đúng lúc, thể bỏ qua cơ hội được tận mắt chứng kiến ngày lễ Phật giáo trọng đại này được. Tôi lời từ biệt với đoàn thương nhân Ba Tư, họ mang theo bên mình bao nhiêu là hàng hóa, chắc chắn thể cùng tôi. Người dẫn đầu đoàn thương nhân ấy muốn biếu tôi khoản tiền, nhưng tôi mực từ chối. Người đó bèn lấy ra chuỗi hạt đeo tay bằng mã não trong suốt, lấp lánh rất đẹp, đặt vào tay tôi, tôi đành nhận lấy.

      Sau khi chia tay đoàn người Ba Tư ấy, tôi hòa vào dòng người, đổ về cổng thành phía tây. khán đài được dựng tạm cổng thành, những tấm vải bạt to rộng màu vàng màu đỏ, được trang trí bằng vô số hoa tươi phủ lên . Khán giả khán đài là những người ăn mặc cầu kỳ, sang trọng và nổi bật, tuy nhìn , nhưng chắc chắn là hoàng tộc và quý tộc Khâu Từ. Tôi bị chen lấn, xô đẩy và dạt ra tận ngoài cổng thành đến vài chục bước. Nhưng sau cùng cũng tìm được khoảng trống để đặt đủ hai chân, nhưng tôi chỉ có thể kiễng lên mà nhìn vào phía trong. Thảm đỏ được trải dài trăm mét, chạy thẳng đến cổng chính phía tây. Lúc này, biển người đột nhiên di động, tôi đưa mắt nhìn theo ra ngoài cổng thành, vẫn trong tư thế kiễng chân, tôi thấy hai chiếc xe bốn bánh khổ lớn, giống hệt nhau, cao khoảng bốn, năm mét, trang trí lộng lẫy, nguy nga như cung điện , phủ lên tấm phông màu vàng. Tôi từng nhìn thấy những cỗ xe rước tượng Phật như vậy ở quảng trường lớn trước đây, cạnh tượng Phật tổ còn có hai bức tượng Bồ Tát khổ nữa. Tượng Phật được đúc bằng vàng, mình khoác áo cà sa màu vàng với những họa tiết phức tạp và đeo đủ loại trang sức vàng bạc, châu báu.

      Những cỗ xe chầm chậm tiến vào cổng thành phía tây, rồi dừng lại trước thảm đỏ. Đức vua Khâu Từ từ khán đài bước xuống, tháo vương miện, cởi giày, chân trần bước thảm đỏ, hai tay nâng cao quá đầu nén nhang dài, cung kính hướng về phía tượng Phật. Đức vua nom luống tuổi, thân thể nặng nề hơn xưa. Bỗng, tôi như bị thôi miên, người đứng trang nghiêm phía sau Bạch Thuần ấy, người khoác áo cà sa dát kim tuyến, khí khái bất phàm ấy chính là Rajiva, đúng rồi, là cậu ấy!

      Giống như trong phim, mọi thứ xung quanh trở nên mờ ảo, thành ồn ào huyên náo biến mất, trước mắt tôi chỉ có hình ảnh Rajiva là sống động và duy nhất.

      Cậu ấy trưởng thành, tuổi chừng hơn hai mươi, đẹp như bức tượng điêu khắc Hy Lạp với sống mũi cao vời vợi, đôi mắt sáng mênh mông, hàng lông mày dài mượt và dày đậm, đôi đồng tử màu xám nhạt khi nhìn lên, tưởng chừng có thể thấu suốt mọi thứ thế gian này. Làn môi mỏng khép chặt, đường môi sống động như vẽ ấy, dễ làm say lòng người. Cậu ta trông rất cao, chắc chắn hơn mét tám mươi. Cơ thể săn chắc hơn nhiều so với độ tuổi mười ba, mặc dù vẫn gầy guộc, nhưng vóc dáng rất cân đối. Khuôn mặt dài thanh tú, chiếc cằm nhọn và chiếc cổ thiên nga quyến rũ, đường nét nào cũng hấp dẫn, cũng hút hồn. Và còn khí chất thoát tục toát lên từ vẻ đạo mạo, nghiêm cẩn ấy nữa, giữa đám đông thế tục ô hợp, càng trở nên nổi bật, khiến người khác khỏi ngưỡng vọng.

      Rajiva ơi Rajiva, sao cậu lại trở nên khôi ngô, tuấn tú, sáng láng đến vậy? Cứ ngắm cậu thế này, trở về thế kỷ XXI, làm sao tôi để ý đến những người đàn ông khác được nữa?

      Bạch Thuần quỳ xuống trước tượng Phật tổ, thị nữ bưng đến chậu hoa rực rỡ sắc màu, nhà vua cắm nén nhang lên hương án phía trước tượng Phật, rồi rắc hoa tươi lên mình tượng. Đám đông reo hò vang dội. Lúc này, hoàng hậu cùng đám phụ nữ quý tộc cũng đứng thành lầu rắc hoa tươi xuống dưới cổng thành. Tiếng trống, tiếng nhạc bắt đầu được tấu lên, đoàn xe chầm chậm lăn bánh men theo thảm đỏ, tiến vào nội thành. Bạch Thuần và vài người khác dẫn đầu đoàn rước. Rajiva cũng cùng. Tôi hốt hoảng hét to:

      - Rajiva, Rajiva, tôi đây, tôi ở đây. Tôi về rồi!

      Đám đông xô nhau về phía cổng thành, tôi bị ép sát thở nổi, cảm giác như toàn thân mình bị đẩy , chân hề chạm đất. Rajiva đột ngột quay đầu lại, dường như dõi về phía tôi. Tôi muốn gọi cậu ấy, nhưng những người phía sau chen lên, đẩy tôi ngã sóng soài. Khi tôi luống cuống đứng dậy cậu ta xa mất rồi. Nhìn theo bóng dáng mảnh khảnh ấy khuất dần về phía nội thành, tôi cười buồn. Có lẽ cậu ta nghe thấy tiếng tôi gọi, giữa biết bao thanh hỗn tạp như vậy, làm sao mà nghe thấy được. Lúc này tôi mới cảm thấy vết trầy xước bỏng rát trong lòng bàn tay và khuỷu tay. Quần áo mùa hè mỏng manh, chẳng có tác dụng gì!

      Tôi thơ thẩn theo đoàn xe vào thành phố, mỗi khi đến trước cổng đền chùa hay cung điện, đoàn xe đều dừng lại. Sau đó có những chàng trai và mặc đồ lụa rất đẹp, tay xoay tròn khay gỗ và nhảy múa. Vạt áo, thắt lưng người họ theo gió tung bay, trong tiếng nhạc rộn ràng và với những động tác thuần thục khéo léo họ vừa nhảy múa vừa rắc hoa tươi đựng trong khay gỗ lên tượng Phật. Khán giả xung quanh vỗ tay rầm rầm tán thưởng. Tiếp đến là thiếu nữ dáng vẻ kiều, mặc chiếc váy voan mỏng mềm mại, hai tay nâng cao chiếc bát bằng vàng, chân trần nhảy múa, động tác uyển chuyển điêu luyện, miệng tươi như hoa, chốc chốc lại nhấc cao chân trái lên, hai tay nâng chiếc bát vàng qua đầu. Điệu múa này được phác họa sinh động những bức bích họa ở Đôn Hoàng và Kizil.

      Tôi hỏi chuyện cụ già đứng bên cạnh. Cụ cho tôi biết, hai vũ điệu này gọi là múa đĩa (Bàn vũ) và múa bát (Uyển vũ). Múa đĩa, là điệu múa rắc hoa lên tượng Phật và người đường, tượng trưng cho ca ngợi và tôn kính đối với Phật tổ. Múa bát là điệu múa bắt nguồn từ câu chuyện Phật tổ trong sáu năm tu khổ hạnh, ngài muốn khắc chế bản thân, nên áp dụng phương thức hành xác trong mọi sinh hoạt ăn ở và lại. Thế nhưng, đến lúc lả vì kiệt sức, ngài vẫn thể đắc đạo. Sau cùng, ngài đến ngồi thiền dưới gốc bồ đề và giác ngộ, rồi ngài sáng lập ra Phật giáo. Sau khi ngộ đạo, Phật tổ ra sông tắm gội, ngài được trẻ cúng dường bát cháo. Điệu múa này chính là điệu múa mô phỏng câu chuyện trẻ kia cúng cháo cho Đức Phật.

      Vũ điệu và nhạc đều rất cuốn hút, nhất là với người đến từ thế kỷ XXI như tôi, nhưng làm nguôi ngoai những ngổn ngang trong lòng tôi. Đôi mắt tôi cứ bất giác len qua những vũ điệu, len qua tượng Phật, len qua đám đông ồn ào, để kiếm tìm bóng dáng khổ hạnh, thoát tục ấy…

      Mỗi lần tưởng như nhìn thấy người đó rồi, tôi chạy vượt lên tìm kiếm, chợt sững lại, hóa ra chỉ là ảo giác. Chỉ là ảo giác thôi ư? Chợt nhớ đến câu thơ:

      Giật mình tôi ngoảnh lại

      Bỗng thấy Người đứng đó,

      Bên tàn lửa lung linh.

      Tôi hít hơi sâu, thử quay đầu lại, có ai. Dụi mắt, nhìn quanh, vẫn ai cả.

      Trời tối dần, phố vẫn rộn ràng lời ca tiếng hát, đến lúc phải lo tìm chỗ ở. Tôi tách ra khỏi đám đông, hỏi thăm vài nhà trọ, đều được thông báo là hết phòng. Hay là đến phủ quốc sư? Nhưng bộ dạng của tôi thế này, chắc khiến họ sợ hãi. phải trông tôi dữ dằn hung ác đâu bạn ạ, thực ra dung mạo của tôi cũng đến nỗi nào, đảm bảo làm khán giả phải thất vọng. Tôi từng được phong danh hiệu hoa khôi của lớp nghiên cứu sinh khoa lịch sử, tất nhiên, lớp học của tôi nam nhiều hơn nữ. Nhưng nếu bạn nhìn thấy người mà sau gần mười năm hoặc hơn mười năm (tôi vẫn chưa biết thời gian ở đây trôi qua bao nhiêu năm rồi) dung mạo hề thay đổi, phản ứng của bạn thế nào?

      do dự biết phải làm sao tôi gặp được cứu tinh, chính là những thương nhân người Ba Tư ấy. Họ đưa tôi đến giáo đường Hỏa giáo của họ, phía sau khu giáo đừng có các căn phòng dành riêng cho những người Ba Tư khi qua nơi này trọ lại, có nét gì đó giống với các hội quán ở Thiểm Tây, Ôn Châu. Tôi ở lại đây trong đêm đầu tiên trở lại Khâu Từ.

      Chương 17: Nàng về


      Ngày hôm sau, đoàn thương nhân Ba Tư lên đường Trường An, tôi phải người Ba Tư, cũng phải tín đồ Hỏa giáo, tôi thể ăn nhờ ở đậu ở đây mãi được. Vậy nên dự định của tôi là dạo phố, nhân tiện tìm nhà trọ.

      phố vẫn đông nghịt người, họ lại đổ xô về cổng thành phía tây, dường như tôi nghe thấy họ nhắc đến tên Kumarajiva. Tôi chặn đường người đàn ông đứng tuổi để hỏi thăm, người đó bảo rằng, hôm nay ở quảng trường lớn có buổi giảng kinh của Pháp sư nức tiếng gần xa Kumarajiva, đây là dịp hiếm có, phải mau đến đó giành lấy chỗ ngồi.

      Những lời tiếp theo biết tôi có nghe lọt tai chữ nào , chỉ biết rằng tôi gật đầu đáp lại trong vô thức và đôi chân cứ thế trôi theo hướng người đó chỉ.

      Tôi lại đến quảng trường lớn “năm năm lần đại hội”. Hai pho tượng Phật cao bốn đến năm mét được đưa diễu hành ngày hôm qua chắc hẳn tọa lạc trong ngôi chùa hoặc ngôi đền nào đó.

      Tiếng cười ồn ào, náo nhiệt, mọi người ngồi luôn xuống đất. bục cao có ngai sư tử bằng vàng lóng lánh, lót đệm nhung thêu kim tuyến, dưới ánh nắng chói chang, những sợi kim tuyến lấp lánh chói mắt. Tôi đến muộn, nên phải ngồi mãi phía sau. Tôi để ý thấy trong đám đông, nữ giới nhiều hơn nam giới, nào nấy má đỏ hây hây, cố sức rướn mình cao, dõi mắt tìm kiếm khán đài. Ồ, ra, chàng đẹp trai đến đâu cũng thu hút chú ý, kể cả khi ta là hòa thượng. Nếu hôm nay phải Rajiva, mà là lão hòa thượng hom hem, liệu có thu hút được đông khán thính giả nữ như thế này ? Chợt nhớ có lần từng thảo luận với Rajiva về câu của Khổng Tử: “Ngô vị kiến hiếu đức như háo sắc giả dã”, bất giác mỉm cười. Khổng tiên sinh quả nhiên gạt ta!

      Đám đông xao động, các thiếu nữ đua nhau vươn cổ ngó nghiêng. Tôi cũng hồi hộp dõi mắt về phía bục cao. Có người bước lên! Nhưng phải Rajiva, mà là đức vua Bạch Thuần cùng đám quý tộc, họ xếp thành vòng tròn. Sau đó, Rajiva xuất ! Vẫn khoác mình chiếc áo cà sa dát kim tuyến, thần thái an nhiên, tự tại, từng bước tiến về phía ngai sư tử đặt ở chính giữa. Bạch Thuần quỳ trước ngai sư tử, hai tay đưa lên làm thành tư thế đỡ. Rajiva khẽ chạm chân lên bàn tay Bạch Thuần, chân còn lại đặt lên vai đức vua, làm đà rướn mình bước lên và ngồi vào ngai sư tử. Đám đông sững sờ! Có lẽ chỉ tôi, mà ngay cả người dân Khâu Từ cũng chưa bao giờ được chứng kiến nghi lễ trang trọng đến thế. Trong truyện kể về Rajiva có đoạn viết: “Vua Khâu Từ sai người đúc ngai sư tử vàng, lót đệm nhung của Đại Tần lên . Chiếc ngai nguy nga đó dành cho Rajiva ngồi khi giảng kinh”. Hôm nay được tận mắt chứng kiến, mới biết sử sách ghi chép sai chút nào.

      Sau khi Rajiva yên vị, Bạch Thuần cùng đám quý tộc khoanh chân ngồi lên tấm thảm trải phía dưới ngai sư tử. Rajiva cất tiếng, cậu sử dụng ngôn ngữ Tochari. Có lẽ vì đây là buổi giảng kinh cho dân thường và mức độ phổ cập của tiếng Phạn cao. Giọng của Rajiva còn điệu hồn nhiên của tuổi mười ba, thay vào đó là vẻ chững chạc của tuổi trưởng thành. Đó là chất giọng trầm ấm, truyền cảm, khoan thai, rất cuốn hút, có thể chạm đến từng sợi dây thần kinh của người nghe và khiến chúng được thư thái hoàn toàn. Lời mở đầu ngắn gọn, khúc chiết, ngay lập tức chiếm được cảm tình của khán thính giả. Kỹ năng diễn thuyết của Rajiva tiến bộ vượt bậc, chắc rằng những năm qua, cậu tham gia rất nhiều buổi giảng kinh như thế này.

      Sau đó, Rajiva bắt đầu thuyết pháp. Đó là tích Phật tổ lưu trú tại vườn Kỳ Viên, nước Xá Vệ (Savatthi, vương quốc cổ đại ở miền Trung Ấn Độ). Khu vườn do thái tử Kỳ Đà (Jeta) và nhà từ thiện Tu Đạt Đa (Sudatta, biệt hiệu Cấp Độc) quyên tặng làm tịnh xá cho Phật tổ và nghìn hai trăm năm mươi vị Đại Tỷ khâu (Bhiksu). ngày nọ, như thường lệ, vào giờ trưa, Đức Phật khoác áo cà sa, tay cầm bát sành, vào thành Xá Vệ khất thực. Ngài đến từng nhà xin bố thí, phân biệt giàu nghèo. Sau đó quay về vườn Kỳ Viên, Ngài ăn uống, rồi thu dọn đồ đạc, rửa chân và ngồi tọa thiền. Lúc này, trưởng lão Tu Bồ Đề (Subhuti, pháp hiệu “Giải đệ nhất”, là trong mười đại đệ tử của Phật tổ) mới đứng lên, vai trần bên phải, chân phải quỳ dưới đất, hai tay chắp lại, bắt đầu thỉnh giáo Phật tổ về Phật pháp.

      Sau đó, tôi thấy ù tai, chóng mặt. Phần đầu là truyện kể nên tôi có thể nghe hiểu khó khăn gì dựa vào vốn từ vựng Tochari sẵn có trước đó, kết hợp với những kiến thức về Phật học và tài liệu liên quan đến Rajiva mà tôi kịp trau dồi sau khi trở về thế kỷ XXI. Nhưng tiếp theo lại là những giáo lý Phật giáo uyên thâm. Mặc dù Rajiva thuyết giảng với tốc độ vừa phải, từng câu từng chữ ràng, khúc chiết, nhưng phần lớn vẫn là những từ ngữ mà tôi chưa được học, nên tôi nghe hiểu mô tê gì. Cảm giác lúc này hệt như khi tham dự buổi giảng kinh đầu tiên của Rajiva ở Wensu, ký ức sống động như vừa diễn ra hôm qua. Thực ra, mọi thứ liên quan đến Rajiva đều rất sống động, mới mẻ vì với tôi, đó là những hình ảnh của chưa đầy năm về trước.

      Rajiva khoát tay, chuỗi tràng hạt lộ ra cánh tay trái. Có phải tôi nhìn nhầm ? Vì sao trực giác cho tôi hay, đó chính là món quà tết tôi tặng cậu ta trước lúc rời khỏi Khâu Từ? Tôi chăm chú quan sát người ngồi chiếc ngai sư tử ấy, tuy ở khoảng cách khá xa, nhưng vẫn thấy nét an nhiên, tự tại đặc trưng gương mặt. Bất giác, buông tiếng thở dài.

      Rajiva, mấy ngày qua, tôi cứ mê man chạy đuổi theo cậu, nhưng có cách nào lại gần cậu được. Lẽ nào tôi cũng chỉ có thể giống như những với đôi mắt mang hình trái tim kia, ngắm nhìn cậu từ phía xa? Cậu cứ thuyết giảng , lần này tôi hứa trốn về nữa, nhưng liệu cậu có nhìn thấy tôi ?

      Buổi thuyết pháp kéo dài mấy giờ đồng hồ và Rajiva cầm bất cứ tài liệu gì tay, thậm chí, trong suốt thời gian giảng kinh, cậu ấy còn chẳng hắng giọng lấy tiếng. Hồi ở Wensu, cậu ấy thuyết giảng liên tục bảy bảy bốn mươi chín ngày, tuy tôi chỉ ngồi nghe nửa ngày, nhưng có thể khẳng định chắc chắn rằng, cậu ấy bao giờ cần đến tài liệu. Vẫn biết Rajiva thông minh tuyệt đỉnh, chỉ cần đọc qua là nhớ, nhưng thể bày tỏ thán phục đối với cậu ấy. Còn về phần mình, mặc dù rất đau khổ, nhưng xin thú là tôi chỉ hiểu được khoảng hai mươi phần trăm nội dung bài giảng và đưa ra kết luận như thế này: Rajiva vừa thuyết giảng về ý nghĩa của khái niệm “” trong giáo lý Đại Thừa và những kinh văn mà cậu ấy vừa đọc chính là trong những tác phẩm dịch thuật nổi tiếng sau này của cậu ấy: “Kim cương bát nhã ba la mật kinh”, thường được gọi là “Kinh kim cương”.

      Tuy thuộc trọn bộ “Kinh kim cương”, nhưng sau khi trở về thế kỷ XXI, tôi dành nhiều thời gian để tìm đọc cuốn kinh có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với Rajiva này. Toàn văn bản dịch “Kinh kim cương” của Rajiva dài, chưa đến năm nghìn chữ, là cuốn kinh văn ghi lại nội dung những câu hỏi đáp giữa Phật tổ và đại đệ tử Tu Bồ Đề (Subhuti). Khái niệm “” trong Phật giáo vốn rất khó lý giải bằng ngôn từ, bởi vậy, trong cuốn “Kinh kim cương” có rất nhiều câu chữ đậm màu sắc huyền hoặc, uyên thâm của đạo Phật, cố gắng luận giải những giáo lý vốn dĩ thể diễn đạt bằng lời. Bộ kinh thư này có tất cả sáu phiên bản, cả Rajiva và Huyền Trang đều từng dịch sang tiếng Hán. Bản dịch của Rajiva được giới Phật giáo gọi là bản cũ, bản dịch của Huyền Trang gọi là bản mới. Nhưng bản dịch tuân thủ gần như tuyệt đối nguyên văn tiếng Phạn của Huyền Trang rất ít người nhớ đến. Trong khi bản dịch nghiêng về phương pháp dịch thoát ý của Rajiva lại được lưu truyền rộng rãi suốt 1650 năm.

      Trong bản dịch “Kinh kim cương” của Rajiva, tôi thích nhất đoạn này:

      Nhất thiết hữu vi pháp

      Như mộng, huyễn, bào, ảnh

      Như lộ diệc như điện

      Ưng tác như thị quán

       (Tất cả các pháp hữu vi

      Như bóng, bọt nước có gì khác đâu

      Như sương, như điện lóe mau

      Hãy xem như giấc chiêm bao mơ màng) [8]

      [8] Bản dịch của Huỳnh Ngọc Chiến.


      Những câu kinh súc tích, chau chuốt, đậm chất thơ trích từ “Kinh kim cương” ấy toát lên tư tưởng chủ đạo của Phật giáo Đại Thừa khi nhìn nhận cõi đời như giấc mơ, như cơn gió thoảng, như giọt sương rơi chiếc lá, thường được gọi là bài kệ Lục Như. Đọc những bản dịch như thế này mới hiểu được vì sao tác phẩm dịch thuật của Rajiva lại có sức sống lâu bền với thời gian như vậy.

      Rajiva thuyết giảng triết lý “” trước quần chúng, điều này chứng tỏ cậu ấy thay đổi tông phái từ Tiểu Thừa sang Đại Thừa, ra sức truyền bá giáo lý Đại Thừa, bất chấp phản kháng mạnh mẽ từ các thế lực Phật giáo Tiểu Thừa ở Khâu Từ. Vậy là, hơn mười năm dưới nỗ lực ngừng của Rajiva, người dân Khâu Từ tin theo và sùng bái Phật giáo Đại Thừa. Nhưng, Rajiva đâu biết rằng, sau khi cậu rời khỏi Khâu Từ và bao giờ trở lại, tông phái Đại Thừa mà cậu mất bao công sức và tâm sức gây dựng nên nhanh chóng suy yếu và Phật giáo Tiểu Thừa lại được dịp phát triển rầm rộ, cho đến khi Khâu Từ bị người Ughur đồng hóa và cưỡng chế theo tín ngưỡng Hồi giáo của họ. Phật giáo Đại Thừa ở Khâu Từ chỉ tồn tại và hưng thịnh nhờ có Rajiva, điều đó, quả thực, chẳng khác nào hoa phù dung kia sớm nở tối tàn!

      Buổi giảng kinh kết thúc, nhưng tôi chưa vội ra về, mà rảo bước sang mạn tây bắc của quảng trường lớn. Dòng sông đóng băng ngày ấy giờ đây chảy xiết, cây cầu bắc qua sông. Ngôi chùa “kỳ lạ” vẫn trầm mặc tọa lạc bên kia sông, mái chùa lấp lánh ánh vàng, xem ra, chùa được tu sửa ngày càng khang trang hơn. Nhớ lại khoảnh khắc run rẩy nhón bước mặt băng, tay nắm chặt bàn tay ấm áp của Rajiva, bất giác mỉm cười. Đó là lần đầu tiên tôi bị hoa mắt vì “quáng tuyết” (cường độ ánh sáng mãnh liệt phản chiếu lên mặt băng tuyết, kích thích và làm cho mắt bị đau, thậm chí bị mù). Tôi nhắm mắt lại, hồi tưởng về nỗi sợ hãi khi đó.

      - Rajiva, sao tôi thấy cậu?

      - Đừng sợ, cứ nhắm mắt lại, lát nữa là sao.

      - Rajiva, tôi bị mù chứ?

      - đâu.

      - Nếu tôi bị mù phải làm sao?

      - đâu.

      - trở lại!

      Hả? Câu cuối cùng hình như nằm trong kho trí nhớ của tôi phải? Tôi mở mắt, quay đầu lại. Định thần, rồi hai mắt cứ thế mở to ra, to nữa, thêm nữa, lớn đến mức trong tầm mắt chỉ tồn tại duy nhất dáng vẻ thảnh thơi, an nhiên của cậu ấy…

      Mười năm gặp, sao vẫn ngây ngô như vậy?

      Phải rồi, cậu ta từng , nếu có vẻ mặt ngây ngô ấy, tôi thông minh hơn rất nhiều. Trời ơi, những kỉ niệm mà tôi ngỡ vừa mới hôm qua, vậy mà là mười năm thời gian đối với Rajiva. Sống mũi tôi bỗng cay cay.

      - Sao thế? nhận ra tôi à?

      Cánh tay phải chìa ra, sắp chạm đến vai tôi, lại đột ngột vẽ đường vòng ngượng ngập, rồi thu về. Ánh mắt ban đầu nhìn tôi chăm chú, bỗng chớp chớp đôi ba lần, khẽ cúi đầu, hàng mi chùng lại. Nhưng cánh tay lại đột ngột vươn ra nắm lấy tay phải của tôi:

      - Sao thế này?

      Theo ánh mắt của Rajiva tôi nhìn xuống lòng bàn tay mình. Cú ngã hôm qua, khiến lòng bàn tay và khuỷu tay tôi rách toác, nhưng tôi giấu kỹ trong tay áo, nên nhìn bên ngoài thể phát ra. Cho đến tận tối hôm qua, khi tôi vào nghỉ trọ trong giáo đường của người Ba Tư, mới xắn tay áo lên xử lý sơ qua vết thương. Lúc này, vết rách tím lại và sưng lên. Thời cổ đại có thuốc chống viêm, mắc bệnh uốn ván cũng có thể mất mạng như chơi. Nếu chữa khỏi, tôi chỉ còn cách trở về thế kỷ XXI…

      mải nghĩ, chợt cảm thấy mình bị lôi .

      - đâu vậy?

      Bàn tay Rajiva vẫn ấm áp và trơn ướt như xưa.

      - khám bệnh.

      Rajiva ngước nhìn lên bục cao, mọi người đều ra về, chỉ còn lại vài hòa thượng quét dọn.

      - Đức vua hồi cung, hãy vào cung cùng tôi.

      - Cậu…

      Tôi ngập ngừng:

      - Cậu thắc mắc vì sao tôi hề thay đổi ư?

      Cậu ta hỏi gì khiến tôi cảm thấy rất bứt rứt, nhưng nếu cậu ta hỏi đến, tôi phải giải thích sao đây?

      Sau mười năm, Rajiva trở thành chàng trai khôi ngô, tuấn tú, còn tôi, chẳng thay đổi gì cả. Vậy là cậu ta “bắt kịp” tôi, cũng hai mươi tư tuổi. Chàng thanh niên bằng tuổi tôi ấy nắm tay tôi kéo , cẩn trọng để chạm vào vết thương của tôi. Nhưng Rajiva là hòa thượng và ở phía đó còn có những người khác…

      Cảm thấy tôi đột nhiên dừng bước, Rajiva quay đầu, nhận ra tôi chú ý đến bàn tay cậu ta nắm chặt tay mình. Rajiva vội thả tay ra, gương mặt lại đỏ lên rộn ràng hệt như mười năm trước, mắt cụp xuống, khẽ :

      - Pusyseda bảo là tiên nữ…

      Rồi lại ngước lên nhìn tôi, vẫn là đôi mắt trong sáng và thuần khiết ấy.

      - Dù thế nào, trở về là tốt rồi…

      Tôi nghe mà sống mũi cay cay, tôi ốm mất!

      Chúng tôi vào cung tìm ngự y nữa, tôi sợ chạm mặt người quen. Rajiva xem tôi là quái nhân, nhưng biết đâu những người khác trói tôi lại rồi đưa lên giàn thiêu sao, tốt hơn hết là phải thận trọng! Tôi với Rajiva những lo lắng của mình, nhưng thấy tôi do dự, cậu ta hiểu ngay.

      Tôi đeo chiếc ba lô Northface lên vai rồi trèo lên xe ngựa của Rajiva, cậu ấy bảo đưa tôi tìm chỗ ở. Chiếc xe ngựa của Rajiva bên ngoài trông rất giản dị nhưng bên trong khá là thoải mái, có đệm êm, ngựa tốt. Là hòa thượng, Rajiva sở hữu tài sản cá nhân, nhưng cả đời cậu ấy đều phải lo chuyện cơm ăn áo mặc và lúc nào cũng có người hầu kẻ hạ. Khi còn ở Kabul, chưa đầy mười tuổi mà Rajiva nhận được đãi ngộ đặc biệt: “Mỗi ngày hai đôi ngỗng khô, ba đấu gạo, ba đấu bột mì, sáu cân bơ. Nơi ở có năm vị tăng trẻ, mười chú tiểu lo công việc và số đệ tử khác lo quét dọn. Có thể thấy Kumarajiva được trọng vọng như thế nào”. Trong các bộ phim truyền hình mà tôi xem, các chú tiểu vất vả lắm cũng chỉ phải cầm chổi quét qua quét lại, Rajiva, có lẽ cả đời cũng phải động chân động tay vào mấy công việc lặt vặt này…

      Xe ngựa rung lắc khá mạnh cắt ngang những suy nghĩ miên man của tôi, quay lại và nhìn sang phía đối diện, khuôn mặt Rajiva biết từ lúc nào lại đỏ lên như gấc chín

      Tôi hắng giọng, đưa mắt đến chuỗi hạt tay cậu ta, màu sắc còn như trước nữa, số hạt có vết nứt.

      - Cũ như vậy mà vẫn đeo sao?

      Cậu ta cúi xuống, thu tay vào trong áo:

      - Vẫn đeo, chưa muốn thay.

      Tôi lôi trong ba lô ra chuỗi hạt mã não.

      - Đeo cái này .

      Rajiva nhìn chuỗi hạt trong tay tôi, hơi ngạc nhiên. Chuỗi hạt đó rất đều và đẹp, sắc đỏ long lanh, trong suốt, chỉ nhìn cũng biết là món đồ quý giá. lúc sau, cậu ta mới đưa ta ra nhận lấy chuỗi hạt, nhưng đeo vào tay, mà thận trọng đặt vào lòng mình.

      Ánh mắt mơ màng ngước nhìn tôi. Tôi nghĩ, xe ngựa này xóc quá…

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :