1. QUY ĐỊNH BOX XUẤT BẢN :

       

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]

    ----•Nội dung cần:

    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)

    - Tác giả

    - Dịch giả

    - Đơn vị phát hành

    - Số trang ( nên có)

    - Giá bìa (nên có)

    - Ngày xuất bản (nên có)

    --- Quy định

    1 . Thành viên post có thể tự type hoặc copy từ nơi khác (để nguồn)

    2 . Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn

    3. Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ

    Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Đông Cung - Phỉ Ngã Tử Tồn

Thảo luận trong 'Sách XB Hoàn'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

      Đông Cung
      [​IMG]
      Tác giả: Phỉ Ngã Tư Tồn

      Dịch giả: Quỳnh Phương

      Kích thước: 14.5 x 20.5 cm

      Số trang: 528

      Ngày xuất bản: 04-06-2013

      Giá bìa: 126.000 ₫

      Công ty phát hành: Đinh Tị

      Nhà xuất bản: NXB Văn Học

      Chụp pic: ha vong

      Type

      susubexinh: 1-2

      ha vong: 3-4

      bamdien: 5-6

      violetrosa: 7-9

      silverysnow: 10-13

      Hoài Hoàng: 14-hết

      Beta: MaiThanh

      Làm ebook: Dâu Lê

      Nguồn ebook: http://www.luv-ebook.com

      Giới thiệu
      Nàng, vốn là cửu công chúa của Tây Lương quốc, ở Tây Lương nàng được vô vàn ân sủng, chỉ vì cầu thân mới phải lên đường đến Trung Nguyên.

      , thân là đương kim thái tử, địa vị chỉ khom lưng dưới người mà đứng cả ngàn vạn kẻ khác, vì hôn nhân chính trị, bất đắc dĩ mới phải lấy công chúa của dị quốc.

      có ái phi của riêng mình, Triệu lương đệ. Nàng cũng có cuộc sống của riêng nàng, ấy là lén xuất cung, chặn ngựa lồng dở chứng, trừ gian diệt ác, đuổi trộm cắp, tiễn trẻ lạc về tận nhà, lại còn có uống rượu, ngao du kỹ viện….

      Họ tưởng đâu chỉ là 2 đường thẳng song song vĩnh viễn bao giờ giao nhau. Thế rồi những tranh đoạt địa vị trong Đông Cung, những phải trái vô duyên cớ, những nham hiểm ngấm ngầm, lại cứ từng bước từng bước cuốn nàng công chúa ấy vào dòng nước xoáy.

      Có con cáo đơn,

      ngồi cồn cát ngắm trăng mình,

      cơ mà đâu phải ngắm trăng,

      cáo mong đợi nàng chăn dê.

      có con cáo bơ vơ,

      ngồi cồn cát thẩn thơ sưởi mình,

      nào đâu cáo muốn sưởi mình,

      cáo đợi mình cưỡi ngựa qua

      ...

      Hóa ra cứ mãi đợi mãi chờ, con cáo ấy lại chẳng thể đợi được người mà nó muốn...
      Last edited by a moderator: 31/7/14

    2. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

      justify;" align="
      Có con chồn bước lang thang



      justify;" align="            đập đá đắp ngang sông Kỳ



      justify;" align="            Lòng em luống những sầu bi,



      justify;" align="            Nơi chàng quần thiếu ai may cho?



      justify;" align="



      justify;" align="            Lang thang chồn bước mình



      justify;" align="            Sông Kỳ thấy băng ghềnh chỗ sâu.



      justify;" align="            Lòng em luống những bi sầu,



      justify;" align="            Nỗi chàng thiếu nịt, ai đâu may giùm?



      justify;" align="



      justify;" align="            Có con chồn bước mình,



      justify;" align="            Lang thang dọc ở bên sông Kỳ



      justify;" align="            Lòng em lo ngại sầu bi,



      justify;" align="            Áo quần chàng thiếu, ai may cho?



      justify;" align="                          (Hữu hồ - Kinh thi)



      justify;" align="                                    Dịch thơ: Tạ Quang Phát)



      justify;" align="




      justify;" align="



                  Phần I

                  THẲNG TẮP

       
                  Chương 1





                  Tôi và Lý Thừa Ngân lại vừa cãi nhau. Sau mỗi bận lục đục, bao giờ cũng chơi trò phớt lờ, thậm chí cấm cả những người xung quanh được phép tiếp chuyện tôi.

                  Ngồi cũng chán, tôi bèn lén ra ngoài chơi. A Độ vẫn theo sát tôi như hình với bóng, bất kể là đâu cũng đố thoát nổi. Được cái tôi cũng quý A Độ, ngoài cái tính lúc nào cũng lầm lầm lì lì ra cái gì cũng tốt, thế võ nghệ còn cao cường, có thể giúp tôi đánh đuổi bọn xấu.

                  Chúng tôi đến quán trà nghe kể chuyện, vị tiên sinh kể chuyện hăng đến nỗi nước miếng văng tứ tung, đến đoạn Tiên Kiếm chém bay đầu người từ khoảng cách nghìn dặm, tôi quay sang hỏi A Độ:

                  - Này, muội bảo chuyện Tiên Kiếm có ?

                  A Độ lắc đầu.

                  Tôi cũng thấy khó mà tin được.

                  Nhưng phải công nhận cao thủ võ lâm , như chuôi Kim thác đao của A Độ đây, tôi từng chứng kiến bản lĩnh nhanh như chớp của muội ấy rồi. Theo tôi, cái kiểu chém bay đầu người ở khoảng cách cả nghìn dặm chỉ là khoác lác, rặt thêm mắm dặm muối cả.

                  Chúng tôi rời quán trà, tình cờ thấy đám người tụ họp rất đông ở đầu đường. Trời sinh tôi vốn tính ham vui, lẽ đương nhiên cũng chen vào đó xem thế nào. Chuyện là, bên đó có nương cả người vận đồ tang quỳ gối khóc lóc sụt sùi, phía sau là manh chiếu rách cuộn tròn, đầu bó chiếu lộ ra hai bàn chân duỗi thẳng của xác chết, đến giày cũng có. Người qua đường chỉ biết lắc đầu thở dài trước bốn chữ viết bằng mực đen: “Bán thân chôn cha” vải bố trắng của ấy.

                  - Ôi! Bán thân chôn cha! Dám hỏi nương định bán mình giá bao nhiêu?

                  Đám người xung quang lập tức trừng mắt nhìn tôi vẻ phẫn nộ. Tôi bèn lè lưỡi, rụt cổ, quên béng mất là mình mặc đồ nam. A Độ liền kéo kéo vạt áo tôi, tôi hiểu ý ngay tức . A Độ thường lo tôi gặp rắc rối, suốt ngày tôi chạy nhong nhong ngoài đường đấy, nhưng trừ lần chặn ngựa điên, hai lần đánh bọn nhóc con hỗn láo, ba lần đưa trẻ lạc về tận nhà, tầm bốn, năm lần đuổi bọn trộm cắp vặt ra bản tính tôi thực phải loại hay lo chuyện bao đồng…

                  Tôi bèn lách ra phía sau , ngắm nghía xác chết được bó trong manh chiếu rách hồi, rồi khuỵu gối ngồi xuống, tiện tay rút cọng cói manh chiếu, khẽ cù vào lòng bàn chân cứng ngắc kia.

                  Cù này, cù này, này cù…

                  Tôi nhẫn nại chọc chọc ngừng. “Xác chết” được bó trong manh chiếu bắt đầu run lên bần bật, càng chọc càng buồn, càng buồn càng run… Đám người xung quang cũng thấy lạ, có kẻ hét lên, thành tiếng… Kẻ khác gào toáng lên: “Xác chết trá hình!” Số kẻ đực mặt, trố mắt nhìn mỗi lúc đông. Tôi vẫn nao núng, tiếp tục chọc chọc, đến lúc “xác chết” nằm trong bó chiếu chịu được, ló đầu ra khỏi chiếu, chửi toáng lên:

                  - Thằng chó nào cù chân ông?

                  Tôi cũng chua ngoa đốp lại:

                  - Thằng chó chửi mày đấy!

                  Quả nhiên mắc bẫy:

                  - Thằng chó chửi mày đấy!

                  Tôi vỗ tay cười:

                  - Quả nhiên có thằng chó chửi mình!

                  vùng dậy định đạp tôi. A Độ nhanh như chớp đứng chắn ở giữa. Tôi lè lưỡi lêu lêu :

                  - Đồ lừa đảo! Giả chết mà cũng chỉ đáng giá ba đồng kẽm thôi à?

                  Tay lừa đảo cáu tiết, cả đứa con vận đồ tang cùng phe với cũng nhảy bổ về phía tôi. Xưa nay A Độ vốn dè chừng chuyện đánh nhau ngoài đường, vội kéo tôi chạy như bay.

                  Nhiều lúc tôi chẳng muốn chơi cùng A Độ chút nào, bởi mỗi lần chuyện hay còn dang dở, muội ấy kéo tôi chạy trốn. thế, cánh tay muội ấy lại cứng như gọng kìm, tôi có giãy giụa thế nào cũng thoát được, đành chạy thục mạng theo sau, suốt chặng đường khỏi chân nam đá chân chiêu. Chúng tôi chạy đến giữa chợ, hòa vào dòng người tình cờ bắt gặp ánh mắt đăm đăm dõi theo mình của gã đàn ông ngồi trong quán trà phía trước.

                  Gã có tướng mạo khá ưa nhìn, vận áo choàng màu xanh lơ, con ngươi đen láy, nhìn tôi chằm chằm.

                  hiểu sao, tim tôi chợt nhói cái.

                  Chạy đến chân miếu thờ, A Độ mới chịu nới lỏng tay, ngoảnh đầu nhìn lại, gã đàn ông nọ đâu mất hút.

                  A Độ hỏi tôi nhìn gì, muội ấy được cái trước nay quen hỏi này hỏi nọ. Tôi cảm thấy có chút bồn chồn, mà có lẽ nguồn cơn cớ cũng từ trận lớn tiếng gần đây với Lý Thừa Ngân. Đành rằng khi đấu khẩu, chưa bao giờ thắng tôi, trái lại, tôi thường xuyên khiến phải cứng họng, nhưng dùng cách khác để đáp trả, tỉ dụ như cấm kẻ khác được đếm xỉa đến tôi, như thế tôi là người “có mà như ”… Cảm giác đó thực dễ chịu gì, nếu tôi lẻn ra ngoài chơi, sớm muộn gì cũng có ngày chết vì bức bối.

                  Tôi thấy buồn rầu, cúi đầu đá hòn sỏi, hòn sỏi bay nảy tưng tưng như quả cầu. về cao thủ đá cầu phải kể đến Lý Thừa Ngân, quả cầu bằng da xíu nhảy nhót mũi chân như con vật bé , phó mặc xoay vần đủ kiểu. Trong khi tôi mù tịt món đá cầu, cũng có cơ hội được học, Lý Thừa Ngân thèm dạy tôi mà còn cấm người khác dạy, tên này đúng là ích kỷ.

                  Tôi vung chân đá mạnh, hòn sỏi bay xuống cống, kêu “tõm” tiếng, bấy giờ tôi mới nhận ra mình lạc vào con ngõ tự lúc nào. Tường cao chót vót chạy dọc hai bên, nhà ở đây rất cao với kiểu bờ tường quái dị, tự dưng tôi thấy rợn tóc gáy…

                  Ngoảnh lại thấy A Độ đâu, tôi liền gọi to:

                  - A Độ!

                  Trong con ngõ vắng chỉ thấy vọng lại tiếng của chính mình. Chưa bao giờ tôi thấy hoang mang như lúc này, mấy năm qua A Độ luôn theo sát tôi như hình với bóng, thậm chí khi tôi nhà cầu, muội cũng bám gót theo sau. Lúc tôi ngủ, muội ấy thường nằm canh trước giường, mở mắt là thấy nhau. Xưa nay A Độ chưa từng rời xa tôi quá trượng [1] mà chẳng nhắn nhủ câu nào, vậy mà giờ chẳng thấy A Độ đâu.

                  [1] Trượng là đơn vị đo chiều dài cổ của Trung Hoa. Nó nằm trong các đơn vị đo độ dài cổ theo hệ thập phân dựa cây thước cơ bản. trượng bằng mười thước, hơn ba mét.

                  Bỗng dưng tôi thấy kẻ đó, gã đàn ông mặc áo xanh lơ xuất ở đầu ngõ, đăm đăm nhìn về phía tôi.

                  Lòng tôi rối bời, bèn quay đầu gọi toáng lên:

                  - A Độ!

                  Tôi quen gã này, vậy mà vừa nãy ở đường, gã nhìn tôi với ánh mắt khó hiểu. Đến tận bây giờ, cái kiểu gã nhìn tôi vẫn rất kỳ quái.

                  Tôi hỏi gã:

                  - Này! Huynh có thấy A Độ ?

                  Thay cho câu trả lời, gã lững thững tiến về phía tôi. Gương mặt khôi ngô được ánh nắng chiếu rọi của gã nom có vẻ ưa nhìn hơn cả Lý Thừa Ngân. Đôi chân mày hình lưỡi mác, cặp mắt đen láy như bảo thạch, sống mũi cao, làn môi tuy mỏng nhưng viền môi thanh tú… Tóm lại, đó là gã rất đẹp trai. Gã bước mạch đến trước mặt tôi, bỗng nhiên cười toe, hỏi:

                  - Xin hỏi tiểu thư tìm A Độ nào?

                  Lẽ nào đời lại có hai A Độ? Tôi :

                  - Đương nhiên là A Độ của tôi rồi, huynh có thấy muội ấy ? Muội ấy mặc áo vàng, nhìn giống chim hoàng oanh.

                  kiểu õm ờ:

                  - Mặc áo vàng, nhìn giống chim hoàng oanh… Ta có gặp người như thế.

                  - Đâu? Người đó ở đâu?

                  - ở trước mặt ta đây.

                  Gã sát lại gần, sát đến nỗi tôi có thể nhìn thấy quầng hào quang sáng quắc như có thần trong đôi mắt ấy.

                  - Lẽ nào phải muội ư?

                  Tôi cúi đầu nhìn bộ đồ người, tôi vận đồ nam màu vàng nhạt giống hệt A Độ. Gã này cũng gớm !

                  :

                  - Tiểu Phong, mấy năm gặp, muội vẫn vậy, chẳng thay đổi gì cả.

                  Tôi giấu được sửng sốt, Tiểu Phong là tên mụ của tôi, từ ngày tới Thượng Kinh, chưa ai gọi tôi bằng cái tên đó. Tôi chớp chớp mắt nhìn gã, tỏ ra bối rối:

                  - Huynh là ai?

                  Gã cười nhạt, bảo:

                  - Ồ, muội biết ta là ai ư?

                  - Huynh là người do cha ta cử đến à?

                  Tôi lại chớp chớp mắt nhìn gã. Trước lúc ra , cha từng hứa cử người mang đặc sản tới cho tôi. Rốt cuộc cha chỉ hứa suông, bao lâu nay có thấy ai đến đâu!

                  Gã trả lời, chỉ hỏi:

                  - Muội có muốn về nhà ?

                  Đương nhiên muốn chứ, trong mơ tôi cũng thấy mình được về nhà.

                  Tôi hỏi:

                  - Hay ca ca ta phái huynh tới à?

                  Gã mỉm cười, hỏi tôi:

                  - Muội còn có ca ca à?

                  Đương nhiên, chẳng những vậy mà tôi còn có tới năm ca ca. Người thương tôi nhất là ngũ ca của tôi. Khi tôi sắp phải xa nhà, huynh ấy khóc trận to, còn dùng roi da quất tung tóe cát sa mạc. Tôi biết huynh ấy nỡ rời xa tôi, nỡ để tôi đến nơi xa xôi, cách trở như thế này.

                  Đến ca ca của tôi mà gã cũng biết, xem ra phải người mà nhà tôi phái đến rồi. Tôi thoáng thất vọng hỏi:

                  - Sao huynh biết tên tôi?

                  Gã :

                  - Chính muội từng với ta mà.

                  Chính tôi á? Lẽ nào tôi quen ta?

                  Sao tôi chẳng có chút ấn tượng nào thế nhỉ?

                  Ma xui quỷ khiến thế nào mà tôi lại có cảm giác gã phải kẻ lừa đảo. Chắc bởi đời này kẻ lừa đảo nào quái gở như gã, trong khi bọn lừa đảo thường cố sắm vai người bình thường, bọn chúng bao giờ tỏ ra khác người, bởi lẽ càng khác người càng dễ lộ tẩy.

                  Tôi nghiêng đầu nhìn gã chằm chằm rồi hỏi:

                  - tóm lại, huynh là ai?

                  Gã :

                  - Ta là Cố Kiếm

                  Gã gì thêm, dường như bốn từ ấy lên tất cả.

                  Cái tên lạ hoắc, xưa nay tôi chưa từng nghe, bèn :

                  - Ta phải tìm A Độ .

                  Gã :

                  - Ba năm qua, ta chỉ tìm muội, muội thể thêm với ta mấy câu sao?

                  Tôi thấy khó hiểu quá mất!

                  - Huynh tìm ta làm gì? Sao lại tìm những ba năm? Ba năm trước chúng ta quen nhau à?

                  Gã cười nhạt, :

                  - Ba năm trước muội giận ta rồi bỏ , ta tìm muội suốt, hôm nay mới gặp lại. Nhưng muội quên ta mất rồi.

                  Gã này bịp bợm. Đừng là chuyện ba năm trước, cho dù là chuyện của hai mươi năm trước tôi vẫn nhớ rành rành. Trí nhớ của tôi rất tốt đấy. Năm ba tuổi, tôi mới bắt đầu biết nhận thức, nhưng từ đó tới giờ, tôi nhớ được rất nhiều chuyện rồi. Ví dụ mẹ từng đút cho tôi ăn thứ quả nghiền chua ngoét mà tôi ghét cay ghét đắng, hoặc lúc tôi nằm trong vòng tay mẹ, ngóng nhìn cha phi ngựa trở về, nắng ban mai mạ vàng cơ thể người, dường như người mặc bộ khôi giáp lấp lánh ánh kim, oai phong lẫm liệt…

                  Tôi quyết định thèm chuyện với gã nữa. Tôi quay người bỏ , con bé A Độ này trốn đằng nào biết. Vừa nghĩ, tôi vừa ngoái đầu nhìn lại, gã Cố Kiếm nọ vẫn đứng đó dõi theo tôi, chớp mắt. Thấy tôi quay đầu lại, gã liền nhoẻn miệng cười. Lần thứ mấy gã cười với mình rồi? Đột nhiên tôi có cảm giác nụ cười ấy tựa như lớp băng vụn phiêu du mặt nước, như thể chuyện khiến gã buồn nhất gì khác là cười với tôi.

                  Đồ dở hơi, còn già mồm bảo tôi quen gã, chẳng lẽ tôi lại quen loại điên như gã ta?

                  Ra khỏi ngõ tôi mới để ý thấy A Độ ngồi bên cầu. Nom muội ấy ngây thuỗn nhìn mình, tôi hỏi:

                  - Muội chạy đâu thế hả? Làm ta lo muốn chết đây này.

                  A Độ ngồi im như phỗng, tôi lay mấy cái mà muội ấy vẫn im thin thít. Lúc này gã Cố Kiếm kia bước tới, búng tay về phía A Độ. Sau tiếng “hự” bẫng, A Độ liền nhảy dựng lên, tay tuốt đao, tay kéo tôi ra sau lưng mình.

                  Gã Cố Kiếm kia thủng thẳng cười, :

                  - Ba năm trước chúng ta từng giao đấu, vừa nãy ta chỉ dùng ngón tay điểm được huyệt đạo của , lẽ nào chưa ư? Nếu ta muốn làm gì, lựa sức mình có cản được ta ?

                  A Độ gì, mắt gườm gườm, thủ thế như thể gà mẹ bảo vệ gà con. Có lần Lý Thừa Ngân làm tôi tức điên, A Độ cũng trừng trộ kiểu này.

                  ngờ tay Cố Kiếm này có khả năng điểm huyệt A Độ. Thân thủ của A Độ vốn cao cường, người bình thường đừng hòng tiếp cận muội ấy, đừng đến việc quấy quá vài phát khống chế được. Nhưng võ công của gã Cố Kiếm này quả là đáng nể, tôi khỏi nghẹn họng nhìn gã trân trối.

                  Thế mà gã chỉ thở dài sườn sượt, nhìn A Độ với thanh đao tuốt vỏ lăm lăm trong tay, rồi ánh mắt dừng ở người thụt thò sau lưng A Độ là tôi… Gã nhìn lần cuối, cuối cùng quay người bỏ .

                  Tôi đứng trông theo bóng gã xa dần. Tay Cố Kiếm quái đản đó cuối cùng khuất dạng nơi con ngõ vắng lặng. Tôi hỏi A Độ:

                  - Muội sao chứ? Có bị thương ?

                  A Độ lắc đầu, lấy tay ra dấu hỏi.

                  Tôi hiểu muội ấy hỏi tôi có buồn .

                  Sao tôi phải buồn chứ?

                  Tôi lấy làm lạ, liền ném về phía muội ấy cái lườm sắc.

                  Trời nhập nhoạng tối, tôi dẫn A Độ lên Vấn Nguyệt lầu dùng cơm.

                  Mỗi lần trốn ra ngoài chơi, chúng tôi thường ghé Vấn Nguyệt lầu ăn cơm bởi món vịt nướng ở đây ngon vô cùng.

                  Vừa ngồi xuống ăn thịt vịt nướng, tình cờ gặp Bá Hà hát rong dẫn theo con Phúc Thư lên lầu. Bá Hà bị mù nhưng ngón nghề kéo đàn nhị chê vào đâu được, lần nào tới Vấn Nguyệt lầu ăn cơm, tôi cũng Phúc Thư hát khúc ngắn.

                  Đôi bên thân quen từ lâu, Phúc Thư cúi đầu chào tôi và A Độ:

                  - Chào Lương công tử!

                  Tôi lịch mời Phúc Thư hát hai bài, muội ấy liền chọn khúc Hái lá dâu.

                  Nhắm thịt vịt nướng chính tới, thêm hũ rượu hoa sen ấm, lại được nghe Phúc Thư hát, đời người còn gì tuyệt vời hơn!

                  Món thịt nướng xèo xèo bếp, A Độ cầm đũa xé thịt thành từng miếng , rưới nước tương lên miếng thịt chín già, rồi gắp sang đĩa của tôi. Tôi ăn thịt nướng, ních vào bụng chén rượu hoa sen, bỗng thấy cầu thang rầm rập tiếng bước chân cùng với tiếng cười hô hố của đám người. chướng mắt!

                  Tôi quay sang bảo A Độ:

                  - Muội xem lũ kia, vừa nhìn biết ngay là loại ra gì.

                  A Độ nhìn tôi có vẻ khó hiểu.

                  Tôi bảo:

                  - Bọn này tuy mặc thường phục nhưng chân xỏ ủng đế mỏng, đao dắt kề hông, ngón cái quấn da hươu, kẻ nào cũng đeo bao cổ tay… Hẳn bọn này quen loại giày dễ xỏ, lại thạo cung ngựa, thêm kiểu vác đao kiếm ngông nghênh từ đầu đường tới cuối chợ… Bọn này đích thị là Vũ lâm lang [2] đây mà.

                  [2] Vũ lâm là tên gọi chỉ đội quan quân có nhiệm vụ bảo vệ vua và hoàng thành. Vũ lâm lang chỉ người có chức sắc cao trong Vũ lâm quân.

                  A Độ vốn ưa bọn Vũ lâm lang, tức muội ấy cũng gật gật đầu.

                  Bọn Vũ lâm lang vừa ngồi xuống, lập tức gã trong đám xẵng giọng gọi:

                  - Này, hát rong! Qua đây hát bài Lên dốc nhớ chàng cho mấy ông nghe!

                  Bá Hà run rẩy nhận lỗi với chúng, thưa rằng:

                  - Vị công tử này vừa chọn hai bài, mới hát xong bài. Đợi lát hát xong, lũ tiểu nhân qua hầu mấy vị lang quân ạ!

                  Gã Vũ lâm lang đập mạnh xuống bàn:

                  - Láo toét! Xong với cả xong cái quái gì! Khôn hồn qua đây hầu bọn ông, ông chém chết con mụ đui mù nhà mày bây giờ!

                  Có kẻ liếc mắt nhìn tôi, nhếch môi cười, bảo:

                  - Mấy em nhìn tên kia kìa, da mịn như con , trông khôi ngô gớm!

                  Gã vừa nãy cũng đảo mắt nhìn tôi, cười hềnh hệch:

                  - Cũng khôi ngô đấy, nom xinh xắn hơn cả con bé hát rong. Này! Thằng kia, qua đây tiếp các ông chén xem nào!

                  Tôi thở dài đánh sượt, thực tình hôm nay muốn động tay động chân nhưng xem ra, trời chiều lòng người mất rồi. Tôi buông đũa, cất giọng chán chường:

                  - Tiệm ăn ngon thế này, tự nhiên mọc đâu ra cái loại biết tiếng người? Mất cả hứng!

                  Lũ người đó vừa nghe thấy vậy nổi cơn tam bành, đập bàn rầm rầm:

                  - Mày chửi ai?

                  Tôi cười nhìn chúng:

                  - Ồ, xin lỗi nhé, hóa ra mấy người phải loại đó à?

                  Kẻ mất bình tĩnh đầu tiên chính là gã vừa buông tiếng chửi, gã tuốt đao lao về phía chúng tôi. A Độ vỗ xuống bàn, bát đĩa bàn vẫn nằm im hề lay động, chỉ có ống đũa nảy lên. Muội ấy nhanh tay rút chiếc, ống đũa chưa kịp chạm mặt bàn, mũi đao sáng lóa sờ sờ ngay trước mặt. Nhanh như chớp, A Độ xọc đũa xuống, tiếng thét cất lên tức liền với tiếng trường đao rơi đánh “keng” xuống sàn, lòng bàn tay gã bị chiếc đũa ghim vào bàn, máu tuôn xối xả. Gã vừa tru tréo kêu gào vừa loay hoay rút chiếc đũa, nhưng chiếc đũa vững chãi như chiếc đinh dài xuyên qua lòng bàn tay gã, đóng chặt xuống bàn, rút thế nào cũng xê dịch.

                  Đồng bọn của gã nhất loạt tuốt kiếm, định xông lên. Tay A Độ đặt ống đũa, ánh mắt lạnh lùng quét qua chúng. Thấy A Độ khí thế phừng phừng, bọn chúng thấy chợn rồi nhùng nhằng dám đến gần.

                  Kẻ bị đóng đinh bàn vẫn kêu la oai oái như heo bị chọc tiết. Thấy đinh tai nhức óc, tôi đâm bực bèn gắp miếng bánh quế tống vào miệng gã. Gã trợn ngược mắt vì nghẹn, mãi mới chịu im miệng.

                  Tôi vỗ đôi đũa vừa gắp bánh quế vào lòng bàn tay, đảo mắt vòng, hỏi:

                  - Bây giờ các ngươi, kẻ nào muốn ta hầu rượu?

                  Chúng giật mình dám thở mạnh. Tôi đứng dậy, tiến lên bước, chúng bèn giật lùi bước. Tôi cứ tiến, chúng cứ lùi, đến khi cả lũ bị dồn đến đầu cầu thang gã hô:

                  - Chạy mau!

                  Rồi cả lũ hốt hoảng như ong vỡ tổ chạy xuống lầu.

                  Mất cả hứng… Quên bảo chúng, tôi có biết dùng đũa đâm người như A Độ đâu, tôi chỉ dọa chút thôi mà!

                  Tôi ngồi xuống bàn, tiếp tục ăn món thịt nướng, mùi máu tanh xộc lên từ lòng bàn tay rớm máu của gã Vũ lâm lang kia khiến tôi cau có, khó chịu. A Độ hiểu ý, liền rút phăng chiếc đũa, bồi cho gã thêm cú đạp. Gã ôm lòng bàn tay bị thương, bò lê bò toài toan tháo chạy, quên lấy thanh đao về. A Độ khều mũi chân, thanh đao này lên tay, dâng tôi xem. Chỗ tôi có lệ, kẻ bại trận phải bỏ lại vũ khí, A Độ theo tôi tới Thượng Kinh ba năm nhưng vẫn chưa quên tập tục cũ.

                  Thấy mấy chữ đồng khắc chuôi đao, tôi bất giác nhíu mày.

                  A Độ hiểu tôi nhíu mày là có ý gì. Tôi bèn đưa thanh đao cho A Độ, bảo:

                  - Trả !

                  Gã bò đến đầu cầu thang. A Độ phất tay, thanh đao cắm phật vào cây cột nhà gần đó đánh “coong” tiếng. Gã rú lên kinh hãi, rồi lộn cổ xuống gác như trái tú cầu, kịp ngoái đầu nhìn lấy cái.

                  Khi chúng tôi rời Vấn Nguyệt lầu cũng là lúc phố phường nhuộm kín ánh trăng bàng bạc, mảnh trăng lưỡi liềm nằm vắt vẻo ngọn cây như chiếc bánh gạo bị ai gặm mất miếng, tỏa sáng khắp nơi nơi. Tôi vừa đánh chén bữa no nê, mặt mày ủ rũ vác cái bụng kễnh, lếch thếch lê bước theo sau A Độ. Cứ bò như ốc sên thế này, chỉ e sáng mai mới về được đến nhà. May mà A Độ có tính nhẫn nãi, muội ấy miết từng bước rất chậm chờ tôi theo kịp. Vừa đến ngã rẽ đầu đường, đột nhiên đám người nhảy xổ ra từ trong bóng đêm, bọn dẫn đầu tay lăm lăm đao kiếm sáng lóa, có đứa gào toáng lên:

                  - Chính chúng nó!

                  Nhìn kĩ mới thấy, ra bọn Vũ lâm lang kéo theo viện binh.

                  Tại sao lần nào ra đường, chỉ loanh quanh mà cũng phải đánh nhau thế nhỉ? Ngẫm thấy mình từ xưa tới nay nào có phải kẻ thích gây gì đâu cơ chứ!

                  Nhìn đám người cũng phải đến mấy trăm tên ấy mà tôi khỏi thở dài ngao ngán.

                  A Độ dằn thanh đao, nhìn tôi ướm hỏi.

                  Tôi chưa kịp gì với A Độ mấy chữ khắc chuôi đao ban nãy làm tôi cụt cả hứng đánh nhau. Mà đánh đương nhiên phải giở bài… chuồn.

                  - Chạy thôi!

                  Tôi và A Độ ba chân bốn cẳng chạy, về lĩnh vực gây lộn, chúng tôi tuyệt nhiên dám nhận xằng nhận bậy mình là đệ nhất thiên hạ, nhưng luận đến tháo chạy, hễ chúng tôi xưng danh đệ nhị kinh thành, đố kẻ nào dám vỗ ngực bảo mình là đệ nhất đấy! Ba năm qua, ngày nào chúng tôi chẳng lang thang ngoài đường, kinh nghiệm bị đuổi quả thực nhiều lắm, lúc chạy toàn chọn những con ngõ vắng vẻ, cứ lòng vòng bốn phương tám hướng, chẳng mấy chốc cắt được đuôi.

                  Có điều, bọn Vũ lâm lang này cũng gớm , chúng bám ngay sau chúng tôi, tôi và A Độ lượn lách mấy vòng rồi mà cái đuôi vẫn bám riết. Tôi vác cái bụng kễnh rong ruổi khắp nơi, chạy trốn bọn khốn này nãy giờ, sắp ói đến nơi rồi. Từ ngõ , A Độ kéo tôi chạy ra đường lớn, thế mà ngay trước mặt lại có đám binh mã phăm phăm lao về phía này, xa xa ngó thấy đám ấy hình như cũng là người của Vũ lâm lang.

                  Chẳng lẽ lũ khốn này lại mai phục sẵn từ lâu? Tôi ôm đầu gối thở hồng hộc, kiểu này xem ra phải đánh nhau rồi.

                  Tiếng lạo xạo sau lưng mỗi lúc gần, lũ khốn ấy đuổi đến nơi. Đám quân binh lăm lăm đèn đuốc cũng ở ngay trước mắt, kẻ dẫn đầu cao to cưỡi con bạch mã, bỗng nhớ ra mình quen gã này, tôi mừng ra mặt:

                  - Bùi Chiếu! Ê Bùi Chiếu!

                  Bùi Chiếu ngồi mình ngựa, đưa mắt nhìn về phía tôi vẻ ngờ vực, gã chưa kịp nhìn xem tôi là ai. Tôi nhảy cẫng lên, gào tên gã, tùy tùng theo hầu nhấc đèn lồng tiến lên soi tỏ mặt tôi.

                  Ngay lập tức, Bùi Chiếu từ ngựa phi xuống, chỉnh tề hành lễ với tôi:

                  - Thái…

                  để gã nốt hai từ tiếp theo, tôi vồn vã ngắt lời:

                  - Thái cái gì mà thái? Đằng sau có lũ vô lại đuổi ta, mau giúp ta cản chúng !

                  Bùi Chiếu thưa:

                  - Tuân lệnh!

                  Rồi gã đứng lên, trút vỏ thanh trường kiếm bên mình, gằn tiếng ra lệnh:

                  - Nghênh địch!

                  Binh sĩ sau lưng gã cũng đồng loạt tuốt đao, vừa lúc lũ khốn kia đuổi đến nơi, thấy phía này đèn đuốc sáng trưng góc đường, có Bùi Chiếu giương kiếm đón đầu, chúng buộc phải ghìm bước chân. Mấy gã đầu còn cười gượng gạo, nhưng răng lợi đập vào nhau lạch cạch:

                  - Bùi… Bùi… Bùi Tướng quân…

                  Thấy cả tốp Vũ lâm lang, Bùi Chiếu giấu nổi vẻ thảng thốt:

                  - Các ngươi làm gì ở đây?

                  Bùi Chiếu là Kim ngô tướng quân, chuyên cai quản Vũ lâm lang, phen này bọn mạt hạng kia chết là cái chắc. Nhân lúc bọn chúng để ý, tôi hớn hở kéo A Độ đánh bài chuồn.

      justify;" align="            ©STENT



                  Tôi và A Độ trèo tường quay trở về, khinh công của A Độ đúng là phi phàm, tường cao đến mấy chỉ cần muội ấy ôm tôi, khẽ nhảy vọt qua, gây tiếng động. Đêm về khuya, bốn bề lặng ngắt đến sợ. Chỗ này vừa rộng lại vắng, quanh năm suốt tháng chìm trong tĩnh mịch.

                  Chúng tôi như hai con chuột nhắt rón rén lẻn vào. Xung quanh tối như hũ nút, chỉ ở nơi xa xa kia mới thấp thoáng ánh đèn đuốc. Sàn nhà phủ lớp thảm rất dày, giẫm lên mềm mại lại hề phát ra tiếng động, tôi mò lên giường. Ôi chiếc giường quý của tôi… Hễ nhớ đến nó là tôi kìm được ngáp dài:

                  - Buồn ngủ quá…

                  A Độ bỗng nhảy dựng lên làm tôi hết hồn. Bốn bề chợt sáng bừng, kẻ nào đó vừa châm nến. Vĩnh Nương dẫn đầu tốp người cầm đèn lồng ùa vào. Từ đằng xa tôi thấy bà ấy quỳ sụp xuống, nước mắt lưng tròng:

                  - Thái tử phi, xin người ban cho nô tì cái chết.

                  Tôi chúa ghét cái trò quỳ lạy, lại càng ghét Vĩnh Nương, ghét người ta gọi mình là Thái tử phi, ghét luôn cả cái trò hở tí lại tội chết này tội sống nọ.

                  - Ôi dào, chẳng phải ta bình an trở về đấy thôi.

                  Lần nào trở về, Vĩnh Nương cũng tái diễn màn này, bà ta chán nhưng tôi chán đến tận cổ. Y như rằng, Vĩnh Nương liền lau nước mắt, sai cung nữ hầu tôi tắm gội, chải đầu. Bọn họ chẳng chẳng rằng, lột phăng bộ quần áo nam người tôi, thay bằng bộ y phục ba lớp trong, ba lớp ngoài mà tôi căm ghét nhất, choàng hết áo này đến áo nọ như cái thân tôi là chiếc bánh nhiều lớp, bóc mãi vẫn chưa thấy đậu phộng đâu.

                  Vĩnh Nương bẩm với tôi:

                  - Mai là sinh nhật Triệu Lương đệ [3] , Thái tử phi chớ quên, dẫu sao vẫn phải có chút quà.

                  [3] Lương đệ là danh hiệu ban cho thiếp của thái tử, có địa vị khá cao trong số thê thiếp của thái tử, chỉ xếp sau thái tử phi.

                  Tôi quấn chiếc khăn to ngang ngực, ngoẹo đầu gà gật trong lúc cung nữ vẫn loay hoay giúp tôi rửa mặt. Mái tóc dài thả xõa ngang lưng được bọn họ dùng lược ngà chải chuốt cẩn thận, càng chải càng khiến tôi lừ đừ buồn ngủ. Tôi thấy mình chẳng khác nào con rối, muốn giật dây ra sao là tùy ở họ. Vĩnh Nương luôn miệng bên tai tôi đống chuyện, nhưng tôi cứ trôi dần vào giấc ngủ, chẳng nghe lọt câu nào.

                  Sau bữa no nê và dù nửa đêm vẫn phải chạy tới chạy lui trốn người ta cực, bây giờ tôi đánh giấc say biết trời trăng gì. say sưa, tôi bỗng choàng tỉnh vì có tiếng “uỳnh” cực lớn dội vào tai, mở mắt thấy trời sáng trưng mới biết, vậy ra mình ngủ mạch đến tận trưa. Tôi thấy Lý Thừa Ngân đùng đùng xông vào, Vĩnh Nương tá hỏa dẫn theo đám cung nữ quỳ lạy nghênh tiếp.

                  Tuy tóc tai còn xõa xượi, mặt mũi vừa ngủ dậy chưa kịp lau nhưng tôi vẫn vùng dậy khỏi giường, cơ mà phải vì sợ Lý Thừa Ngân đâu nhé, đơn giản chỉ bởi nằm giường mà cãi nhau với là lép vế, mất hết cả khí thế.

                  Hiển nhiên khởi giá đến chỉ để vấn tội, đanh mặt nhìn tôi:

                  - vẫn ngủ được cơ à?

                  Tôi ngáp dài cái rồi bảo:

                  - Có gì mà ngủ được chứ?

                  - Cái loại đàn bà như sao lại nham hiểm đến thế hả?

                  cau có nhìn tôi, ánh mắt tựa như hai mũi tên vô hình cắm phập thành hai cái lỗ người tôi:

                  - thôi cái trò giả nhân giả nghĩa !

                  Giọng điệu này xem ra giống những lần gây gổ thường ngày, tôi chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì cả:

                  - Điện hạ làm sao vậy?

                  - Sao vậy à? – nghiến răng nghiến lợi, . – Triệu Lương đệ vừa ăn xong mì trường thọ ban liền nôn thốc nôn tháo. Sao lòng dạ có thể hiểm ác đến thế?

                  Tôi trừng mắt với :

                  - Thần thiếp chẳng ban mì trường thọ cho ai cả, ai ăn đau bụng mắc mớ gì đến thần thiếp!

                  - Dám làm mà dám nhận à? – bằng giọng khinh khỉnh. – ra con Tây Lương toàn hạng vô liêm sỉ!

                  Suốt ba năm qua, Lý Thừa Ngân và tôi thường xuyên cãi vã, hục hặc, thừa biết cách khiến tôi tức điên. Tôi nổi đóa, nhảy dựng lên:

                  - Con Tây Lương chẳng đời nào dám làm mà dám nhận, thần thiếp chẳng làm gì cả, sao phải nhận chứ? Con Tây Lương xưa nay vốn ngay thẳng, đừng chỉ mình Triệu Lương đệ, khi muốn giết ai, thần thiếp đích thân xách kiếm liều mạng với người đó, chứ thèm chơi trò hạ độc sau lưng hèn hạ này đâu! Nào có như Điện hạ đây, chưa hỏi phải trái, trắng đen vu oan cho người khác, người như Điện hạ hảo hán Thượng Kinh cái quái gì chứ?

                  Lý Thừa Ngân hằm hè:

                  - đừng tưởng ta dám phế ! Dù có phải liều mình với ngôi vị thái tử này, ta cũng khoan dung nổi loại người lòng dạ hiểm độc như !

                  Tôi dứt khoát :

                  - Điện hạ muốn sao làm như vậy !

                  Lý Thừa Ngân tức tối phẩy áo bỏ , tôi cũng tức giận đến tỉnh cả ngủ, bụng cũng ỉ đau, A Độ đành xoa hộ tôi. Vĩnh Nương vẫn quỳ chỗ, người run bần bật, hiển nhiên là bà ta sợ chết khiếp. Tôi :

                  - Mặc xác , năm nào chẳng phao tin phế ta, năm nay còn chưa đấy.

                  Vĩnh Nương lại khóc rưng rức:

                  - Thái tử phi thứ tội… Mì trường thọ đó là do nô tì sai người ban tặng…

                  Thấy tôi thảng thốt, Vĩnh Nương bèn thưa:

                  - Nhưng quả thực nô tì mưu gì cả, nô tì chỉ trộm nghĩ, hôm nay mừng sinh nhật Triệu Lương đệ, nếu Thái tử phi tặng quà hình như có chút… có chút… Thái tử phi còn đương giấc, nô tì sai người ban ít mì trường thọ, chẳng ngờ Triệu Lương đệ ăn vào lại nôn thốc nôn tháo… Xin Thái tử phi phạt nô tì tội chết…

                  Tôi dửng dưng bảo:

                  - Chúng ta giở trò gì, vậy ả bị đau bụng mắc mớ gì đến chúng ta, cái gì mà tội sống với cả tội chết? Bà mau đứng lên, quỳ mãi ở đó, ta nhìn ghét chết được!

                  Vĩnh Nương đứng dậy, nước mắt vẫn lưng tròng, thưa:

                  - Thái tử phi, chữ đó là kiêng kỵ, người thể bừa thế được.

                  Dào ơi, có chữ “chết” thôi cũng nhiều chuyện. Ai mà chẳng phải chết? Mấy cái quy củ, phép tắc ở Đông cung đáng ghét, cái này được , cái kia được làm, ta bức bối, sắp chết đến nơi rồi đây này!

                  Sinh nhật Triệu Lương đệ mất vui chỉ bởi trận nôn thốc nôn tháo đó. Lý Thừa Ngân nuốt nổi cục tức bèn làm ầm lên. muốn phế tôi cũng khó, chưa cần phụ hoàng lên tiếng bên thái phó ngăn cản. Lý Thừa Ngân bèn mách lẻo với Thái hoàng thái hậu, Thái hoàng thái hậu liền sai người ban vài bộ sách, nào là Nữ huấn [4] , Nữ giới [5] , phạt tôi mỗi cuốn phải chép mười lần. Cái số tôi đen đủi! Tôi bị nhốt trong phòng, hì hục chép phạt suốt mấy ngày liền, kêu trời, trời thấu, gọi đất, đất chẳng thưa, chép đến nhũn cả tay, mãi mà chưa xong.

                  [4] Nữ huấn là áng văn của Thái Ung – nhà văn, nhà sử học và là vị quan cuối thời Đông Hán, viết để răn dạy con mình là Thái Diễm.

                  [5] Nữ giới là bộ quy phạm lễ giáo hoàn chỉnh dành cho phụ nữ Trung Quốc, giải thích về hàm nghĩa của “tứ đức”, bao gồm công, dung, ngôn, hạnh của người phụ nữ do Ban Chiêu, nữ sử gia, nhà văn thời Đông Hán biên soạn.

                  cặm cụi chép lần thứ năm Vĩnh Nương vào thưa rằng, cung nữ hầu hạ Lý Thừa Ngân là Tự Nương có tin vui, phen này Triệu Lương đệ hẳn phải ngậm bồ hòn làm ngọt rồi.

                  Tôi ngu ngơ hỏi bà ấy:

                  - Có tin vui là gì thế?

                  Vĩnh Nương suýt chút tắc thở, bà ấy vòng vo giải thích cả buổi, tôi mới vỡ lẽ, ồ, ra có tin vui chính là có em bé đấy à?

                  Đến Thượng Kinh mấy năm rồi, tôi chưa thấy ai quanh mình sắp sinh em bé cả, chuyện hiếm hoi thế này đương nhiên tôi phải xem cho biết chứ. Tôi hớn hở định xem trò vui, vậy mà Vĩnh Nương sống chết can bằng được.

                  - Thái tử phi ơi, người chớ ! Nghe đâu Thái tử Điện hạ từng hứa với Triệu Lương đệ rằng, tuyệt đối hai lòng. Ngày hôm đó, chắc Thái tử Điện hạ say biết trời đất gì nên mới có chuyện sủng ái Tự Nương. Triệu Lương đệ khóc lóc om sòm ở phủ bên đó, chẳng vui vẻ gì đâu. Bây giờ Thái tử phi mà thăm Tự Nương, thế nào Triệu Lương đệ cũng cho rằng Thái tử phi cố tỏ thị uy…

                  Tôi chẳng hiểu sao Vĩnh Nương lại nghĩ thế, bọn người ở Đông cung này rặt kiểu khó hiểu như nhau, lối suy nghĩ của bọn họ lúc nào cũng quẩn quanh, toan tính. Tôi thở dài đánh sượt, Vĩnh Nương thế nào Triệu Lương đệ cũng nghĩ như vậy, có khi ả nghĩ thế cũng nên. Mà tôi chán cảnh cãi nhau với Lý Thừa Ngân lắm rồi, giả sử lại mách lẻo với Thái hoàng thái hậu, thế nào tôi cũng bị phạt chép sách đến chết cho mà xem…



                  Tối hôm đó, Hoàng hậu triệu tôi tiến cung.

                  Ngày thường rất hiếm khi tôi đến vấn an Hoàng hậu mà chỉ có mình, lần nào cũng kè kè Lý Thừa Ngân bên cạnh. Những gì Hoàng hậu hay với tôi thường chỉ giới hạn trong vòng ba câu: “Bình thân”, “Ban ngồi”, Lui về nghỉ ngơi ”, vậy mà hôm nay lại triệu kiến mình tôi. Vĩnh Nương nhấp nhổm yên, buộc lòng phải theo tôi tới tham kiến Hoàng hậu.

                  A Độ muốn gỡ thanh đao khỏi người, lại càng nỡ rời xa tôi, bèn đứng đợi trước cửa Vĩnh An điện.

                  đúng ra Hoàng hậu là người sắc nước hương trời, bà phải là mẹ ruột của Lý Thừa Ngân, thân sinh ra Lý Thừa Ngân là Thục phi, nghe đồn đó là mỹ nhân tài mạo song toàn, được Hoàng đế hết mực sủng ái, tiếc thay vừa hạ sinh Lý Thừa Ngân được bao lâu yểu mệnh mà qua đời. Hoàng hậu có con, liền ẵm Lý Thừa Ngân vào cung nuôi nấng đến lúc trưởng thành, sau đó Lý Thừa Ngân danh chính ngôn thuận trở thành thái tử.

                  Hoàng hậu với tôi tràng dài những lời lẽ uyển chuyển mà hàm súc, khiến tôi nghe mà ù ù cạc cạc, câu được câu chăng… Chắc Hoàng hậu thấy vẻ mặt tôi ngu ngơ như kẻ lạc, đành buông tiếng thở dài ảo não:

                  - Chung quy cũng bởi con quá thơ dại, chuyện ở Đông cung, sao chẳng bao giờ thấy con bận tâm? Thôi được rồi, ta cho người chỉnh đốn chuyện trong cung, truyền Tự Nương kia tiến cung chờ sinh vậy. Còn chỗ Triệu Lương đệ, con cũng nên có lời động viên, đừng để Ngân Nhi phiền lòng.

                  May mà tôi hiểu mấy câu này. Hoàng hậu vẫn dùng kiểu câu nệ, ý tứ căn dặn Vĩnh Nương thêm mấy câu, tôi đoán người phê bình Vĩnh Nương chỉ bảo tôi đến nơi đến chốn, trông Vĩnh Nương quỳ sụp chỗ, mặt cắt còn giọt máu, miệng ngừng lẩm nhẩm:

                  - Nô tì đáng chết! Nô tì đáng chết!

                  Đến vấn an Hoàng hậu chán lắm rồi, nghe những lời răn dạy còn tẻ nhạt hơn. Tôi lén di mũi chân xuống thảm, thảm trải sàn trong cung thường là cống phẩm của Thổ Hòa Lỗ, lớp nhung dài mượt chạm vào chân êm như chạm vào tuyết. Khoanh vòng, hoa văn thảm chuyển màu trắng, khoanh ngược lại, hoa văn trở lại màu sắc ban đầu… Cứ dùng mũi chân vẽ vời, hoa nở rồi lại tàn… tôi thỏa lòng nghịch ngợm, đột nhiên nghe Hoàng hậu ho khan tiếng, ngẩng lên thấy người nhìn mình chằm chằm. Tôi vội chỉnh lại tư thế, khép nép rụt chân, giấu vào trong váy.

                  Từ Vĩnh An điện ra, Vĩnh Nương than với tôi:

                  - Thái tử phi ơi, người thương nô tì với, người cứ hấp tấp, gây chuyện như thế, nô tì chết cũng chẳng ai thương…

                  Tôi gắt:

                  - Biết rồi, biết rồi! Mấy hôm nay ta bị nhốt trong phòng chép sách, có gây chuyện gì đâu cơ chứ!

                  Vĩnh Nương dỗ dành, thưa:

                  - Đúng là mấy ngày nay Thái tử phi trầm tính nhiều, nhưng Hoàng hậu dặn Thái tử phi an ủi Triệu Lương đệ, Thái tử phi nhất định phải mới được.

                  Tôi chán chường vặn ngón tay, hậm hực :

                  - Lý Thừa Ngân cho ta lân la lại gần nơi ả sống đâu, đừng hơn, kẻo Lý Thừa Ngân lại kiếm chuyện, phiền lắm.

                  - Lần này khác, Thái tử phi phụng ý chỉ của Hoàng hậu, có thể quang minh chính đại đến thăm Triệu Lương đệ. Hơn nữa, Thái tử phi nên tranh thủ cơ hội đứng về phía Triệu Lương đệ, Triệu Lương đệ phiền não về việc của Tự Nương, chỉ cần Thái tử phi hơi tỏ ý kết giao, ắt hẳn Triệu Lương đệ lấy làm cảm kích. Thái tử phi thân với Triệu Lương đệ rồi, sau này dù Tự Nương sinh được con trai cũng chưa chắc làm nên trò trống gì…

                  Tôi hiểu nổi Vĩnh Nương nghĩ gì nữa, nhưng xưa kia bà ấy là cung nữ thân tín bên Thái hoàng thái hậu, trước lễ sắc phong tôi làm Thái tử phi, Vĩnh Nương được cử đến dạy tôi các lễ nghi cần thiết trong đại lễ sắc lập. Rồi sau này, chính bà ấy là người ở bên tôi trong những năm tháng vất vả nhất tại Đông cung, lúc đó Lý Thừa Ngân chẳng hỏi han, ngó ngàng gì tới tôi. Hồi chân ướt chân ráo tới Đông cung, nơi đây rặt những kẻ bợ đỡ, tôi là người Tây Lương nên động tí lại bị người ta cười nhạo, đến kẻ hầu người hạ của nội cung cũng cả gan ức hiếp tôi. Tôi rất nhớ nhà, cả ngày chỉ biết ôm A Độ khóc, khóc miết rồi lăn đùng ra ốm. Bấy giờ, Lý Thừa Ngân vẫn quả quyết cho rằng tôi giả vờ, cho người báo phủ Thái y lẫn trong cung. Đến lúc tôi nằm liệt giường, ăn uống được gì, chỉ có Vĩnh Nương và A Độ chầu chực bên gối, bón từng thìa thuốc, cướp tôi từ chỗ Diêm Vương trở về.

                  Thế nên, mặc dù nhiều lúc cách nghĩ của bà ấy khá kỳ quái, song tôi vẫn chấp nhận. cho cùng, ở Đông cung này, ngoài A Độ ra, chỉ có Vĩnh Nương là lòng nghĩ cho tôi.

                  - Thôi được rồi, ta thăm ả vậy!

                  - Thái tử phi chớ người , người cũng nên ban cho Triệu Lương đệ vài món quà quý, rồi từ từ lôi kéo thị.

                  Quà quý? Thứ gì mới là quà quý nhỉ?

                  Tôi trầm tư suy nghĩ.

                  Sau cùng, tôi trịnh trọng chọn ra bộ cung tên của Cao Xương tiến cống, hai hộp cờ ngọc thạch, vài đôi tay nạng cầm chơi, còn có rượu thược dược Bài Di dâng nạp. Lúc thấy những thứ đó, mặt Vĩnh Nương méo xệch.

                  - Chậc… Ờ ta cảm thấy mấy món này cũng khá quý. – Tôi liếc nhìn sắc mặt Vĩnh Nương. – Bà cảm thấy ổn à?

                  Vĩnh Nương thở dài, thưa:

                  - Dạ bẩm, để nô tì giúp Thái tử phi chọn quà vậy.

                  Sau đó, tôi cũng kiểm tra lại những đồ Vĩnh Nương chọn, cái gì mà xuyến ngọc Hòa Điền [6] dát vàng, trâm vàng, vàng điểm thúy [7] , trâm san hô đính hồng ngọc lưỡi liềm, chuỗi ngọc cẩn ly long [8] , lại còn cao yến, bột hoa nhài gì gì nữa, vàng rực cũng phải thơm nồng… thực, tôi chẳng hiểu những thứ ấy quý báu ở chỗ nào, vậy mà Vĩnh Nương lại khẳng định chắc như đinh đóng cột rằng:

                  [6] Ngọc khai thác ở Hòa Điền đẹp nổi tiếng nên được gọi là “ngọc Hòa Điền”. Hòa Điền là trong những nước văn minh cổ kính nổi tiếng khu vực miền Tây, nằm trong vùng lòng chảo lục địa Á – Âu, nơi xung yếu phía nam Con đường tơ lụa.

                  [7] Điểm thúy: dùng lông của chim phỉ thúy (chim trả) gắn lên đồ trang sức, kiểu chế tác trang sức từ đời xưa.

                  [8] Ly long: tức rồng sừng trong truyền thuyết, để được trang trí các công trình kiến trúc hoặc đính trang sức, phục sức…

                  - Triệu Lương đệ nhất định hiểu tấm lòng của Thái tử phi.

                  Quả tôi cũng mong được gặp ả Triệu Lương đệ này. Trước nay, tôi chỉ gặp thoáng qua lần, đó là ngày thứ hai sau đại lễ sắc lập, ả được tấn phong Lương đệ, phải tới khấu đầu yết kiến tôi. Bấy giờ, ấn tượng duy nhất của tôi về Triệu Lương đệ chỉ là nàng mặc trang phục hoàng tộc đứng lẫn trong đám đông quây quần hành lễ, do khoảng cách quá xa nên tôi nhìn dung mạo ả thế nào.

                  Xem chừng Lý Thừa Ngân lòng thích ả. Nghe đâu lúc đầu chịu lấy tôi, nhưng Hoàng hậu với , nếu lập tôi làm Thái tử phi mới được nạp Triệu Lương đệ làm Lương đệ. Thế là tự nhiên tôi thành kẻ phá đám. Sở dĩ thường ngày Lý Thừa Ngân cấm Triệu Lương đệ lân la lại gần tẩm điện của tôi, mà cũng cấm chỉ tôi bén mảng sang bên đó là bởi lo tôi bắt nạt ả. Chẳng hiểu nghe ai sàm tấu, con Tây Lương những quen thói đố kỵ nhen mà còn biết bỏ bùa hại người, thành thử mỗi lần cãi nhau, chỉ cần tôi đả động đến Triệu Lương đệ là nhảy dựng lên như mèo giẫm phải đuôi, làm như tôi sắp giết nàng đến nơi bằng.

                  Quả thực, nhiều lúc tôi cũng thấy mình hơi đố kỵ với Triệu Lương đệ, tôi ghen vì có người dành cho ả nhiều tình cảm đến vậy chứ phải vì những gì ả có. Tôi thân mình ở Thượng Kinh, bơ vơ nơi nương tựa, mặc dù Vĩnh Nương tốt đấy nhưng tôi và bà ấy chuyện hợp, thậm chí có những chuyện tôi mà bà ấy hiểu.

                  Ví dụ, ở Tây Lương, về đêm chúng tôi nghe xạc xào bờ lau bãi sậy, chúng tôi cưỡi ngựa rong ruổi sa mạc bạt ngàn. Trời đêm Tây Lương xanh ánh tím, cảm giác rất gần, trong suốt vô cùng, mịm màng làm gợi nhớ món thạch nho dịu ngọt, mát lạnh, chỉ nghĩ thôi cảm thấy nó hữu ngay nơi khóe miệng. Cả đời Vĩnh Nương chưa thấy quả nho sao có thể hiểu thạch nho là thế nào. Tuy A Độ hiểu những gì tôi , nhưng mặc kệ tôi luyên thuyên đến sùi bọt mép, muội ấy cũng chỉ đáp lại bằng ánh mắt lặng lẽ. Mỗi lần như thế tôi lại thấy nhớ nhà kinh khủng, nhớ da diết Tây Lương rộn rã tiếng cười của mình. Càng nhớ Tây Lương, tôi càng ghét nơi Đông cung lạnh lẽo tình người này.

                  Tôi và Vĩnh Nương thăm Triệu Lương đệ vào buổi chiều nắng ráo. Theo hầu phía sau là mười hai đôi cung nữ, người cầm lồng xông hương, người phe phẩy quạt lông, người bưng tráp gấm đựng lễ vật. Ở Đông cung, chúng tôi đông người như thế hiển nhiên thu hút ít chú ý. Bước vào sân vườn nơi Triệu Lương đệ sống, thấy cửa chính rộng mở, ả phục sẵn ở thềm ngóng đợi, chắc nghe ngóng được tin tôi sắp tới đây mà.

                  Trong phủ Lương đệ có trồng cây cam đắng tỏa hương thơm lừng, trái non kết chùm xanh mơn mởn, tựa những cụm đèn lồng xinh treo chi chít cành. Từ bé đến giờ, lần đầu tiên được nhìn thấy, tôi thấy hay hay, cứ ngoái đầu nhìn mãi thôi, lúc lơ đễnh để ý bước chân, giẫm vào váy, ngã phịch xuống đất.

                  Ba năm ròng tuy có bỏ công khổ luyện, song tôi vẫn thường xuyên giẫm phải vạt váy. Lần này tôi ngã đúng là mất mặt, Triệu Lương đệ vội vàng tiến đến đỡ tôi:

                  - Thái tử phi! Thái tử phi sao chứ ạ?

                  đúng ra ả lớn hơn tôi những hai tuổi… Lúc được ả dìu, tôi vẫn cắn răng chịu đựng, đau quá mất!

                  Triệu Lương đệ dìu tôi vào điện rồi sai người pha trà.

                  Vừa rồi ngã đau, tôi ngồi yên ghế dám nhúc nhích, hễ cựa quậy là lại nhói đau.

                  Vĩnh Nương tranh thủ sai cung nữ trình lễ vật, Triệu Lương đệ đứng dậy hành lễ với tôi:

                  - Đội ơn Thái tử phi ban tặng, nhưng muội thẹn dám nhận.

                  Tôi biết phải gì mới phải, may có Vĩnh Nương nhanh nhẹn đỡ Triệu Lương đệ dậy:

                  - Xin Lương đệ đứng dậy, thực lòng Thái tử phi tính ghé thăm Lương đệ từ lâu, chỉ là chưa có dịp. Lần này Hoàng hậu sai người đón Tự Nương nhập cung, Thái tử phi lo Lương đệ ở bên này thiếu người chăm sóc, bèn thu xếp ghé thăm. Mấy món lễ vật này do đích thân Thái tử phi dày công chọn lựa, tuy có chút đơn sơ nhưng cốt ở tấm lòng. Sau này, nếu Lương đệ thiếu thứ gì, xin cứ dặn người qua lấy. Ở Đông cung này, Thái tử phi xem Lương đệ như chị em thân thiết, chỉ mong Lương đệ thấy xa cách.

                  Triệu Lương đệ thưa:

                  - Tấm lòng quý mến của tỷ, tiểu muội hiểu.

                  là, nghe bọn họ chuyện tôi hiểu câu được câu chăng, cứ thấy nôn nao, bức bối. Hóa ra Triệu Lương đệ xinh đẹp như tôi vẫn tưởng, nhưng được cái hòa nhã, ăn dịu dàng, dễ nghe, mặc dù mình ưa lắm nhưng cũng bới ra lý do để ghét.

                  Tôi ngồi chơi chỗ Lương đệ cả buổi chiều, chủ yếu nghe Vĩnh Nương hầu chuyện Triệu Lương đệ. ả rất quý Vĩnh Nương phải, lúc nghe Vĩnh Nương lan man hết chuyện này sang chuyện nọ, ả che miệng cười suốt, về sau, Triệu Lương đệ còn khen cung nữ của tôi mới khéo làm sao!

                  Từ phủ Lương đệ ra, tôi gặp Bùi Chiếu. Hôm nay đến phiên tuần, gã dẫn đội Vũ lâm quân từ phía cổng gác. Thấy tôi dẫn cả đám người rời phủ Triệu Lương đệ, dù ngạc nhiên song gã vẫn kín tiếng, người vướng giáp trụ, đành chắp tay vái chào:

                  - Mạt tướng tham kiến Thái tử phi!

                  - Miễn lễ!

                  Sực nhớ lần trước may có gã ra tay cứu giúp, tôi đầy cảm kích:

                  - Chuyện ngày hôm đó, cảm ơn Bùi Tướng quân!

                  có gã, chắc tôi bị lũ vô lại kia truy đuổi đến chết rồi. Thực ra, cùng lắm đụng tay đụng chân thôi, nhưng vì lũ khốn ấy rặt quân Vũ lâm lang của Đông cung, nhỡ đánh xong, bọn chúng ôm hận, sau này biết tôi là Thái tử phi được hay ho cho lắm.

                  Bùi Chiếu vẫn tỉnh bơ:

                  - Thái tử phi gì, mạt tướng hiểu.

                  Chưa kịp mở miệng thêm mấy câu, Vĩnh Nương kéo tôi bằng được. Về điện rồi Vĩnh Nương mới giáo huấn:

                  - Nam nữ thụ thụ bất thân, Thái tử phi nên qua lại với Kim ngô tướng quân.

                  Nam nữ thụ thụ bất thân ấy à? Nếu Vĩnh Nương biết lúc tôi lang thang ngoài đường, thường xuyên thách rượu, nghe hát, đánh nhau với đám đàn ông, thế nào cũng ngã vật ra cho mà xem.

                  Tôi bị ngã nên đùi sưng tấy, A Độ giúp tôi xoa thuốc. Chép sách xong xuôi, tôi lại lên cơn bứt rứt muốn trốn ra ngoài chơi. Khổ nỗi dạo này Vĩnh Nương canh chừng sát sao quá, định đợi đến đêm khuya tĩnh lặng lẻn ra, thế mà kế hoạch lại đổ bể, chỉ tại gã Lý Thừa Ngân tự nhiên mò tới.


    3. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

      justify;" align="            Chương 2





                  Bấy lâu nay, chưa từng ghé qua chỗ tôi vào buổi tối, thành thử chẳng ai phòng bị gì. Vĩnh Nương về phòng ngủ, cung nữ trực đêm cũng ngủ gà ngủ gật, tôi và A Độ hăng say đánh bài, ai thua phải ăn quýt. A Độ thắng liền bốn ván, còn tôi phải ăn những bốn quả quýt to, bụng dạ réo ỉ đúng lúc Lý Thừa Ngân đường đột bước vào.

                  Theo những điều tôi học vẹt từ hồi tổ chức đại lễ sắc lập, trước khi Thái tử đến, chỗ tôi phải cắt đặt sẵn mọi thứ để cung nghênh, từ chuẩn bị y phục, lồng hương cho tới lò đặt củi an tức [1] , đêm đến phải sắp sẵn trà nước, sáng hôm sau phải pha nước súc miệng… Mấy điều này được liệt kê, đặt đề mục hết sức ràng. Nhưng đó là việc của cung nữ, tôi chỉ cần đôn đốc họ làm là xong. Vấn đề ở chỗ, từ xưa tới nay, Lý Thừa Ngân chưa từng ngủ lại đây, thế nên từ tôi đến Vĩnh Nương, cho đến tất cả cung nữ đều trở nên lơ là, đám người hầu càng ngày càng lười nhác, chẳng ai hơi đâu sửa soạn theo khuôn sáo ấy làm gì.

                  [1] An tức hương: nhựa của cây cánh kiến trắng hay cây bồ đề vỏ đỏ, thường dùng để chữa bệnh bằng cách tán sắc thuốc hoặc đốt xông hương.

                  Tôi vừa bốc được quân bài đẹp, đột nhiên trông thấy Lý Thừa Ngân, cứ ngỡ mắt mình bị quáng, tôi đặt quân bài xuống, ngẩng lên nhìn lại cho kĩ. Ơ, hóa ra đúng là Lý Thừa Ngân!

                  A Độ bật dậy ngay tức , lần nào Lý Thừa Ngân đến, chúng tôi cũng to tiếng cãi vã, vài lần suýt đánh nhau. Chẳng trách vừa bước vào, muội ấy lăm lăm thanh đao bên mình, ánh mắt nhìn chòng chọc ra chiều cảnh giác.

                  Khuôn mặt Lý Thừa Ngân vẫn đanh lạnh như mọi khi, rồi ngồi phịch xuống giường.

                  Tôi chưa kịp hiểu muốn làm gì, chỉ biết giương mắt ngây ra nhìn .

                  hống hách ra lệnh, cứ như thể ấm ức có chỗ giải tỏa:

                  - Cởi giày!

                  Bấy giờ cung nữ trực đêm mới sực tỉnh, thấy Lý Thừa Ngân ngồi giường, liền thấy khiếp đảm như gặp phải ma. Vừa nghe ra lệnh mới giật mình, luýnh quýnh chạy đến giúp tháo giày, ai dè ăn ngay cái đạp của :

                  - Ta bảo chủ ngươi làm cơ mà!

                  Chủ nó còn ai vào đây nữa, ít ra ở cái điện này, chủ nó danh nghĩa đương nhiên là tôi rồi.

                  Tôi đỡ cung nữ kia đứng dậy, đập bàn quát:

                  - Sao Điện hạ lại đạp người ta?

                  - Ta đạp sao! Ta còn muốn đạp cả nữa đấy!

                  Nhanh như cắt, A Độ liền tuốt thanh đao bên hông, tôi đanh giọng hỏi:

                  - Điện hạ đến để cãi nhau hả?

                  Bất ngờ mỉm cười, bảo:

                  - Ta đến để cãi nhau với , ta đến để ngủ.

                  Thế rồi chỉ vào A Độ:

                  - Ra ngoài!

                  Tôi muốn làm gì, nhưng nhìn mặt là biết chẳng phải chuyện gì tốt đẹp, lại còn quát tháo ầm ĩ, kinh động ít người. Những người ngủ cũng choàng tỉnh, ngay cả Vĩnh Nương. Thấy Thái tử mò đến lúc đêm hôm khuya khoắt, Vĩnh Nương vừa kinh sợ vừa mừng thầm, kinh sợ là bởi bản mặt cáu kỉnh của , còn mừng bởi bà ấy nghĩ bụng, cứ đến là tốt rồi, dù là đến để cãi nhau.

                  Vĩnh Nương bước vào, bầu khí bớt căng thẳng phần nào. Bà ấy phân công ngươi sửa soạn trà nước, áo ngủ, nước súc miệng… Bọn người hầu được phen tất bật, nhốn nháo, nhộn nhạo hẳn lên. Tôi bị cả đám người vây quanh, chải đầu, thay áo ngủ… Mọi thứ xong xuôi, Vĩnh Nương bèn lôi A Độ ra ngoài. A Độ khăng khăng chịu, Vĩnh Nương liền ghé tai rù rì mấy câu, hiểu bà ta gì mà mặt A Độ đỏ lựng, ngoan ngoãn theo bà ta lui ra ngoài. chung, trận nhốn nháo qua , trong điện chỉ còn tôi và Lý Thừa Ngân.

                  Xưa nay, tôi chưa từng mặc độc cái áo ngủ, đứng độc có mình trước mặt bất kỳ gã con trai nào, thấy kỳ cục. Hơn nữa, phen sửa soạn ban nãy cũng đủ làm tôi mệt bã người. Tôi ngáp cái dài, lên giường, kéo chăn rồi lăn kềnh ra ngủ.

                  Còn Lý Thừa Ngân ngủ hay thức, đó phải việc tôi cần quan tâm.

                  Nhưng tôi thừa biết, sau đó cũng leo lên giường, khổ nỗi giường có mỗi chiếc chăn, liền đạp tôi cái đau điếng:

                  - nằm dịch ra xem nào!

                  Tôi thiu thiu ngủ, bị đạp cái bỗng choàng tỉnh.

                  Những lúc buồn ngủ díp mắt, tính tình tôi thường hiền hòa hơn , cho nên chẳng thèm cãi nhau với , thậm chí còn thương tình nhường nửa cái chăn. Lý Thừa Ngân quấn chặt tấm chăn, quay lưng về phía tôi, chốc lát thở khò khò.

                  Đêm đó tôi trằn trọc mãi sao ngủ được, tại Lý Thừa Ngân trở mình suốt, mà tôi lại quen chung chăn với người lạ. Nửa đêm kéo hết chăn, thấy lành lạnh tôi mới rùng mình tỉnh dậy, tống cho cú đạp rồi giằng lại chăn. Đêm hôm khuya khoắt chỉ vì chuyện cái chăn mà chúng tôi cãi nhau nảy lửa. tức tối :

                  - Nếu Sắt Sắt khuyên nhủ đừng hòng ta đến!

                  Sắt Sắt là tên mụ của Triệu Lương đệ, cái tên ả treo ở đầu lưỡi , giọng điệu lẫn sắc thái chiều, cưng nựng hết mực.

                  Chợt nhớ ra chuyện hồi chiều, nhớ tới những gì Triệu Lương đệ cộng thêm những lời Vĩnh Nương từng kể, cuối cùng tôi cũng vỡ lẽ, tự dưng buồn lạ lùng.

                  Thực ra tôi cũng chẳng bận tâm, trước kia lúc đến, tôi vẫn sống thoải mái đấy thôi, có gì chật vật cả. Thế nhưng hôm nay đùng đùng xuất , trong lòng tôi lại thấy se nỗi buồn tủi.

                  Tôi biết vợ chồng ngủ chung là lẽ thường tình, song tôi cũng hiểu, bấy lâu nay Lý Thừa Ngân chưa từng coi tôi là chính thê của .

                  Thê tử của là Triệu Lương đệ cơ mà. Chiều nay tôi mang quà cáp thăm hỏi Triệu Lương đệ, ả ta thấy tôi tội nghiệp bèn rủ lòng thương, khuyên nhủ Lý Thừa Ngân ghé chỗ tôi đêm.

                  Phụ nữ Tây Lương chúng tôi xưa nay chưa từng cần ai phải thương hại.

                  Tôi bật dậy, thẳng thừng:

                  - Điện hạ về !

                  lạnh nhạt lên tiếng:

                  - yên tâm, trời sáng là ta ngay.

                  trở người, xoay lưng lại, ngủ tiếp.

                  Tôi đành vùng dậy, choàng thêm áo rồi ra bàn ngồi.

                  bàn đặt chao đèn bằng lụa, ánh nến dập dềnh, quầng lửa tỏa màu ấm cúng nhảy nhót như chực tràn khỏi lớp lồng đèn, trong lòng tôi, cảm xúc như cũng muốn dâng trào. Tôi chạnh lòng nhớ cha mẹ, nhớ các trai, nhớ con ngựa của mình, lòng thầm nhớ Tây Lương…

                  Nỗi đơn gợi tôi nhớ Tây Lương, những ngày tháng về Thượng Kinh độc lắm, thế nên trong lòng chỉ hướng về Tây Lương.

                  Chính vào lúc ấy, tôi chợt thấy cửa sổ đổ bóng hình mờ mờ.

                  Tôi giật mình, vươn tay mở toang cánh cửa.

                  Gió đêm vương vất cái lạnh bỗng làm tôi rùng mình, bên ngoài vắng tanh ai, chỉ có ánh trăng se sắt chảy tràn nơi nơi.

                  Tôi định đóng cửa, đột nhiên thấp thoáng đằng xa là chiếc bóng trắng treo cành cây, nhìn kĩ mới nhận ra đó là người vận đồ trắng.

                  Tôi trố mắt đứng nhìn, đây là Đông cung, canh chừng nghiêm ngặt đến từng ngóc ngách, lẽ nào lại có thích khách xông vào hay sao?

                  Gã thích khách áo trắng ấy cũng to gan !

                  Tôi trợn mắt nhìn gã, gã cũng nhìn lại tôi. Đêm khuya thanh vắng đến mức tiếng gió lùa qua còn nghe mồn , ngọn đèn bàn gặp gió lại dập dềnh, gã đứng ngọn cây, lặng lẽ quan sát tôi. Gió lùa cành lá rung rinh, cơ thể nhuốm ánh trăng của gã cũng hơi tròng trành, sau lưng là quầng trăng sáng, mái tóc dài lẫn cánh tay áo tung bay trong gió, giống như gã cưỡi mặt trăng.

                  Tôi nhận ra rồi, là Cố Kiếm, chính là gã đàn ông quái đản ấy.

                  Sao gã lại lọt vào đây?

                  Suýt chút nữa tôi cắn phải lưỡi. Sau cái chớp mắt, gã Cố Kiếm biến mất dạng.

                  Hay mình nhìn nhầm? Hay chỉ là mơ…

                  Chắc mình mắc bệnh nhớ nhà, làm gì cũng lơ mơ. Rạng sáng ngày hôm sau, Lý Thừa Ngân liền bỏ thấy quay lại nữa. Vĩnh Nương lấy đêm đó làm chuyện vui, nhắc đến là mặt mày rạng rỡ, tôi nỡ , thực ra xảy ra chuyện gì đâu mà!

                  Đừng thấy tôi tuổi mà coi thường, lúc tôi và A Độ tản bộ ngoài đường, từng hiếu kỳ đến mấy chỗ câu lan [2] , ngõa tử [3] xem qua rồi, chưa ăn thịt heo cũng phải thấy heo chạy chứ [4] !

                  [2] Câu lan: còn gọi là câu đương, câu tử, vốn chỉ nơi giải trí, là chỗ biểu diễn tài nghệ của con hát thời xưa, nhưng về sau trở thành từ để gọi chung kỹ viện.

                  [3] Ngõa tử: là nơi tiêu khiển, giải trí và mua bán tạp hóa tại các đô thị lớn, xuất từ thời Bắc Tống.

                  [4] Ý việc tuy chưa làm bao giờ, nhưng trông thấy người ta làm.

                  Vĩnh Nương cảm kích ý tốt của Triệu Lương đệ, dạo còn rủ ả đến chỗ tôi chơi bài.

                  Hôm đó chẳng hiểu ma xui quỷ khiến thế nào mà tôi thua liên tục, ván hòa cũng gỡ được. Tình trường được như ý thôi vậy, lẽ nào đến bài bạc cũng chẳng ra sao! Vĩnh Nương thoạt tưởng tôi thông minh đột xuất, cố tình nhường Triệu Lương đệ, hòng nịnh ả mát lòng mát dạ.

                  Từ dạo đó, Triệu Lương đệ hay ghé chỗ tôi đánh bài, thú thực, giọng điệu của nàng khiến người ta thích mê, chẳng hạn ả vừa khen đôi ủng của Tây Lương mà tôi hằng :

                  - Trung Nguyên làm gì có loại thuộc da tinh xảo thế này!

                  Tôi hớn hở vội hứa, đợt này nếu cha tôi phái người đến, tôi bảo họ mang theo vài đôi giày đẹp đẹp để làm quà tặng nàng.

                  dở ván bài, Triệu Lương đệ hỏi:

                  - Lúc nào Thái tử phi định tiến cung thăm Tự Nương ạ?

                  Tôi lấy làm lạ, việc gì tôi phải vào cung thăm Tự Nương? ta ở trong đó còn có người của Hoàng hậu săn sóc, mọi thứ đều ổn thỏa, tôi thăm nom làm gì chứ? Huống hồ Vĩnh Nương kể với tôi, vì chuyện của Tự Nương mà Triệu Lương đệ làm ầm ĩ trận, khóc lóc mấy ngày liền, bắt Lý Thừa Ngân phải thề độc, dù Tự Nương có sinh con trai cũng được ngó ngàng đến ta. Tôi nghĩ bụng, hẳn Triệu Lương đệ ghét Tự Nương lắm, nhưng trước mặt tôi, ả lại vô tình gợi chuyện, giả vờ nhân hậu.

                  Vĩnh Nương ngồi bên cạnh bẩm:

                  - Bây giờ Tự Nương nhập cung, Hoàng hậu nương nương chưa triệu kiến, Thái tử phi cũng tiện thăm nom ạ!

                  Triệu Lương đệ “ừm” tiếng rồi làm như thể chẳng hề để bụng. Hôm đó vận bài bạc của tôi cũng tệ, thắng được mấy đồng lẻ. Đợi Triệu Lương đệ khuất, Vĩnh Nương liền dặn:

                  - Thái tử phi nhất định phải đề phòng, chớ để Triệu Lương đệ lấy người ra làm bia đỡ tên.

                  Có lúc nghe Vĩnh Nương mà tôi chẳng hiểu gì cả, chẳng hạn như cụm từ “bia đỡ tên” này.

                  Vĩnh Nương bảo:

                  - Triệu Lương đệ căm giận Tự Nương lắm, ắt giở trò khiến đứa bé kia thể chào đời. Thị muốn làm gì, Thái từ phi cứ mặc thị, vui vẻ mà thuận nước giong thuyền, song Thái tử phi cũng phải cẩn trọng, đừng để bị mắc mưu thị.

                  Càng nghĩ càng thấy khó hiểu, đứa trẻ còn nằm trong bụng Tự Nương, Triệu Lương đệ định làm gì để đứa trẻ thể chào đời? Vĩnh Nương :

                  - Cách nhiều lắm, Thái tử phi là người đứng đắn, nên tìm hiểu những chuyện này.

                  Tôi nghĩ thầm, chắc Vĩnh Nương cố tình thế, bởi lẽ xưa nay bao giờ tôi là người đứng đắn đâu, nhưng bà ấy thế tôi cũng nỡ muối mặt gặng hỏi thêm nữa.

                  Thời tiết chớm lạnh, tôi và A Độ tranh thủ lẻn ra ngoài chơi.

                  Ở ngoài đường thoải mái, người qua người lại, xe cộ đông như mắc cửi, náo nhiệt biết bao. Chúng tôi ghé quán trà, nghe kể chuyện như mọi khi, vị tiên sinh trước kia hiểu đâu mất, giờ đổi sang vị tiên sinh mới này, cũng kể chuyện Tiên Kiếm nữa, mà chuyển sang bàn chuyện chinh chiến Tây Vực từ mấy thập niên trước của triều đình.

                  - Kể từ lần bại trận ấy, Tây Lương bị đại quân thiên triều đánh cho tan tác, phải cúi đầu thần phục. Tuyên hoàng đế nhân hậu, hẹn ước cùng Tây Lương kết mối lương duyên nhiều đời, đồng thời ban hôn Công chúa Minh Viễn của thiên triều cho khả hãn [5] của Tây Lương. Hai nước hòa thuận mười mấy năm nay, chẳng ngờ khả hãn già nua của Tây Lương vừa qua đời, tân khả hãn liền ngông cuồng tới mức tự xưng mình là Thiên Khả hãn, rồi tuyên chiến với triều đình ta. Khi đại quân thiên triều áp sát biên giới hai nước, tân Khả hãn trở tay kịp, bèn cung kính giao nộp con mình, đổi lại khoan dung của thiên triều.

                  [5] Khả hãn hoặc khắc hãn, đại hãn: là tước hiệu thủ lĩnh cao nhất trong ngôn ngữ Mông Cổ và Thổ Nhĩ Kỳ, được xem là người đứng đầu của đế quốc.

                  Mọi người trong quán cười ầm lên, A Độ đứng phắt dậy, ném phăng chiếc cốc. Bình thường A Độ là người can ngăn tôi nên manh động, lần này lại đến lượt tôi sợ muội ấy nổi nóng mà đả thương người khác nên vội lôi A Độ ra khỏi quán trà.

                  Bên ngoài nắng vàng rực rỡ, tự nhiên tôi nhớ tới Công chúa Minh Viễn. Đó là người phụ nữ xinh đẹp, trang phục lẫn cách trang điểm khác xa con Tây Lương chúng tôi. Lúc dì ấy mắc bạo bệnh rồi qua đời, cha tôi cũng đau lòng lắm.

                  Cha tôi rất quan tâm đến dì ấy, người , đối đãi tử tế với Công chúa Minh Viễn cũng chính là tử tế với Trung Nguyên.

                  Dân tộc Tây Lương chúng tôi cứ tưởng mình tử tế với người ta đương nhiên người ta cũng tử tế lại với mình. Đâu như người Thượng Kinh, lúc nào cũng tính toán, trước mặt kiểu, sau lưng làm kiểu.

                  Nếu là ba năm trước, thế nào tôi cũng đánh cho lũ người trong quán trà kia trận tơi bời, hiềm nỗi bây giờ lòng tôi nguội lạnh lắm rồi.

                  Tôi và A Độ ngồi nghỉ bên cầu, những cánh buồm căng gió lướt sông, người chèo đò cầm cây sào dài ngoẵng, lúc lại cắm sâu xuống lòng sông, đẩy con đò dần về phía xa. Nhớ hồi mới đến Thượng Kinh, nhìn thấy thuyền bè tôi vô cùng sửng sốt, lẽ nào xe lại được sông? Thấy cầu tôi còn kinh ngạc hơn, tưởng là cầu vồng, ai lại xếp đá thành cầu vồng thế này? Ở Tây Lương chúng tôi, mặc dù có sông nhưng nước sông trong veo mà nông như dải lụa bạc vắt qua thảo nguyên, nước sông róc rách chảy, ngồi lưng ngựa là lội được qua, nơi ấy có thuyền, cũng chẳng có cầu.

                  Từ lúc đến Thượng Kinh, tôi được chứng kiến nhiều điều chưa được thấy bao giờ nhưng trong lòng lại thoải mái.

                  mải thả hồn ngẩn ngơ, chợt nghe có tiếng “ùm”, rồi tiếng gọi thất thanh vang lên gần đó:

                  - Có ai ! Ca ca cháu rơi xuống sông rồi! Ai cứu ca ca cháu với!

                  Tôi ngước nhìn lên, thấy phía xa xa có chừng bảy, tám tuổi gào khóc kêu cứu:

                  - Mau cứu ca ca cháu với! Huynh ấy rớt xuống sông rồi!

                  Thấy cái đầu trồi mặt nước, lúc chìm lúc nổi, tôi liền nhảy bổ xuống sông, quên béng mất mình biết bơi. Đến khi túm được tay thằng bé, tôi cũng bị sặc, uống biết bao nhiêu là nước, trộm nghĩ lần này xong rồi, cứu được người ta, mình cũng bị chết đuối. Tôi chết cũng sao, nhưng chết rồi ai chăm sóc cho A Độ, thân mình muội ấy chẳng biết có tìm được đường về Tây Lương

                  Bụng ních đầy nước rồi cơ thể tôi cứ thế chìm dần. Đúng lúc tôi sắp ngất lịm được A Độ vớt lên từ dưới nước lên. A Độ đặt tôi nằm lên phiến đá rộng bên bờ sông, miệng tôi ộc ra toàn nước. Nhớ năm xưa, lần đầu tiên thấy vại thủy tinh nuôi cá vàng trong Đông cung, bấy giờ tôi tự hỏi, sao nó lại to thế nhỉ? Cái bụng tròn lẳn đáng chưa kìa, thỉnh thoảng còn nhởn nhơ nhả bong bóng nữa chứ! Bây giờ mới vỡ lẽ, hóa ra trong bụng nó toàn nước cả đấy.

                  A Độ ướt sững từ đầu đến chân, nước áo quần thi nhau giọt, muội ấy khuỵu gối ngồi cạnh tôi. Ánh mắt muội ấy nhìn tôi đau đáu, đầy vẻ lo âu, tôi biết mình mà tỉnh lại, thể nào ngốc nghếch này cũng khóc ầm lên cho mà xem.

                  - A Độ… - Trong cơn mê man, tôi vẫn ói ra nước ngừng – Đứa trẻ kia đâu…

                  A Độ liền đưa thằng vừa ngã xuống sông lại cho tôi xem, nó ướt nhẹp, nước tong tong từng giọt, đôi mắt đen láy nhìn tôi chằm chằm.

                  Tôi cố gằng bò dậy, người dân quanh đấy thấy vậy xúm lại xem. Cả ngày tôi lang thang ngoài đường tìm trò vui, chẳng ngờ lần này cũng đến lượt mình bị người ta nhìn chằm chằm với vẻ soi mói. Tôi và A Độ dở tay vắt quần áo, chợt nghe tiếng hét thất thanh của ai đó, cùng lúc, chân nam đá chân chiêu len vào giữa đám đông.

                  - Con tôi! Ôi, con tôi!

                  Xem dáng vẻ chừng như cặp vợ chồng, bọn họ ôm chằm lấy đứa trẻ rơi xuống nước ban nãy rồi gào khóc, đứa con cũng đứng bên dụi mắt.

                  Tôi lấy làm mừng trước cảnh nhà người ta sum vầy. Ngày qua ngày, lê la ở quán trà nghe kể chuyện hùng nghĩa hiệp, chẳng ngờ hôm nay mình cũng được làm hùng phen. Ai dè thằng nhóc ban nãy chợt khóc toáng lên, để tôi kịp tưởng tượng:

                  - Cha ơi, chính gã đàn ông xấu xa này đẩy con xuống sông!

                  rồi nó chĩa tay, chỉ thẳng vào tôi.

                  Tôi trợn mắt, há miệng, thầm nghĩ, chuyện gì diễn ra thế này?

                  - Con cũng thấy chính đẩy ca ca xuống sông đấy ạ! – Đứa con giọng non nớt mà tôi nghe chẳng khác nào tiếng sấm rền bên tai.

                  - Lòng dạ người đời sao lại dã man thế chứ!

                  - Đứa gây thù chuốc hấn gì với thế?

                  - Có trời mới biết! Trông mặt cũng có vẻ nho nhã, thế mà lại làm cái chuyện xấu xa này!

                  - Cái loại nho nhã cặn bã! Đồ mặt người dạ thú!

                  - thể tha cho nó!

                  - Đúng thế!

                  - thể tha cho bọn này được!

                  Người từ bốn bể xộc đến, xô đẩy chúng tôi. Đương nhiên A Độ cũng chẳng hiểu chuyện gì, chỉ biết giương mắt nhìn tôi. Tôi nghe mà gân xanh hai bên thái dương giật liên hồi, chẳng ngờ làm ơn mắc oán, tức thế biết!

                  - Mau đưa thằng bé đến y quán để đại phu xem bệnh!

                  - Phải bồi thường nữa chứ! Vô duyên vô cớ đẩy thằng ngã xuống sông, bắt nó đền tiền !

                  Tôi phân bua:

                  - ràng bọn tôi cứu đứa này mà, sao lại lật trắng thay đen, đổ vạ cho chúng tôi đẩy nó được!

                  - Mày đẩy nó chứ mày cứu cái gì?

                  Tôi suýt phụt máu tươi, cái loại… cái loại lý lẽ gì thế này?

                  - Mày làm con trai tao sợ rồi đây này, phải mời đại phu tới xem bệnh mới được.

                  - Đúng, phải mời đại phu tới xem bệnh , xem có bị thương !

                  - Đứa trẻ vẫn còn lành lặn thế, nó có bị thương đâu! Với lại, ràng tôi vừa cứu nó…

                  - Lại còn cãi láo! đền tiền mời thầy thuốc chứ gì, lôi nó lên quan huyện giải quyết!

                  Đám người xung quanh đồng thanh:

                  - Dẫn chúng lên nha môn !

                  Thế rồi người ta nhộn nhạo gào thét:

                  - Lên nha môn!

                  Tôi bực lắm, lên lên, cây ngay sợ chết đứng, mình ngay thẳng sợ gì ai!

                  Đám người nhốn nháo xô đẩy, lời qua tiếng lại cũng đủ thu hút ánh mắt của người qua đường, thế cặp vợ chồng kia còn vừa ôm con vừa gào toáng lên:

                  - Mau ra đây mà xem… Còn công lý nữa … Xô con người ta xuống sông mà còn già mồm bảo mình cứu chúng. Chẳng lẽ trẻ con lại bịa chuyện…

                  Thế là tôi và A Độ chẳng khác nào hai con chuột tạt ngang chợ, hàng quán thi nhau ném rau thối vào người chúng tôi, kẻ rỗi hơi qua bắt gặp cũng nhổ nước bọt… May là A Độ nhanh chân nhanh tay nên hai đứa dính miếng rau thối nào, nhưng càng thế tôi càng bực.

                  Bước vào nha môn huyện Vạn Niên, lửa giận trong tôi mới nguôi ngoai phần nào, dù sao vẫn có nơi để mà cãi lý. Vả chăng lần đầu được đến chỗ này, nhìn cũng có vẻ khá đây. Dưới quyền Kinh triệu doãn [6] có hai huyện Trường An và Vạn Niên, với ý nghĩa bình an, trường tồn muôn đời, vì vậy mà Trường An và Vạn Niên được mệnh danh là hai huyện đứng đầu thiên hạ. Lúc thăng đường, khí thế bừng bừng, trong tiếng hô “UY” của đám nha dịch, huyện lệnh huyện Vạn Niên sải bước xuất , ung dung an tọa, bắt đầu tra hỏi tên họ của nguyên cáo lẫn bị cáo.

                  [6] Kinh triệu doãn: chức quan đứng đầu phủ Kinh triệu, thuộc Tam phụ (bao gồm: Kinh triệu doãn, Tả phong dực, Hữu phủ phong) chuyên cai quản kinh đô.

                  Đến tận lúc này tôi mới biết đôi vợ chồng kia họ Giả, sống ở ven sông, mưu sinh bằng nghề bán cá. Lúc hỏi đến mình, tôi buột miệng bịa ra cái tên giả, tự xưng là “Lương Tây”, mỗi lần tha thẩn bên ngoài tôi thường dùng cái tên này. Có điều huyện lệnh huyện Vạn Niên hỏi tôi làm nghề gì, tôi liền cứng họng, biết phải đáp lại thế nào, gã sư gia ngồi bên nom dáng dấp tôi cũng chen đôi lời:

                  - vậy tức là du thủ du thực?

                  cũng gần như thế, kiểu lang thang nay đây mai đó, tôi liền gật đầu.

                  Huyện lệnh đại nhân nghe cặp vợ chồng kia hươu vượn hồi, lại hỏi đến hai đứa trẻ, hai đứa trẻ trả lời đồng thanh trả lời, quả quyết bảo tôi đẩy thằng xuống sông. Huyện lệnh đại nhân thôi truy cứu chúng nữa mà chuyển sang hỏi tôi:

                  - Người biết bơi ?

                  - biết.

                  Huyện lệnh huyện Vạn Niên gật gù, phán rằng:

                  - Ngươi vô duyên vô cớ đẩy người ta ngã xuống sông, suýt chút nữa gây án mạng, người còn gì để ?

                  Tôi tức tối giậm chân:

                  - ràng thảo dân thấy nó ngã xuống sông liền nhảy xuống cứu nó. Sao thảo dân có thể đẩy nó được, đẩy nó có ích gì?

                  Huyện lệnh phán rằng:

                  - Ngươi biết bơi mà lại cứu nó, nếu ngươi đẩy thằng bé, hà tất phải liều mình cứu nó?

                  Tôi cãi:

                  - Cứu người là hết, há cần nghĩ ngợi! Thảo dân thấy thằng bé rơi xuống sông liền nhảy xuống cứu, đâu có bận tâm mình biết bơi!

                  Huyện lệnh :

                  - Ngươi chỉ giỏi vụng chèo khéo chống! Con người ta quen thói ích kỷ, ham sống sợ chết, ngươi và đứa trẻ vốn quen biết, người cũng biết bơi, cớ gì lại lao xuống cứu nó, há chẳng phải chột dạ ư? Nếu bảo ngươi làm, hà tất phải có tật giật mình? khi có tật giật mình, vậy chuyện ngươi đẩy nó xuống sông còn nghi ngờ gì nữa!

                  Tôi liếc nhìn bốn chữ “gương sáng treo cao” sau lưng lão, gân xanh hai bên thái dương bất chợt giật giật, nó giật cái nào, tôi lại muốn xắn tay áo tẩn lão huyện lệnh này cái đó.

                  Huyện lệnh huyện Vạn Niên thấy tôi còn gì để , liền ra phán quyết:

                  - Ngươi vô duyên vô cớ đẩy người ta xuống sông, hại con nhà người ta bị chấn động tinh thần, giờ bản quan phạt ngươi đền nhà họ Giả mười xâu tiền để an ủi cả nhà họ.

                  Tôi giận biết để đâu cho hết, liền phá lên cười:

                  - Hóa ra ông toàn xử án kiểu này sao?

                  Huyện lệnh huyện Vạn Niên thủng thẳng :

                  - Ý ngươi là bản quan xử án bất công?

                  - Đương nhiên rồi! Thảo dân cứu người là chuyện rành rành ra đó, thế mà ngài chỉ nghe từ phía, quyết tin thảo dân.

                  - Ngươi cãi rằng mình đẩy đứa trẻ, vậy có nhân chứng, vật chứng gì ?

                  Tôi nhìn sang A Độ, bảo:

                  - Đây là A Độ, muội ấy chứng kiến thảo dân cứu người, sau đó cũng chính muội ấy vớt thảo dân và đứa trẻ kia lên.

                  Huyện lệnh đại nhân ra lệnh:

                  - Vậy gọi kẻ đó bước ra công đường để ta chất vấn.

                  Tôi nuốt giận :

                  - A Độ biết .

                  Huyện lệnh huyện Vạn Niên phá lên cười:

                  - Hóa ra là kẻ câm!

                  Lão vừa cười, tôi biết có chuyện chẳng lành, y như rằng A Độ tuốt vỏ đao nhanh như cắt. May mà tôi kịp giữ muội ấy lại, bằng muội ấy cắt phăng đôi tai của gã huyện lệnh kia rồi. A Độ đứng yên chỗ, gườm gườm nhìn gã huyện lệnh, nha dịch xung quanh vùng lên quát tháo:

                  - công đường được mang đao!

                  Tuy ở yên trong vòng tay tôi, song A Độ vẫn khẽ cử động, mũi đao như bông tuyết phớt bay rồi lại xoay chuyển trở về trong lòng bàn tay. Muội ấy ra tay nhanh như chớp, hộp thăm đỏ án thư của huyện lệnh đại nhân chợt vang lên tiếng “bang” rồi nứt toác, ai kịp trở tay, thăm đỏ trong hộp rơi xuống đất, que nào que nấy nứt làm đôi. Ống thăm cắm ít nhất mười que, tất cả bị chẻ làm đôi chỉ trong chớp mắt bởi nhát đao của A Độ, thậm chí nứt đôi ngay chính giữa. Những người có mặt công đường khỏi trố mắt thảng thốt, dân chúng đứng xem ngoài cửa nha môn bèn ồ lên:

                  - Xiếc tài quá!

                  Sai dịch trong nha môn thầm nghĩ, đây là đao pháp tuyệt diệu chứ nào phải “xiếc hay”. Huyện lệnh huyện Vạn Niên sợ tím tái mặt mày nhưng vẫn ra vẻ bình tĩnh, bảo:

                  - Người… người đâu! Sao lại để bọn họ giở trò đao kiếm công đường?

                  Ngay lập tức có vài gã nha dịch đánh bạo tiến lên toan tịch thu thanh đao tay A Độ, tôi ngay:

                  - Các ngươi có giỏi cứ xông lên, nương này mà muốn cắt tai ai, ta cũng cản nổi đâu.

                  Quan huyện gằn giọng, quát:

                  - Nơi đây đường đường là nha môn huyện Vạn Niên, các người muốn làm loạn hả?

                  Tôi :

                  - Bẩm đại nhân, oan cho thảo dân quá!

                  Huyện lệnh :

                  - có ý làm loạn mau giao nộp thanh đao.

                  Lời vừa dứt, A Độ ném cho lão cái lườm, lão lập tức đổi giọng:

                  - Mau thu đao lại!

                  A Độ dắt đao vào thắt lưng, tôi trộm nghĩ hôm nay đúng là tai bay vạ gió, chẳng biết kết cục rồi về đâu.

                  Huyện lệnh huyện Vạn Niên thấy A Độ thu đao lại, dường như cũng an tâm phần nào, đưa mắt ra hiệu với sư gia. Vị sư gia hiểu ý liền bước xuống công đường, nhàng hỏi tôi:

                  - Thân thủ của hai vị võ sĩ quả là cao cường, hiểu hai vị là thuộc hạ của đại nhân ở phủ nào?

                  Tôi nghe chẳng hiểu gì, bèn trợn mắt bảo gã:

                  - Ngươi thẳng ra xem nào!

                  Sư gia nhún nhường, hạ giọng:

                  - Ý đại nhân nhà chúng tôi muốn hỏi, thân thủ của hai vị vừa nhìn biết người phi phàm, biết hai vị theo hầu vị đại nhân nào ạ?

                  Tôi mừng quýnh, hóa ra lão huyện lệnh này cũng biết mềm nắn rắn buông, vừa rồi chúng tôi làm náo loạn công đường, lão lại tưởng tôi ỷ mình có sừng có mỏ, hẳn lão nghĩ chúng tôi là hiệp khách của phủ quyền quý nào đây mà. Tôi đắn đo lúc, hay bây giờ mình réo tên Lý Thừa Ngân nhỉ, chỉ e lão tin. Đầu tôi bỗng lóe lên cái tên, có rồi!

                  Tôi thẽ thọt với ông ta:

                  - Đại nhân nhà chúng tôi là Kim ngô tướng quân Bùi Chiếu.

                  Sắc mặt sư gia như thể vỡ lẽ, thậm chí gã còn quay người, ngầm chắp tay với tôi, khẽ thưa:

                  - ra là Vũ lâm lang dưới quyền Bùi đại nhân, chẳng trách lại phi thường thế!

                  Tôi mà thèm nhập bọn với lũ Vũ lâm lang khốn khiếp ấy? Cơ mà những lời này tôi chỉ tự nhủ thế thôi, người Trung Nguyên có câu rất hay: Tránh voi chẳng xấu mặt nào.

                  Sư gia lui về sau án, thủ thỉ bên tai lão huyện lệnh chặp.

                  Sắc mặt lão huyện lệnh thoáng tái mét, lão đập thước cái:

                  - là người phụng mệnh hành của Kim ngô tướng quân, vậy mời Bùi Tướng quân đến đây làm chứng!

                  Tôi choáng váng, có trời mới biết lão huyện lệnh này lại lắm trò đến thế. Bụng bảo dạ, nếu hôm nay tới phiên Bùi Chiếu trực ở Đông cung đúng là gay go rồi. Nếu gã đến hay sai người khác mà chúng tôi biết, vậy tôi chết chắc rồi. Lẽ nào phải đại náo công đường rồi bỏ của chạy lấy người sao?

                  Sau này nghe Bùi Chiếu kể lại tôi mới , tuy gã huyện thừa này chỉ giữ chức quan thất phẩm nhoi, hiềm nỗi hoàng thành ngay sát dưới chân thiên tử, thế mới đảm đương chức vị này cũng hóc búa vô cùng. Những kẻ có thể ngồi vững cái ghế ấy rặt loại cáo già lọc lõi. Lão huyện lệnh huyện Vạn Niên ấy gặp phải hai đứa khó chơi như bọn tôi đâm ra khép được vụ án, nghe bảo tôi là quân của Bùi Chiếu liền nằng nặc sai người mời Bùi Chiếu đến. Những chuyện bát nháo chốn quan trường này, dù Bùi Chiếu có giảng giải thế nào tôi cũng tài nào hiểu nổi.

                  May là hôm nay Bùi Chiếu phải tuần, vừa mời đến ngay.

                  Hôm nay Bùi Chiếu mặc võ phục thay vì giáp trụ như mọi ngày. Xưa nay tôi và gã chỉ chạm mặt nhau đôi lần, đều là lúc Bùi Chiếu tuần trong Đông cung với bộ giáp trụ người, hôm nay là lần đầu tiên tôi gặp gã ăn vận kiểu này, thành thử gã bước vào mà tôi cũng nhận ra. Vẻ nho nhã kiểu thư sinh này khiến gã khác hẳn ngày thường.

                  Thấy tôi và A Độ, gã tỏ ra tỉnh bơ. Huyện lệnh huyện Vạn Niên rời ghế nghênh tiếp, mặt mày tươi rói, thưa:

                  - Vạn bất đắc dĩ mới nhờ đến Tướng quân, âu cũng là vạn bất đắc dĩ.

                  - Nghe người của tôi vô duyên vô cớ xô đứa trẻ xuống sông, hiển nhiên tôi cũng phải đến xem thế nào.

                  - Vâng, vâng! Mời Tướng quân ngồi ghế thượng tọa!

                  - Nơi đây là nha môn huyện Vạn Niên, xin đại nhân cứ tiếp tục thẩm tra, bản Tướng quân ngồi bên cạnh nghe là được rồi.

                  - Vâng, vâng!

                  Huyện lệnh huyện Vạn Niên lại tái diễn màn truy hỏi bị cáo, nguyên cáo từ đầu chí cuối.

                  Tôi thấy là chán ngắt.

                  Nhất là đoạn lão huyện lệnh :

                  - Con người ta quen thói ích kỷ, ham sống sợ chết, ngươi và đứa trẻ vốn quen biết, ngươi cũng biết bơi, cớ gì lại lao xuống cứu nó, há chẳng phải chột dạ ư? Nếu bảo ngươi làm, hà tất phải có tật giật mình? khi có tật giật mình, vậy chuyện ngươi đẩy nó xuống sông còn nghi ngờ gì nữa!

                  Tôi quăng cho lão cái lườm sắc ngọt.

                  Cho đến tận cùng, hai đứa trẻ kia vẫn kiên quyết cho rằng tôi đẩy thằng xuống sông, trong khi tôi mực phủ nhận.

                  Lão huyện lệnh cố tình hỏi khó Bùi Chiếu:

                  - Bùi tướng quân, ngài xem…

                  Bùi Chiếu :

                  - Tôi có thể hỏi hai đứa trẻ vài lời ?

                  Lão huyện lệnh thưa:

                  - Vâng, mời Tướng quân!

                  Bùi Chiếu bèn :

                  - Vậy nhờ đại nhân tạm đưa bé này lui ra sau, lấy hoa quả, bánh trái cho bé ăn, đợi tôi hỏi xong trai của bé, rồi hãy gọi ra.

                  Đương nhiên lão huyện lệnh đồng ý ngay lập tức. Đợi đứa bé kia khuất, Bùi Chiếu mới hỏi đứa trẻ bị rơi xuống nước:

                  - Cháu vừa mới , cháu nghịch nước ở ven sông, chính gã này đẩy cháu?

                  Thằng bé gan lì đáp lại:

                  - Đúng ạ!

                  - Gã đẩy cháu từ đằng sau?

                  - Đúng ạ!

                  - Gã đẩy cháu từ đằng sau, sau lưng lại có mắt, sao cháu biết chính đẩy mà phải là người bên cạnh?

                  Thằng nhóc líu lưỡi, mắt đảo vòng:

                  - Thảo dân nhớ nhầm ạ, thực ra đẩy thảo dân từ phía trước khiến thảo dân ngã ngửa xuống sông.

                  - À, ra là ngã ngửa. – Bùi Chiếu hỏi xong, đoạn quay sang bảo. – Xin phép huyện lệnh đại nhân dẫn đứa bé này thay quần áo, thằng bé ướt sũng, khéo lại nhiễm lạnh.

                  Huyện lệnh bèn sai người dẫn thằng bé . Bùi Chiếu cho gọi đứa bé ban nãy ra công đường, chỉ vào tôi hỏi rằng:

                  - Cháu nhìn xem đây có phải kẻ đẩy ca ca cháu xuống sông ?

                  - Chính ạ!

                  - Ca ca cháu chơi bên bờ sông, đẩy ca ca cháu kiểu gì?

                  - cứ đẩy thôi ạ, tại , ca ca cháu mời ngã xuống sông.

                  Bùi Chiếu hỏi:

                  - Người ta đẩy vai hay là đẩy lưng trai cháu?

                  Con bé nghĩ hồi rồi chắc nịch rằng:

                  - đẩy vai ạ!

                  - Cháu cứ nghĩ cho kĩ , rốt cuộc là vai hay lưng?

                  Nó do dự lúc lâu rồi mới :

                  - phải vai mà là lưng ạ, bước tới từ đằng sau, đẩy cháu lộn cổ xuống sông.

                  Bùi Chiếu chắp tay hướng lên :

                  - Thưa đại nhận, bản Tướng quân hỏi xong, lời khai của hai đứa trẻ này đồng nhất, câu trước khớp câu sau, điểm nghi vấn còn nhiều, xin đại nhân phán quyết ràng.

                  Sắc mặt lão huyện lệnh hết tái lại đỏ bừng, lão luống cuống thưa:

                  - Tướng quân chí phải!

                  Rồi lão vỗ phách, sai người dẫn thằng bé ra rồi trách cứ nó cớ gì lại dối. Thoạt đầu thằng bé còn chối đây đẩy, sau khi huyện lệnh dọa đánh đòn, nó liền bật khóc kể bằng hết, ra cha mẹ nó vốn sống ở ven sông, thường xuyên tái diễn thủ đoạn này.

                  Nó và em từ biết bơi song vẫn cố tình đóng giả chết đuối để lừa người đến cứu. khi có người vớt lên, chúng liền lăn đùng ra ăn vạ, kêu người ta đẩy nó xuống sông, cặp vợ chồng họ Giả kia thừa cơ bắt vạ đòi bồi thường. Những người nhảy xuống cứu thường ngậm đắng nuốt cay, bấm bụng trách cứ mình đen đủi rồi bỏ tiền cho qua chuyện. ngờ hôm nay gặp phải đứa khó chơi như tôi, đòi kéo nhau lên nha môn bằng được. Đến nha môn mà cặp vợ chồng họ Giả kia cũng biết sợ, bởi lẽ phần đông người qua đường đều đinh ninh trẻ con biết gì mà dối, chứ đừng đến việc giở trò lừa gạt trắng trợn đến vậy.

      justify;" align="



                  Tôi chết lặng người khi nghe câu chuyện chúng kể, ngờ đời lại có loại cha mẹ dã man đến thế, nhưng thủ đoạn lừa đảo mới khiến tôi bất ngờ hơn cả.

                  Bùi Chiếu :

                  - Bây giờ chân tướng việc ràng, thuộc hạ của tôi vốn tốt bụng cứu người song lại bị vu cáo, hãm hại, quá thực oan uổng, mong đại nhân có phán quyết ràng, bản Tướng quân xin được đưa người về.

                  Lão huyện lệnh chắp tay bằng vẻ sượng sùng:

                  - Xin tùy ý Tướng quân!

                  Tôi liền lên tiếng:

                  - Thảo dân vẫn có lời muốn thưa.

                  Bùi Chiếu đưa mắt nhìn tôi, tôi nhanh nhẹn tiến lên với lão huyện lệnh:

                  - Ngài vừa , con người ta quen thói ích kỷ, ham sống sợ chết, thảo dân và đứa trẻ vốn quen biết, thảo dân cũng biết bơi, cớ gì lại lao xuống cứu nó, há chẳng phải chột dạ? Xin thưa, ngài sai rồi! Thảo dân liều mình cứu đứa bé, bởi nó tuổi hơn thảo dân rất nhiều. Bảo vệ trẻ , cứu người nguy nan vốn là những đạo lý nhân nghĩa ở đời. Thảo dân cũng ham sống sợ chết như ai, nhưng ngờ đời này lại có kẻ thấy người sắp chết ngay trước mắt mà lại ngoảnh mặt làm ngơ, ra tay cứu giúp. Thoạt đầu đại nhân hồ đồ phán quyết phạt tiền thảo dân, há chẳng phải răn đe những tấm lòng hảo tâm trong thiên hạ chớ nên lo chuyện bao đồng, sau này liệu còn ai dám đứng ra hành hiệp trượng nghĩa, cứu nhân độ thế nữa? Thảo dân dám nhận mình làm chuyện gì lớn lao, nhưng dám rằng, thảo dân thẹn với lòng mình. để ngài , mặc dù lần này may gặp phải bọn lừa đảo, nhưng nếu lần sau gặp lại chuyện này, thảo dân vẫn ưu tiên cứu người!

                  rồi tôi liền quay phắt người bước , dân chúng đứng xem xử án nãy giờ vỗ tay rầm rầm, có người còn gọi với theo tôi hoan hô hỉ hả.

                  Mặt tôi hớn hở, dương dương tự đắc, chắp tay cảm tạ những người vỗ tay cổ vũ mình.

                  Bùi Chiếu ngoảnh lại nhìn, tôi bèn lè lưỡi, đoạn rảo bước theo gã.

                  ra gã cưỡi ngựa đến, tôi nom con ngựa ấy thần thái sáng sủa, ưa nhìn, cầm được xao lòng:

    4. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

      - Bùi Tướng quân, cho ta mượn ngựa cưỡi lúc nhé?

                  Kể từ lúc ra khỏi công đường, Bùi Chiếu tỏ ra lễ độ hơn hẳn:

                  - Bẩm công tử, con ngựa này tính tình ương ngạnh, mạt tướng chọn con ngựa khác để người cưỡi…

                  Lời chưa dứt, tôi liền tung người nhảy phắt lên yên ngựa, con ngựa vểnh tai khẽ hí, rồi ngoan ngoãn để tôi cưỡi. Bùi Chiếu , giọng thảng thốt:

                  - Công tử bản lĩnh, tính khí con ngựa này ương bướng, khó chiều, người bình thường đành bó tay chịu thua. Ngoại trừ mạt tướng ra, nó để ai lại gần.

                  - Con ngựa này do người Tây Lương chúng ta tiến cống. – Tôi vỗ vào gáy ngựa, rồi vuốt ve cái bờm dài mướt của nó, thể lòng thương vô hạn. – Hồi ở Tây Lương, ta cũng có con ngựa rất ngoan, bây giờ chắc tầm bảy tuổi.

                  Bùi Chiếu sai người dắt thêm hai chú ngựa nữa, nhường cho A Độ, để mình tự cưỡi. Thấy gã phi thân lên ngựa, tôi khỏi thốt lên tán thưởng. Đàn ông Tây Lương chúng tôi rất coi trọng bản lĩnh khi ở lưng ngựa, nom dáng dấp vừa rồi của Bùi Chiếu, tôi biết gã là kẻ có tài.

                  Phố phường đông đúc, ngựa phi nhanh được, tôi đành giữ cương thong dong tiến dần về phía trước. Thượng Kinh phồn hoa, náo nhiệt dưới sắc trời thu trong xanh, người qua người lại đông như mắc cửi, Bùi Chiếu định rong ngựa theo sau tôi và A Độ, nhưng con ngựa tôi cưỡi gần gã bấy lâu, nỡ nhanh, chẳng mấy chốc chúng tôi ngang hàng. Tôi thở vắn than dài:

                  - Hôm nay ta mới được mở rộng tầm mắt, chẳng ngờ đời này lại có loại cha mẹ như vậy, còn lừa đảo trắng trợn thế nữa chứ!

                  Bùi Chiếu khẽ cười, :

                  - Lòng người nham hiểm khó lường, sau này công tử ắt phải đề cao cảnh giác.

                  - Nhưng ta biết phải đề phòng thế nào. – Tôi . – Tính cách người Thượng Kinh quá phức tạp, mà con Tây Lương ai nấy như , vui vẻ hay đều hiển mặt, bảo ta phải bắt chước người Thượng Kinh, thà giết ta còn hơn.

                  Bùi Chiếu vẫn cười nhạt nhẽo.

                  Thấy mình lỡ miệng, tôi liền vồn vã bổ sung:

                  - Nhưng Bùi Tướng quân khác, ngươi là người tốt, ta nhìn là biết.

                  - Công tử quá khen rồi!

                  Lúc ấy có cơn gió lùa, quần áo người tôi vốn ướt nhẹp, vừa nãy nhùng nhằng ở nha môn cũng khô được phần nào, nhưng áo trong vẫn ẩm. Cơn gió lạnh buốt thổi qua, tôi kìm được cơn hắt xì.

                  Bùi Chiếu :

                  - Trước mặt có quán trọ, nếu công tử chê, mạt tướng xin giúp công tử mua vài bộ y phục, thay bộ đồ khô ráo rồi hãy tiếp có được ạ? Tiết trời này mặc đồ ẩm chỉ e ốm.

                  Sực nhớ A Độ cũng ướt sũng từ trong ra ngoài, tôi liền đồng ý.

                  Bùi Chiếu đưa chúng tôi đến quán trọ, thuê gian nhà , bẵng lúc, đích thân mang hai bọc quần áo bước vào, :

                  - Mạt tướng cho đám người theo mình lánh chỗ khác, tránh bọn họ nhòm ngó lung tung. Xin hai vị cứ tự nhiên, mạt tướng ở ngay bên ngoài, có gì xin cứ truyền gọi.

                  bước ra ngoài, tiện tay khép cửa lại. A Độ cài then cẩn thận xong, chúng tôi mới mở bọc quần áo ra xem, từ áo trong đến áo ngoài, thậm chí giày, tất đều được gấp gọn gàng và mới tinh. Chúng tôi thay bộ đồ khô ráo, A Độ giúp tôi chải lại tóc. Giờ thoải mái rồi.

                  Tôi mở cửa, gọi:

                  - Bùi Tướng quân!

                  Bên ngoài là dãy mái hiên, Bùi Chiếu đứng ở tận đầu hành lang. Mới lát gặp, gã thay sang bộ thường phục, tóc vấn gọn gàng, trông càng đậm nét thư sinh. Gã quay mặt về phía cửa sổ, chắc lặng ngắm phố phường. Nghe tiếng tôi gọi, Bùi Chiếu liền ngoái lại, nhìn tôi và A Độ thoáng vẻ ngẩn ngơ.

                  Bụng bảo dạ chắc gã thả hồn đâu đó, ánh mắt trông có vẻ thất thần, nhưng chỉ thoáng, gã nhanh chóng nhìn lảng nơi khác, mặt hơi cúi xuống:

                  - Mạt tướng hộ tống công tử trở về.

                  - Đợi mãi mới có cơ hội lẻn ra ngoài, bây giờ ta chưa muốn về!

                  Tôi nhoài mình ra cửa sổ, ngắm con phố sầm uất trải dài tăm tắp.

                  - Chúng ta uống rượu , ta biết quán rượu ngon, uống lắm.

                  - Tại hạ còn có nhiệm vụ khác phải làm, mong công tử thứ lỗi, xin công tử mau mau quay về.

                  - Hôm nay có phải ca trực của ngươi đâu, thế nên hôm nay ngươi phải là Kim ngô tướng quân, mà ta cũng chẳng phải Phi phi gì cả. Huống hồ, bữa nay ta đen đủ đường, suýt chết đuối, lại bị lão quan huyện vu oan giáng họa suýt hại chết ta nữa… Giờ phải làm vài chén an ủi, bứt rứt, khó chịu lắm.

                  Bùi Chiếu thưa:

                  - Vì an toàn của công tử, xin công tử theo mạt tướng quay về.

                  Tôi hậm hực, rạp mình bệ cửa sổ, thèm để ý nữa. Bụng tự nhiên réo ùng ục, tôi sực nhớ từ sáng tới giờ chưa có gì lót dạ, bụng tôi lép kẹp tưởng như da bụng dán vào da lưng. Mặt Bùi Chiếu thoắt đỏ, chắc cũng biết cái bụng tôi sôi réo rồi đấy. Gã đứng cách tôi đến vài bước chân, nhờ ánh sáng lọt qua cửa sổ rọi lên khuôn mặt gã, tôi có thể nhìn mồn .

                  Từ bé tới giờ chưa gặp nam tử đại trượng phu nào đỏ mặt, tự nhiên tôi thấy hay hay, là lạ, liền cười, bảo:

                  - Nào Bùi Tướng quân, bây giờ ngươi có tình nguyện đưa ta ăn ?

                  Bùi Chiếu thoáng tần ngần rồi thưa:

                  - Xin vâng!

                  Giọng điệu khách sáo, xa cách của gã khiến tôi lấy làm khó chịu. Có lẽ vì gã từng cứu tôi hai lần nên thực lòng tôi thấy cảm kích.

                  Tôi và A Độ dẫn Bùi Chiếu băng qua con ngõ hẹp, sau mấy khúc ngoặt mới đến được quán rượu của Mễ La.

                  Thấy tôi đến, Mễ La niềm nở chạy ra đón tiếp, mắt cá chân đeo chuông vàng ngân nga theo mỗi bước , thậm chí chạm hoa tai leng keng đệm nhạc. Mễ La ôm tôi, cười :

                  - Tỷ phần đệ hai hũ rượu ngon rồi đấy!

                  Mễ La liếc mắt nhìn Bùi Chiếu đứng sau A Độ, người ngoài thoạt nhìn cặp mắt xanh biếc của Mễ La luôn có cảm giác ngần ngại, sợ hãi, thế mà Bùi Chiếu vẫn bình thản như . Sau này tôi nghĩ, nhà họ Bùi cũng là thế gia vọng tộc ở Thượng Kinh, ắt gặp nhiều biết nhiều. Thượng Kinh vốn sầm uất, phố thiếu gì con người Hồ [7] bán rượu, Bùi Chiếu hẳn có thấy cũng lấy làm lạ.

                  [7] Người Hồ theo nghĩa hẹp dùng để chỉ các sắc dân ngoại lai tại Trung Á và Tây Á.

                  Quán rượu này chỉ có rượu ngon mà món thịt bò cũng đậm đà, vừa miệng. Mễ La sai người thái cân thịt bò cho chúng tôi nhắm rượu. Chúng tôi vừa vào, ngồi chưa ấm chỗ trời bất chợt đổ mưa.

                  Trời thu trút nước, dai dẳng, đập lên ngói trúc mái nhà. Bàn kế bên có vài vị khách là thương nhân Ba Tư, lúc bấy giờ lấy ra ống sáo bằng sắt, tiếng sáo dìu dặt cất lên, bắt đầu giai điệu kỳ lạ, hòa cùng tiếng nước vỡ òa mái hiên, tạo thành nhịp điệu da diết khó thành lời.

                  Mễ La nghe thấy tiếng sáo liền đặt phịch hũ rượu xuống, nhảy vọt lên bàn, nhón chân trần nhảy múa. Dáng tỷ mềm mại, khêu gợi, buông lơi như cơ thể xương trong khúc nhạc, kiều sao tả xiết. Tiếng chuông vàng dưới mắt cá chân, cườm tay tựa cơn mưa rào, đắm chìm trong điệu của sáo, lại gợi hình ảnh về con rắn vàng mải mê uốn lượn. Đám thương nhân Ba Tư vỗ tay tán thưởng, Mễ La sàng trườn xuống bên bàn, bắt đầu những điệu quay tròn đu đưa, vây lấy ba người chúng tôi.

                  Xa Tây Lương bấy lâu, lúc này tôi mới được cười thoải mái. Động tác của Mễ La uyển chuyển, nhịp nhàng tựa dải lụa quấn quýt lấy thân tôi, rồi lại tung tăng, dập dờn vờn quanh như cánh bướm. Tôi bắt chước tỷ ấy, tay cũng hòa với nhạc đệm múa máy kiểu này kiểu nọ, ngặt nỗi cơ thể dẻo dai bằng tỷ ấy. Mễ La xoay vài vòng, A Độ lấy trong áo ra cây kèn tất lật [8] đưa cho tôi, tôi mừng quýnh, cũng làm vài điệu góp vui.

                  [8] Tất lật: loại kèn đằm có ba lỗ, miệng kèn mạ vàng, hay còn gọi là kèn pili.

                  Lái buôn người Ba Tư thấy tôi thổi kèn liền vỗ tay bắt nhịp. Thổi được bài, thịt bò đĩa dậy mùi thơm phức, tôi liền dúi chiếc kèn vào tay Bùi Chiếu:

                  - Ngươi thổi ! Thổi !

                  Thế rồi tôi cầm đũa, mau chóng ngốn đồ ăn.

                  Chẳng ngờ Bùi Chiếu những biết thổi kèn mà còn thổi rất hay. Tiếng kèn vốn dìu dặt mà có vẻ đau thương, tiếng sáo kia lại lanh lảnh, mãnh liệt, hai loại nhạc khí hòa quyện rất nhịp nhàng. Mở đầu, tiếng kèn của Bùi Chiếu họa theo tiếng sáo, về sau, tiếng sáo của thương nhân người Ba Tư dần hòa quyện với tiếng kèn. Giai điệu du dương chuyển sang sục sôi, hùng dũng, như thể mây mù đặc quánh đại mạc bao la của Ngọc Môn Quan [9] , xa xăm có tiếng lục lạc, đoàn lạc đà xuất cồn cát. Tiếng lục lạc đong đưa càng lúc càng gần, gần kề đến mãnh liệt, thế rồi cửa ải hiểm yếu đột nhiên rộng mở, thiên binh vạn mã phất cờ dàn trận, tiếng gào thét, tiếng vó ngựa, khiên giáp va chạm bật thành tiếng, tiếng gió, tiếng thở ra, hít vào… Vô số thanh hòa thành chương nhạc ngùn ngụt đất trời, cuồn cuộn kéo đến. Mễ La múa mỗi lúc nhanh, rong đuổi theo nhịp điệu mỗi lúc tăng, lượn vòng tựa cánh thiêu thân lấp lánh ánh vàng, điệu múa xoay tròn của tỷ ấy khiến tôi xây xẩm.

                  [9] Ngọc Môn Quan thuộc tỉnh Cam Túc ngày nay, là trạm biên giới xa nhất về phía tây của Trung Hoa lúc đó. Tên Ngọc Môn Quan là do tất cả đá ngọc sản xuất ở Hòa Diên, Tân Cương thời xưa đều phải qua cửa ải này.

                  điệu mỗi lúc thê lương, gợi nhớ cánh diều hâu chao lượn tầng trông xuống thiên binh vạn mã dưới sa mạc, nó càng bay càng cao, bay cao mãi, gió rít gào thốc dậy bụi mù… Bao giờ tôi kễnh bụng vì no, chắc con diều hâu ấy bay vút lên đỉnh núi tuyết cao tít rồi cũng nên, tuyết liên [10] đỉnh núi bung nở, diều hâu sải cánh vút qua. Có chiếc lông vũ bứt khỏi thân chim, phiêu bồng theo gió, gió đặt chiếc lông chim nằm kề bên bông tuyết liên. Nhánh lông vũ đáp xuống tuyết, bị gió vùi trong tuyết. Cánh tuyết liên mơn mởn khẽ rung rinh. Gió bụi vạn dặm như lắng mình tĩnh lặng nơi đỉnh núi…

                  [10] Tuyết liên, hay còn gọi là hoa sen tuyết, loại sen quý hiếm trong tự nhiên, chỉ mọc các vách núi đá phủ đầy tuyết.

                  Tiếng sáo, tiếng kèn bỗng im bặt, trong quán trầm lặng đến nỗi tiếng giọt ranh ngoài hiên vọng vào nghe mồn . Mễ La nằm mọp bàn thở dốc, đôi mắt xanh biếc như chực tuôn trào dòng nước, tỷ ấy bảo:

                  - Ta thể tiếp tục được nữa!

                  Đám thương nhân Ba Tư cười ồ, có người rót chén rượu, đưa cho Mễ La. Lồng ngực vẫn phập phồng, Mễ La uống hơi cạn chén rượu, đoạn quay sang, cười tươi với Bùi Chiếu:

                  - Huynh thổi kèn rất hay!

                  Bùi Chiếu đáp lời, chậm rãi lau sạch cây kèn bằng rượu, sau đó giao lại cho tôi.

                  Tôi :

                  - khó tin, hóa ra ngươi cũng biết thổi kèn, chẳng mấy người Thượng Kinh biết trò này đâu.

                  Bùi Chiếu đáp:

                  - Cha mạt tướng từng sứ đến Tây Vực, trong số nhạc khí đem về có kèn tất lật, hồi , mỗi lần rỗi rãi, mạt tướng thường tự học thổi kèn.

                  Tôi vỗ tay rồi cười, :

                  - À, ta biết, cha ngươi là Đại tướng quân Bùi Huống dũng mãnh. Cha ta và Bùi lão Tướng quân từng giao đấu phen, cha ta cũng khen tài dụng binh của Bùi lão Tướng quân.

                  Bùi Chiếu :

                  - Khả hãn quá khen rồi!

                  Tôi bảo:

                  - Cha ta tùy tiện khen người khác bao giờ đâu, cha ta khen cha ngươi là bởi ông ấy biết đánh trận thực .

                  Bùi Chiếu :

                  - Vâng!

                  câu “vâng” của làm tôi tụt hứng ngay tức . May mà nhóm người Ba Tư lại bắt đầu ca hát, giai điệu du dương, thăm thẳm như chạm vào nỗi lòng người nghe. Mễ La uống thêm chén rượu, biết chúng tôi hiểu ý nghĩa của ca từ, tỷ ấy khẽ hát lại bằng giọng phổ thông ngọng líu ngọng lô. ra, đám thương nhân ấy hát rằng:

                  “Trăng kia vằng vặc

                  Rọi khắp quê ta

                  Trăng tròn rồi khuyết

                  Chưa thấy quê nhà.

                  Sao kia lấp lánh

                  Chiếu khắp cố hương

                  Sông Ngân rực rỡ

                  Khó về quê hương.

                  Gió kia dìu dịu

                  Thổi khắp quê ta

                  Vầng dương lộng lẫy

                  Tỏa khắp quê nhà.

                  Nào đâu ai biết

                  Chôn mình núi cao

                  Nào đâu ai biết

                  Chôn ta sông nào.”

                  Tôi cất lời, hát theo Mễ La, lòng khỏi bùi ngùi, nghe những người Ba Tư ấy hát mới buồn làm sao, bất giác tôi đưa tay cầm chén rượu uống cạn. Bùi Chiếu gật gù :

                  - Nỗi niềm nhớ quê hương ai mà chẳng có. Những thương nhân người Hồ này nhớ nhà đến vậy, cớ sao quay về?

                  Tôi thở dài:

                  - đời này đâu phải ai cũng giống ngươi, từ bé tới lớn phải xa xứ, bọn họ tha phương cầu thực, âu cũng là bất đắc dĩ thôi.

                  Bùi Chiếu thoáng đăm chiêu, thấy tôi rót đầy chén rượu, buột miệng bảo:

                  - Công tử uống nhiều rồi.

                  Tôi dõng dạc :

                  - Để giải ưu sầu chỉ có Đỗ Khang. [11]

                  [11] Dịch nghĩa: “Lấy gì giải sầu, chỉ có rượu mà thôi.” Câu thơ trích trong Đoản ca hành, thuộc Tương họa ca, Tào Tháo sáng tác bài thơ này trước khi lâm trận Xích Bích. Trong câu thơ, Tào Tháo ám chỉ rượu là Đỗ Khang. Đỗ Khang thường được xem là ông tổ nghề rượu.

                  Thấy Bùi Chiếu nhìn mình có vẻ kinh ngạc, tôi chìa ba ngón tay, :

                  - Đừng tưởng ta tài giỏi gì, thực ra ta thuộc tổng cộng có ba câu thơ, câu vừa nãy là trong ba câu đấy.

                  Nghe xong, bật cười.

                  Rượu Mễ La bán quả nhiên lợi hại. Hôm nay tôi uống hơi nhiều, lúc rời quán, mặt đất dưới chân mềm nhũn, cứ như vừa giẫm lên đụn cát sa mac. Ngoài trời gió mưa tầm tã, bóng chiều dần buông, mưa về giăng bụi, dềnh lên quầng trắng mịt mùng phương xa, mưa bụi giăng mờ thủy các [12] , cầu hoa đôi bờ sông đào, nhấn chìm mười vạn hộ dân trong tòa thành tĩnh mịch phủ làn hơi mưa. Gió rắc hạt mưa đậu lên gò má nóng ran, cảm giác mát lạnh, khoan khoái chợt ùa về, tôi chìa tay đón hạt mưa phùn li ti như bụi lưu ly sà xuống lòng bàn tay, mưa khẽ khàng chạm vào da thịt dậy cơn ngứa ngáy. Đốm lửa thấp thoáng, dập dờn từ nhà dân ở phía xa, tửu lâu, quán trà nơi lề đường phố thị chong đèn sáng trưng. Thân đò sông kịp khoác lên mình chuỗi chuỗi những đèn lồng đỏ, ánh lửa soi tỏ sợi khói tỏa lên từ bếp nhà, bảng lảng trong làn mưa rả rích.

                  [12] Thủy các: gác lầu làm mặt nước sông, hồ để ngồi thưởng ngoạn.

                  Thượng Kinh lất phất mưa bay đẹp tựa như tranh, dù họa sư [13] ở Tây Lương có tài năng đến mấy cũng thể mường tượng ra được cảnh sắc phồn hoa nơi này. Nơi đây giống như kinh đô của thiên hạ, thành trì tiên cảnh mà thần tiên ưu ái ban cho. Nơi đây là Thượng Kinh của thiên triều, là đô thị sầm uất, phồn thịnh, khắp thiên hạ đâu sánh bằng, Thượng Kinh khiến vạn nước thuần phục, vạn dân cảm mến, song tôi biết mình quên được Tây Lương. Thượng Kinh có đẹp đến mấy cũng phải là Tây Lương của tôi.

                  [13] Họa sư: tên gọi khác của từ “họa sĩ”, thường được gọi ở thời phong kiến, thường vẽ tranh trong cung đình.

                  Bùi Chiếu tiễn tôi đến cửa hông của Đông cung. Thấy chúng tôi lẩn được vào mới quay gót rời . Tôi ngà ngà say, chếnh choáng chỉ muốn nôn. A Độ vỗ vào lưng tôi, chúng tôi ngồi xổm trong hoa viên lúc lâu, hứng gió cho tỉnh táo phần nào rồi mới rón rén về cung.

                  Vừa đặt chân qua cửa, tôi sững người nhìn Vĩnh Nương đợi mình trong điện. Bà ấy nhìn tôi, tuyệt nhiên mắng tôi lại lẻn ra ngoài chơi lấy nửa câu, cũng trách móc mùi rượu người tôi nồng nặc, càng có ý kiến gì về bộ đồ nam tôi mặc, thay vào đó, bà ấy sầm nét mặt, hỏi:

                  - Thái tử phi có biết trong cung xảy ra chuyện rồi ?

                  Tôi tò mò hỏi:

                  - Xảy ra chuyện gì thế?

                  - Đứa con của Tự Nương… còn nữa rồi.

                  Tôi giật mình trong khi mặt mày Vĩnh Nương vẫn đanh lạnh, bà ấy chỉ :

                  - Nô tì vừa tự ý sai người tiến cung thăm hỏi Tự Nương rồi. Chỉ e chốc nữa Hoàng hậu vời Thái tử phi vào cung hỏi chuyện.

                  Tôi lấy làm lạ, bèn hỏi:

                  - Hoàng hậu muốn hỏi gì à?

                  - Hoàng hậu là người đứng đầu hậu cung, phàm khi hậu cung có chuyện, đương nhiên do Hoàng hậu phán xử. Đứng đầu Đông cung là Thái tử phi, bây giờ Đông cung xảy ra chuyện lớn, đương nhiên Hoàng hậu hỏi tới Thái tử phi.

                  Nhưng tôi gặp Tự Nương kia bao giờ đâu, hỏi tôi cái gì chứ?

                  Ngặt nỗi từ xưa đến nay Vĩnh Nương phán đâu trúng đó, bà ấy bảo Hoàng hậu vời tôi chắc chắn người của Hoàng hậu sắp đến rồi. Bây giờ người ngợm tôi thành ra nông nỗi này, sao dám gặp Hoàng hậu đây? Tôi lo đến cuống cuồng, nhảy cả lên:

                  - Mau! Mau lên! Ta phải tắm rửa! Mau sắc cho ta bát canh giải rượu đặc!

                  Cung nữ tất tả giúp tôi chuẩn bị, chưa bao giờ tôi lại nôn nóng muốn lao ngay vào nhà tắm như hôm nay. Nước nóng sẵn sàng, tôi liền nhảy bổ vào thùng, trầm mình trong làn nước. Thấy tôi cuống cuồng, Vĩnh Nương bảo:

                  - Giá mà hằng ngày Thái tử phi chịu tuân thủ nội quy trong cung bây giờ đâu đến nỗi “gặp nạn mới ôm chân Phật”?

                  Trước kia, tôi chẳng bao giờ để lọt tai những lời Vĩnh Nương , bây giờ phải công nhận câu “gặp nạn mới ôm chân Phật” quả nhiên đúng. Tôi :

                  - Ngày nào cũng phải tuân theo mấy nội quy ấy, khéo ta chết vì chán mất thôi. có gặp nạn mới nhớ tới Phật Tổ chứ! Phật Tổ ơi, xin ngày hãy phù hộ độ trì cho con!

                  Tuy Vĩnh Nương vẫn đanh nét mặt nhưng tôi biết bà ấy cố nhịn cười. Tôi giơ cánh tay ướt sũng khỏi thùng nước, kéo góc áo Vĩnh Nương, ;

                  - Vĩnh Nương à, ta biết bà là người tốt, hằng ngày bà vái Phật Tổ nhớ khấn hộ ta mấy câu nhé, đa tạ!

                  - A di đà phật! Há lại lấy Phật Tổ ra làm trò đùa! – Vĩnh Nương chắp tay trước ngực. – tội lỗi, tội lỗi!

                  Tuy ngoài miệng thế nhưng Vĩnh Nương vẫn nén được cười, đón bát canh giải rượu từ tay cung nữ, với tôi:

                  - Xin Thái tử phi mau uống, để nguội chua lắm đấy!

                  Canh giải rượu chua ngoét, tôi bịt mũi uống hơi hết sạch. Vĩnh Nương cắt đặt người xông hương y phục, tôi tắm rửa sạch , thay bộ quần áo mới. Vừa vấn xong mái tóc, chưa kịp cài trâm, khoác áo, cung nữ do Hoàng hậu phái đến chạm cổng Đông cung.

                  Tôi bảo Vĩnh Nương ngửi thử xem người tôi còn mùi rượu . Vĩnh Nương hít hà cẩn thận hồi, xịt thêm cả lọ dầu thơm lên người tôi xong, lại bảo tôi ngậm viên hương hoàn trắng như tuyết. Bỏ viên thuốc đắng ngắt vào miệng, quả nhiên hơi thở thơm mát hơn nhiều, hiệu nghiệm .

                  Bữa nay Hoàng hâu tuyên triệu cả tôi và Lý Thừa Ngân.

                  Mấy ngày gặp Lý Thừa Ngân, hôm nay gặp, thấy dường như lại cao thêm chút, chắc bởi hôm nay nhập cung nên đội thêm chiếc mũ tiến đức [14] , mặc lễ phục, mang cứu ngọc, thêm trang sức bằng vàng. bước thẳng lên xe, chẳng buồn liếc nhìn tôi lấy cái.

                  [14] Mũ mão ban cho cận thần ở thời nhà đời Đường.

                  Lúc triệu kiến Hoàng hậu, tôi mới hay ra Tự Nương bất ngờ đau bụng, ngự y chẩn đoán nguyên nhân là do uống nhầm thuốc trợ sản. Hoàng hậu bèn tống giam cả đám cung nữ hầu hạ Tự Nương, kế đó niêm phong toàn bộ thực phẩm, nước uống để Dịch đình lệnh [15] tiến hành kiểm tra. Cuối cùng điều tra ra cơm kê bị bỏ độc khiến Tự Nương sảy thai. Hiển nhiên Hoàng hậu nổi cơn lôi đình, hạ lệnh phải tìm cho ra nhẽ, về sau, có cung nữ chịu được hình phạt của Dịch đình lệnh nên thú nhận có kẻ xúi bẩy ả.

                  [15] Dịch đình lệnh là chức danh dành cho hoạn quan.

                  Vẫn lời lẽ mềm mỏng, Hoàng hậu từ tốn :

                  - , dẫu sao đứa con trong bụng Tự Nương cũng là cốt nhục đầu tiên của Thái tử, ta chỉ sợ mẹ con Tự Nương có bề nào nên mới đưa vào cung. Chẳng ngờ ngay trong cung, có ta ngồi đây mà kẻ khác vẫn ngang nhiên hãm hại mẹ con Tự Nương. Thiên triều ta hơn trăm năm nay, chưa từng để xảy ra chuyện hoang đường này!

                  Tuy Hoàng hậu với ngữ khí ôn hòa, nhàng nhưng ngôn từ lại nghiêm khắc, nặng nề. Chưa bao giờ tôi nghe Hoàng hậu như thế, bảo sao tôi dám thở mạnh. Mà chỉ tôi, tất cả những ai có mặt trong điện đều khúm núm, bọn họ nín thở nghe Hoàng hậu :

                  - Hai con có biết, cung nữ kia khai nhận kẻ nào sai khiến ả ?

                  Tôi đánh mắt liếc nhìn Lý Thừa Ngân, buồn nhìn tôi lấy cái, lãnh đạm trả lời:

                  - Nhi thần .

                  Hoàng hậu sai cung nữ:

                  - Đọc khẩu cung cho Thái tử và Thái tử phi cùng nghe.

                  Cung nữ dõng dạc đọc khẩu cung của cung nữ nọ, thoạt đầu tôi nghe bập bõm, cố nghe thêm vài câu nữa liền luýnh quýnh phân trần:

                  - Bẩm Hoàng hậu, việc này phải do con làm! Con hề sai người mua chuộc ả hạ độc Tự Nương.

                  Hoàng hậu lạnh lùng phán rằng:

                  - tại nhân chứng, vật chứng đều đủ, con phải mình làm, vậy có chứng cớ gì ?

                  ràng tôi bị người ta vu oan, tôi :

                  - Cớ gì con phải hạ độc mẹ con Tự Nương? Con và Tự Nương hề quen biết, cũng chưa từng gặp gỡ, vả lại, từ lúc Tự Nương nhập cung, thị ở đâu, con cũng biết…

                  Thực tôi bị oan! Chẳng hiểu tai bay vạ gió ở đâu lại bị kẻ khác vu oan giáng họa thế này.

                  Hoàng hậu hỏi Lý Thừa Ngân:

                  - Ngân Nhi, con thấy thế nào?

                  Lý Thừa Ngân liếc tôi cái rồi quỳ xuống, thưa:

                  - Xin tùy mẫu hậu định đoạt.

                  Hoàng hậu :

                  - Tuy Thái tử phi có thân phận đặc biệt, lại là công chùa của Tây Lương, nhưng vì nhất thời hồ đồ mà gây ra chuyện lớn này, xem ra thích hợp làm chủ Đông cung nữa.

                  Lý Thừa Ngân lẳng lặng làm thinh.

                  Tôi ức quá, toàn thân run rẩy:

                  - Chuyện này phải con làm, con thà chết chứ nhận, kể cả mấy người giết con cũng vậy thôi! Đông cung với Tây cung gì chứ, con chẳng thiết, nhưng con quyết để kẻ khác vu oan giáng họa cho mình!

                  Hoàng hậu :

                  - Khẩu cung ở ngay đây. Ngân Nhi, con xem?

                  Lý Thừa Ngân thưa:

                  - Xin tùy mẫu hậu định đoạt.

                  Hoàng hậu khẽ cười, bảo:

                  - ngày phu thê, trăm năm ân nghĩa, con nể tình vợ chồng bấy lâu nay sao?

                  Lý Thừa Ngân chùng giọng, :

                  - Nhi thần đành, nhưng quốc có quốc pháp, gia có gia quy, nhi thần dám vì tình riêng mà bất chấp.

                  Hoàng hậu gật gù :

                  - Được, được lắm! Quốc có quốc pháp, gia cho gia quy. hay lắm!

                  Vẻ tươi cười gương mặt Hoàng hậu chợt vụt tắt.

                  - Phế Triệu Lương đệ xuống làm thường dân, lập tức trục xuất khỏi Đông cung!

                  Tôi giật mình sửng sốt, Lý Thừa Ngân mặt mày tái mét như thể bị sét đánh:

                  - Mẫu hậu!

                  - Khẩu cung vừa rồi quả thực sai dù chỉ chữ, hiềm nỗi sau khi khai xong, cung nữ kia cắn lưỡi tự vẫn. Đừng tưởng chết là hết nhân chứng. Dịch đình lệnh mất rất nhiều công sức để điều tra, hóa ra trước kia, cung nữ này từng chịu ơn nhà họ Triệu. Tội ả đáng phải tru di cửu tộc, nhưng truy ra mới biết, ả có họ hàng thân thích, trừ người mẹ nuôi, Dịch đình lệnh vừa tìm được trăm đĩnh bạc trong hầm đất nhà ả, trăm đĩnh bạc này đều là tiền của công, mở sổ khắc tra được ngay… Sau khi bắt giam và dùng hình đối với bà mẹ nuôi kia, bà ta khai rằng Triệu Lương đệ từng sai người đến nhà mình. Chiêu này của Triệu Lương đệ mũi tên trúng hai đích, lại gắp lửa bỏ tay người. Kẻ lòng lang dạ sói như thế đáng hận. Cứ tiếp tục dung túng ả, chẳng phải đẩy hoàng tộc ta đến bờ tuyệt tự hay sao?

                  Tôi chưa kịp hiểu rốt cuộc Hoàng hậu thế nghĩa là gì Lý Thừa Ngân cướp lời:

                  - Xin mẫu hậu nguôi giận, nhi thần nghĩ, chuyện này ắt hẳn có kẻ gài nẫy hãm hại Triệu Lương đệ, cần phải cho người từ từ truy cứu. Xin mẫu hậu bớt nóng giận, kẻo ảnh hưởng đến ngọc thể.

                  còn đỡ, mở miệng là đổ thêm dầu vào lửa.

                  - Quả nhiên ả hồ ly tinh ấy làm con mụ mị đầu óc mất rồi! Trước kia vì chuyện Tự Nương mang thai mà ả Triệu Lương đệ này làm ầm ĩ trận, bây giờ lại mua chuộc người hãm hại Tự Nương! Chưa kể ả còn vu oan giáng họa cho Thái tử phi, có tội khắc phải nghiêm trị!

                  Lý Thừa Ngân luýnh quýnh :

                  - Xin mẫu hậu nguôi giận, nhi thần biết Triệu Lương đệ tuyệt đối phải loại người đó, mong mẫu hậu minh xét.

                  - Minh xét cái gì? Đứa con trong bụng Tự Nương nào có gây tổn hại đến ai? Vậy mà ả lại xem như cái gai trong mắt! Loại người như ả sống trong Đông cung chính là mầm mống đại họa của quốc gia! – Hoàng hậu càng càng gay gắt. – Vừa rồi, ta đưa khẩu cung của cung nữ kia ra, con biện bạch hộ Thái tử phi lấy nửa lời, giờ ta với con chân tướng việc, con lại liếng thoắng ả hồ ly kia bị oan. Bây giờ con là Thái tử, sau này làm vua, sao lại thiên vị tình riêng đến vậy? Con cứ như thế, làm sao có thể trị vì đất nước! Loại mầm mống này tất phải diệt trừ. giết ả, chỉ e sau này con bị mê hoặc đến độ bỏ bê thiên hạ!

                  Lý Thừa Ngân sợ xanh mặt, tôi đành quỳ xuống, thưa:

                  - Xin mẫu hậu bớt giận, Triệu Lương đệ nhất thời hồ đồ, nếu xử Triệu Lương đệ tội chết, chỉ e… e là…

                  Vế sau tôi biết phải thế nào, Lý Thừa Ngân liền tiếp lời:

                  - Xin mẫu hậu cân nhắc, cha và đại huynh của Triệu Lương đệ đều là cận thần trong triều, được phụ hoàng trọng dụng, xin mẫu hậu cân nhắc.

                  Hoàng hậu cười gằn:

                  - Chính con vừa , quốc có quốc pháp, gia có gia quy, con dám vì tình riêng mà bất chấp!

                  Mặt mày Lý Thừa Ngân tái xám, chết trân, miệng chỉ thốt được câu:

                  - Mẫu hậu!

                  Hoàng hậu :

                  - Chuyện Đông cung đáng lý phải do Thái tử phi xử lý. Ta bao biện làm thay, âu cũng là bất đắc dĩ, song loại người lòng dạ độc ác này, ta đành phải giải quyết vậy.

                  đoạn, Hoàng hậu liền sai cung nữ truyền lệnh. Tôi thấy tình căng thẳng, bèn ôm gối Hoàng hậu, thưa:

                  - Mẫu hậu cho phép con vài lời được ạ? Mẫu hậu , chuyện Đông cung do con toàn quyền quyết định, con biết xưa nay mình chểnh mảnh nhưng hôm nay xin mẫu hậu cho con được thưa vài lời.

                  Dường như Hoàng hậu nguôi ngoai phần nào:

                  - Con !

                  - Điện hạ lòng mến Triệu Lương đệ, nếu mẫu hậu xử Triệu Lương đệ tội chết, chỉ e cả đời này Điện hạ buồn bã thôi. – Tôi rối ruột quá nên câu cú lộn xộn. – Nhi thần và Điện hạ kết nghĩa phu thê ba năm, dẫu được Điện hạ quý nhưng con vẫn biết, Điện hạ thể sống thiếu Triệu Lương đệ. Bây giờ Triệu Lương đệ phải chết, Điện hạ càng căm ghét con. Hơn nữa, có rất nhiều việc con cáng đáng được, đều do tay Triệu Lương đệ vun vén, như sổ sách của Đông cung, con hiểu đành giao cả cho Triệu Lương đệ. Nếu có Triệu Lương đệ, Đông cung thể yên ổn như ngày hôm nay…

                  Tôi luống cuống biết phải tiếp thế nào, bèn quay ra gọi Vĩnh Nương:

                  - Vĩnh Nương, bà giải thích với Hoàng hậu giúp ta!

                  Vĩnh Nương kính cẩn thưa “vâng” rồi dập đầu, :

                  - Bẩm nương nương, ý Thái tử phi muốn , Triệu Lương đệ hầu hạ Thái tử bao năm, dẫu bỏ công cũng bỏ sức. Vả chăng hằng ngày Triệu Lương đệ đối nhân xử thế ôn hòa, đối với Thái tử phi mực tôn kính, lại dốc sức trợ giúp Thái tử phi quản lý Đông cung, xin nương nương niệm tình Triệu Lương đệ nhất thời lầm lỡ mà mở lòng khoan dung.

                  Hoàng hậu từ tốn :

                  - , cũng khó giữ Triệu Lương đệ lại được, giữ ả lại chính là mầm họa của Đông cung. Xưa kia, tại đại lễ sắc phong Thái tử phi, Hoàng thượng từng , dâu hiền con thảo quả thực là phúc của hoàng tộc ta. Các con thành hôn ba năm, chỉ hiềm đến nay vẫn chưa có mụn con nỗi dõi, bây giờ lại xảy ra chuyện của Tự Nương, khiến ta phiền não.

                  Lý Thừa Ngân dán mắt nhìn xuống sàn nhà, lí nhí :

                  - Nhi thần bất hiếu!

                  Hoàng hậu :

                  - Nếu con thực lòng muốn báo hiếu, vậy tranh thủ dành thời gian gần gũi Thái tử phi, tránh xa ả tiện nhân kia ra.

                  Lý Thừa Ngân khẽ dạ:

                  - Vâng ạ!

                  Mình nên gì nữa nhỉ? Vĩnh Nương quỳ phía sau cứ kéo váy tôi mãi, ý dặn tôi chớ nên nhiều lời. Khóe môi Lý Thừa Ngân hơi giật giật, song vẫn thốt ra lời nào.

                  Hoàng hậu :

                  - Đứng dậy cả !

                  Nhưng Lý Thừa Ngân cứ chết trân ở đó, tôi cũng đành đứng dậy.

                  Hoàng hậu buồn nhìn lấy cái, song vẫn bảo:

                  - Chuyện Tự Nương, con đừng quá đau buồn, dẫu sao các con vẫn còn trẻ.

                  Lý Thừa Ngân lặng thinh, tôi nghĩ bụng, đau buồn cái nỗi gì, nếu có đau buồn, âu cũng là vì Triệu Lương đệ.

                  Hoàng hậu lại :

                  - Tự Nương đúng là đáng thương, sau này phong nàng ta làm bảo lâm [16] vậy.

                  [16] Bảo lâm là danh hiệu dành cho thiếp của thái tử, địa vị đứng sau Thái tử phi và lương đệ.

                  Lý Thừa Ngân có vẻ ngán ngẩm trong lòng:

                  - Nhi thần đồng tình… Nhi thần còn trẻ, ngự thể [17] tại Đông cung còn nhiều, nhi thần cảm thấy tương xứng.

                  [17] Ngự thể là tên gọi chung của các thị thiếp của nhà vua.

                  Tôi biết từng hứa với Triệu Lương đệ nạp thêm bất kỳ thê thiếp nào nữa, hèn gì quả quyết thế. Hoàng hậu lại nổi giận đùng đùng, :

                  - Tương lai con làm hoàng đế, cớ gì mà lại nông cạn, hời hợt thế?

                  Hoàng hậu chuyển sang tôi, :

                  - Thái tử phi đứng dậy , con giúp ta thăm nom, an ủi Tự Nương mấy câu.

                  Tôi có phải kẻ ngố đâu, cũng ý người muốn xua tôi để giáo huấn Lý Thừa Ngân. Tôi bèn đứng dậy, hành lễ rồi cáo lui.

                  Tiểu Hoàng môn [18] dẫn tôi đến ngự hoa viên vắng lặng, nơi Tự Nương ở, lúc này tôi mới được gặp người con tên Tự Nương ấy. ấy nằm giường, thần sắc võ vàng, song che giấu được nét mỹ miều vốn có. Nghe cung nữ hầu hạ bẩm báo: “Thái tử phi tới!”, ấy liền lóp ngóp bò dậy. Vĩnh Nương theo sau tôi vội vàng tiến lên, ấn Tự Nương nằm xuống.

                  [18] Tiểu hoàng môn là chức quan trong cung, thường là hoạn quan.

                  Tôi cũng chẳng biết phải an ủi ra sao, đành bắt chước Hoàng hậu, :

                  - Muội đừng quá đau buồn, dẫu sao muội vẫn còn trẻ…

                  Mắt Tự Nương ngấn lệ, :

                  - Đội ơn Thái tử phi, nô tì phúc phận bạc bẽo, giờ chỉ mong được chết.

                  Tôi ngượng ngập :

                  - Thực ra… có gì đâu mà cứ đòi chết thế! Muội xem, phải ta vẫn sống vui vẻ…

                  Tôi nghe Vĩnh Nương đằng hắng tiếng, biết ngay mình lại sai mất rồi. Tôi hỏi để lấp liếm:

                  - Muội muốn ăn gì ? Ta bảo người làm rồi đem đến.

                  Đợt trước tôi ốm liệt giường, Hoàng hậu cũng phái người đến thăm và thường xuyên hỏi tôi thèm ăn món gì, có thiếu thốn gì . Thực ra Đông cung thiếu gì chứ! Chắc người ta thường dùng những câu như vậy để tỏ ý quan tâm. Tôi biết nên thăm hỏi người ốm thế nào, đành bắt chước theo khuôn sáo ấy.

                  Tự Nương thưa:

                  - Đội ơn Thái tử phi!

                  Tôi trông dáng vẻ tê tái của Tự Nương, dường như có phần âu sầu, ngán ngẩm. Sau vẫn để Vĩnh Nương tiếp lời, tuôn tràng những câu an ủi. Tự Nương liên tục đưa tay gạt nước mắt, lúc chúng tôi ra về, ấy vẫn còn thút thít.

                  Tôi và Vĩnh Nương quay về cung, bấy giờ Hoàng hậu sai người soạn chiếu sắc phong bảo lâm. Mặt mũi Lý Thừa Ngân xầm xì như đeo đá, Hoàng hậu tới đoạn:

                  - Đông cung trước nhất phải hòa thuận, ấm êm. Tính tình Thái tử phi còn nông nổi, bồng bột, nhiều khi thiếu chu toàn, có thêm người trợ giúp âu cũng là ý hay.

                  Người ngước lên, thấy tôi bước vào, liền vẫy tay ra hiệu. Tôi bước lại gần, hành lễ với người, người để cung nữ hầu cận dìu tôi dậy, mà đích thân vươn tay đỡ tôi đứng lên. Khi ấy tôi quả vừa mừng vừa lo. Thường ngày, Hoàng hậu vốn đoan trang, quý phái, chẳng mấy khi thân mật thế này.

                  - Còn Triệu Lương đệ, tội chết có thể miễn nhưng tội sống khó tha. – Hoàng hậu lạnh nhạt . – Phế thành thường dân, giam lỏng ba tháng, Thái tử được phép thăm nom, bằng ta hạ chỉ trục xuất ả khỏi Đông cung.

                  Tôi để ý thấy khóe mắt Lý Thừa Ngân giật liên hồi, song vẫn cúi gằm mặt, ủ rũ lên tiếng:

                  - Vâng ạ!

                  Vừa rời cung, Lý Thừa Ngân giáng thẳng vào mặt tôi cái bạt tai. Bấy giờ tôi mải lơ đễnh, bất thình lình bị ăn tát liền đờ đẵn như trời trồng.

                  A Độ tuốt dao nhảy vọt lên, sau tiếng soạt nhanh như cắt, lưỡi đao sắc lẹm kề cổ hẳn. Vĩnh Nương giật mình gào toáng lên:

                  - được!

                  để Vĩnh Nương dứt câu, tôi vả lại Lý Thừa Ngân cái thương tiếc. Tuy mù mịt khoản võ công nhưng tôi phải kẻ dễ chọc, dám đánh tôi, đương nhiên tôi phải đánh trả!

                  Lý Thừa Ngân buông tiếng cười khẩy, chỉ thẳng vào tôi, :

                  - Có giỏi giết ta ! là loại đàn bà nham hiểm, ta biết chính là kẻ đầu trò! gài bẫy khử đứa con trong bụng Tự Nương, đồng thời hãm hại Sắt Sắt.

                  Người tôi run lên vì tức, tôi đáp lại ngay:

                  - Điện hạ dựa vào đâu mà dám vậy?

                  - luôn giả vờ đáng thương, làm bộ làm tịch trước mặt mẫu hậu, lại còn giả ngơ! Đừng tưởng ta biết, chính mách lẻo với mẫu hậu, bảo ta hắt hủi . Vì ghen với Sắt Sắt nên bày trò hãm hại nàng ấy, con người độc địa hơn tất thảy loài rắn độc thế gian này! Bây giờ vừa lòng rồi chứ! ràng muốn tống cổ Sắt Sắt, muốn chia cắt bọn ta! Nếu Sắt Sắt có mệnh hệ gì, đừng hòng ta tha cho . Ta để biết, chỉ cần ta đăng cơ hoàng đế, ta phế truất ngay lập tức!

                  Ba máu sáu cơn nổi lên khiến tôi mụ người, tôi gạt phăng A Độ sang bên, sấn đến trước mặt Lý Thừa Ngân:

                  - Giỏi phế truất ngay , ngươi tưởng ta thích lấy ngươi lắm à? Ngươi tưởng ta báu cái địa vị Thái tử phi này lắm à? Đàn ông Tây Lương chúng ta hàng vạn người, người nào người nấy hùng xuất chúng, nào có giống loại người ăn hoang mặc hại như nhà ngươi! Ngoài thi văn ra, ngươi biết cái gì? Bắn tên thua ta! Cưỡi ngựa cũng thua ta! Cái loại người như ngươi mà sống ở Tây Lương chẳng ai thèm lấy!

                  Lý Thừa Ngân phủi áo bỏ trong tức tối, hậm hực.

                  Lòng tôi ngùn ngụt tức giận, chúng tôi cãi nhau liên miên suốt ba năm nay, vẫn biết ưa gì mình nhưng tôi ngờ lại hận mình, ghét mình, rủa sả mình bằng những từ ngữ tồi tệ nhất đời. Vĩnh Nương dìu tôi lên xe, dịu giọng vỗ về:

                  - Vì Triệu Lương đệ mà Thái tử giận cá chém thớt với Thái tử phi, Thái tử phi đừng để bụng.

                  Tôi biết chứ, sao lại biết? thương Triệu Lương đệ phải chịu oan uổng nên mới thỏa sức trút giận lên tôi. Nhưng khổ nỗi tôi có làm gì đâu, là cái thá gì mà dám giận cá chém thớt với tôi!

                  bảo tôi đố kỵ với Triệu Lương đệ, đúng là tôi có hơi ghen tỵ . Tôi ghen là bởi có người thương ả, lúc nào cũng tin tưởng, săn sóc và bảo vệ ả, nhưng ngoại trừ việc đó ra, tôi thèm ghen tỵ chứ đừng đến việc rắp tâm hãm hại ả.

                  Triệu Lương đệ nhìn có vẻ dịu dàng, mềm mỏng, mấy lần đến chỗ tôi chơi bài, tôi thầm đánh giá ả cùng lắm cũng thuộc loại sắc sảo chứ hơn, sao có thể làm ra chuyện động trời ấy nhỉ? Với lại, tôi thấy cách làm của Hoàng hậu có gì là hay ho. Tự Nương có vẻ là người yếu đuối, nhu nhược, dù được phong làm bảo lâm, nhưng nếu Lý Thừa Ngân ưa nàng ta trong Đông cung chỉ thêm người đáng thương nữa mà thôi!

                  Đêm đến, tôi mải nghĩ ngợi linh tinh nên mất ngủ, liền bật dậy, hỏi A Độ:

                  - Em thấy Triệu Lương đệ có giống người xấu ?

                  A Độ gật, rồi lại lắc lắc.

                  - Ta chẳng hiểu nổi con Trung Nguyên nghĩ gì. Mặc dù đàn ông Tây Lương chúng ta cũng năm thê bảy thiếp, nhưng nếu sống với nhau hợp, vẫn có thể lấy người khác cơ mà.

                  A Độ gật đầu.

                  - Hơn nữa, Lý Thừa Ngân chẳng được nết gì, trừ cái vẻ ngoài cũng tàm tạm ra, còn lại xấu tính xấu nết, nhen, ích kỷ… - Tôi buông mình nằm xuống. – Nếu được chọn, đừng hòng ta lấy .

                  Tôi những lời từ tận đáy lòng. Nếu cho tôi quyền lựa chọn, bao giờ tôi để bản thân mình rơi vào bước đường thê thảm thế này. ràng thích người con khác, còn tôi bắt buộc phải lấy , bảo sao ghét tôi, tự nhiên cuộc sống của tôi trở nên bức bối, khó chịu. Giờ Triệu Lương đệ rơi vào cảnh bị giam cầm, hẳn Lý Thừa Ngân phải ghét tôi lắm, mà tôi có muốn lấy người chồng lúc nào cũng thù hằn mình đâu cơ chứ! Nếu để tôi tự chọn lựa, tôi thà lấy người đàn ông Tây Lương bình dị, chí ít chàng cũng thương tôi lòng, chàng rong ngựa trở tôi, đưa tôi săn bắt, thổi kèn cho tôi nghe, rồi tôi sinh cho chàng những đứa con đáng , cả nhà bên nhau êm ấm qua ngày…

                  Thực ra tôi biết, cuộc sống ấy mãi mãi chỉ gặp trong mơ mà thôi.

    5. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

      justify;" align="            Chương 3





                  Bỗng A Độ kéo tay tôi, trỏ về phía cửa sổ.

                  Tôi lấy làm lạ, bèn mở cửa, thấy có bóng người ngồi mái ngói lưu ly ở tòa điện đối diện.

                  Người đó vận đồ trắng, ngồi chễm chệ mái ngói lưu ly đen, rất nổi bật.

                  Tôi nhận ra kẻ đó, lại là gã Cố Kiếm đó!

                  phân vân có nên hô: “Có thích khách” hay đột nhiên gã cưỡi gió trượt xuống từ nóc điện như cánh chim, khẽ khàng đáp xuống bậu cửa sổ ngay trước mặt tôi.

                  Tôi trợn mắt nhìn gã:

                  - Huynh muốn làm gì?

                  Thay vì đáp lời, ánh mắt dán mặt tôi. Vừa về đến Đông cung, Vĩnh Nương lập tức lấy trứng gà luộc xoa cho tôi suốt buổi, thế mà má vẫn in sưng hằn dấu tay đỏ lựng, mãi chịu tan. Nhưng tôi cũng chẳng thiệt thòi lắm, cái tát kia của tôi đảm bảo khiến mặt sưng lên, lúc đó tôi tát bằng tất cả sức lực, mạnh đến mức tay tê rần thôi.

                  Giọng gã thoáng ưu tư, dương như gồng mình kìm nén điều gì đó:

                  - Ai đánh muội thế?

                  Tôi xoa gò má rồi :

                  - sao, tôi cũng đánh trả rồi.

                  Gã khăng khăng truy hỏi băng được:

                  - Là ai?

                  Tôi hỏi:

                  - Huynh hỏi làm cái gì?

                  Mặt lạnh tanh:

                  - giết !

                  Tôi hết hồn. lại hỏi:

                  - Muội là Thái tử phi rồi, ai còn dám đánh muội? Là Hoàng đế? Hay Hoàng hậu? Hoặc kẻ nào khác chăng?

                  Tôi lắc đầu, :

                  - Huynh đừng hỏi nữa, tôi đâu.

                  Vậy mà vẫn hỏi:

                  - Muội bằng lòng cùng ta ?

                  Gã này đúng là quái đản ! Tôi lắc đầu, định đóng cửa lại, gã giơ tay chặn đứng cánh cửa, hỏi tôi:

                  - Muội vẫn giận ta ư?

                  Tôi chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì cả:

                  - Sao tôi phải giận huynh?

                  - Lẽ nào muội giận ta chuyện ba năm trước?

                  Tôi đành thẳng với gã:

                  - Quả thực tôi quen huynh, huynh đừng nửa đêm nửa hôm mò đến đây mấy chuyện khó hiểu này nữa. Đây là Đông cung, nếu để người khác biết, họ tưởng huynh là thích khách rồi bắn chết dưới làn mưa tên khổ.

                  Gã cười vẻ thách thức:

                  - Đông cung sao? Kể cả là Hoàng cung, ta thích vào, thích ra, ai làm gì được ta nào!

                  Tôi trợn tròn mắt nhìn gã, tên này ngông cuồng quá hóa điên rồi. Song với võ công của gã, xem chừng Hoàng cung đúng là nơi “thích vào, thích ra” . Tôi thở dài:

                  - Rốt cuộc huynh muốn gì?

                  - Ta đến thăm muội. - Rồi gã lại hỏi. - Muội bằng lòng cùng ta chứ?

                  Tôi lắc đầu.

                  Gã tỏ ra tức giận, bỗng nắm chặt tay tôi:

                  - Muội sống ở đây chẳng vui vẻ gì, cớ sao chịu theo ta?

                  - Ai bảo tôi sống vui vẻ? Vả lại huynh là ai, sao cứ bận tâm chuyện tôi sống vui hay vui thế?

                  Gã vươn tay kéo tôi, tôi khẽ gắt:

                  - Bỏ tay ra!

                  A Độ nhảy vọt lên, nhưng chỉ cái phẩy tay áo của gã, A Độ liền loạng choạng lùi vài bước. đợi A Độ kịp trở tay, tôi có cảm giác người bẫng như con diều bị gã kéo ra khỏi cửa sổ. Khinh công của gã đúng là có gì để , vác theo tôi mà chẳng khác nào cưỡi mây lướt gió. Tiếng gió ngừng vỗ bên tai, chẳng mấy chốc dưới chân tôi có điểm hạ, hiềm nỗi thay vì mặt đất đây lại là mái ngói lưu ly vừa trơn vừa lạnh. Gã bắt cóc tôi phi lên tận nóc chính điện, vốn là nơi cao nhất trong Đông cung. Phóng tầm mắt nhìn quanh, cung khuyết thâm trầm, đền điện trập trùng, đấu củng [1] mái cong, những gờ mái ngói bằng lưu ly, tất thảy dương như mình trong sắc đêm im lìm đen tựa nghiên mực.

                  [1] Đấu củng: loại kết cấu đặc biệt của kiến trúc Trung Hoa, gồm những thanh ngang từ cột trụ chìa ra gọi là củng và những trụ kề hình vuông chèn giữa các củng gọi là đấu.

                  Tôi vùng khỏi tay gã, suýt trượt chân, bèn trợn mắt nhìn gã:

                  - Tóm lại huynh muốn gì?

                  Gã chỉ xuống cung điện trập trùng ngay dưới chân chúng tôi :

                  - Tiểu Phong, muội nhìn xem, muội nhìn nơi này mà xem, nơi đây tường cao chót vót, bốn bề kín mít, nơi đây như miệng giếng sâu thấy được mặt trời, nơi này sao có thể giam giữ muội?

                  Tôi thấy khó chịu mỗi lần gã gọi tên mình, điều đó khiến tôi có cảm giác bức bối, tôi :

                  - Chẳng mắc mớ gì tới huynh.

                  Gã bảo:

                  - Phải làm sao muội mới chịu theo ta?

                  Tôi lườm gã:

                  - Tôi theo huynh đâu, huynh đừng tưởng mình có võ là giỏi, tôi mà la lên gọi Vũ lâm quân tới là huynh thành con nhím chỉ sau phát tên đấy.

                  Gã cười nhạt, :

                  - Muội quên ta là ai rồi sao? khi ta cầm chắc kiếm trong tay, muội phải gọi toàn bộ Vũ lâm quân trong Đông cung đến, may ra mới đọ được nửa phần ta.

                  Suýt quên mất, tay này ngông cuồng quá hóa điên rồi. Tôi bèn nhanh trí giở trò nịnh nọt:

                  - Võ công của huynh quả là cao cường, có phải vô địch thiên hạ , từng thua ai chưa?

                  Gã chợt cười:

                  - Muội quên đấy à? Ba năm trước, ta chẳng đọ kiếm thua muội là gì!

                  Tôi kinh hãi đến nỗi cằm suýt rơi xuống đất, chỉ vào mũi mình, run run hỏi:

                  - Tôi? Thua tôi á?

                  Chuyện này ghê gớm, tôi thậm chí biết chút võ nghệ, cái búng của gã là đủ quật nhào tôi xuống đất, làm gì có chuyện đọ kiếm để rồi thua tôi chứ? Đến cầm kiếm thế nào cho đúng cách, tôi còn biết nữa là.

                  Gã tỏ ra thản nhiên như , thủng thẳng :

                  - Đúng thế. Lần đó đọ kiếm, chúng ta lấy cả cuộc đời ra đặt cược, ta thua muội phải lấy muội, cả đời thương muội, trân trọng muội, theo muội...

                  Miệng tôi ngoác to đến nỗi dư sức nuốt trôi quả trứng gà. Tôi tò mò hỏi:

                  - Thế nếu tôi thua sao?

                  - Nếu muội thua, đương nhiên muội phải lấy ta, để ta thương muội, trân trọng muội, theo muội trọn đời...

                  Tôi rùng mình. Ông trời ơi, đùa kiểu gì kỳ lạ vậy?

                  Gã lại :

                  - Lần đó ta chẳng nhường gì đâu, thế mà chiêu của muội đoạt được thanh kiếm tay ta, ta đành chấp nhận thua muội.

                  Hạng như tôi mà đoạt được kiếm tay gã? Có đánh chết tôi cũng tin!

                  Tôi dứt khoát :

                  - Bất kể lần đó ai thắng ai thua, dẫu sao tôi cũng nhớ, hơn nữa tôi quen huynh, còn lâu tôi mới tin những lời huynh .

                  Nụ cười phớt môi gã, đoạn gã lấy từ trong tay áo ra đôi ngọc bội, bảo tôi:

                  - Năm xưa, khi ta và muội ước hẹn cùng nhau, từng chia đôi miếng ngọc bội uyên ương này thành hai nửa, ta giữ nửa, nửa còn lại muội giữ. Đôi ta vốn hẹn nhau, ngày Mười lăm tháng Sáu, trăng tròn vành vạnh, ta đợi muội ở ngoài Ngọc Môn Quan, sau đó ta dẫn muội về nhà ra mắt.

                  Tôi nhìn miếng ngọc bội tay gã, Tây Lương vốn là nơi tập trung làm ăn buôn bán của khá nhiều người Hồ, lại cách quê hương của ngọc Hòa Điền xa nên số trang sức bằng ngọc tôi từng nhìn thấy nhiều kể xiết. Từ ngày đến Thượng Kinh, thấy trong Đông cung cũng có vô vàn bảo vật quý hiếm, song hết thảy những thứ ấy gì sánh được với đôi ngọc này, cả về độ sáng bóng lẫn ôn nhuận. Miếng ngọc mỡ dê [2] thượng hạng, mịn màng như mỡ đặc, dưới ánh trăng thấp thoáng lan tỏa vầng hào quang.

                  [2] Ngọc mỡ dê: loại ngọc tự nhiên quý hiếm với màu trắng mờ độc đáo, là nguyên liệu chế tạo đồ trang sức, bảo vật của vua chúa Trung Hoa thời xưa.

                  - Lần đầu tiên tôi thấy đôi ngọc bội này. - Tính hiếu kỳ được dịp trỗi dậy, tôi bèn hỏi. - phải huynh chúng ta từng hẹn ước bỏ nhà cùng nhau à, vì sao sau đó lại nữa?

                  Cánh tay gã từ từ buông xuống, gã chợt chùng giọng :

                  - Ta có lỗi với muội, hôm đó, ta có việc đột xuất, thể tới quan ngoại. Ba ngày ba đêm sau, ta mới đến được chỗ hẹn, lúc ấy chỉ nhìn thấy mảnh ngọc bội này rơi cát sỏi, còn muội chẳng biết bỏ đâu...

                  Tôi nghiêng đầu nhìn gã, nét mặt kia có vẻ gì là dối, nhất là đoạn gã kể mình thất hẹn, khuôn mặt u sầu, héo hon như thể gã có nỗi day dứt khôn tả.

                  Song tôi thấy câu chuyện đó nhạt nhẽo:

                  - thất hẹn rồi, còn gì để nữa! Chuyện này chẳng thú vị gì cả. Chắc huynh nhận nhầm người rồi, xưa nay tôi hề quen huynh.

                  Tôi xoay người nhìn sắc trời:

                  - Tôi phải về ngủ đây. Mà sau này huynh đừng đến tìm tôi nữa, bị người ta bắt gặp chỉ gây phiền phức cho tôi thôi, bây giờ tôi cũng đủ đau đầu lắm rồi.

                  Gã nhìn chằm chằm lên khuôn mặt tôi, bẵng lúc lâu mới :

                  - Muội trách ta đó ư, Tiểu Phong?

                  - Tôi chẳng có thời gian mà trách huynh! Nhưng quả chúng ta hề quen biết.

                  Gã im lặng hồi lâu, chốt lại bằng tiếng thở dài, rồi rút từ trong ngực áo ra loại “tên reo [3] ”, với tôi:

                  [3] Tên reo: loại tên khi bắn ra thường phát ra tiếng kêu.

                  - Nếu muội gặp nguy hiểm, cứ bắn mũi tên này lên trời, ta lập tức tới cứu muội.

                  Tôi có A Độ lúc nào cũng ở bên cạnh rồi, còn gặp nguy hiểm gì chứ? Tôi quyết nhận mũi tên của gã, gã quả quyết dúi vào tay tôi bằng được. Thế rồi gã ôm tôi bẫng như lúc trước, sau vài cái nhảy vọt, để tôi kịp thốt lên tiếng nào, cả hai đáp xuống mặt đất. Gã đưa tôi về tẩm điện của tôi, rồi loáng cái lùi xa mấy trượng trước khi tôi kịp quay người. Thoắt đến rồi đều im hơi lặng tiếng, nháy mắt gã vọt lên mái ngói lưu ly của tòa điện trước mắt, từ xa quay lại nhìn tôi cái rồi biến mất.

                  Tôi khép cửa sổ, tiện tay đưa mũi tên cho A Độ, :

                  - Gã Cố Kiếm này tinh thông võ nghệ, nhưng lại điên điên dở dở, thích luyên thuyên. luôn miệng bảo ta quen , lẽ nào trước đây ta quen mà lại nhớ?

                  A Độ nhìn tôi, ánh mắt dịu dàng, cảm thông. Tôi hiểu tại sao muội ấy lại nhìn tôi kiểu đó, đành buông tiếng thở dài, bò lên giường nằm. A Độ biết nên thể kể cho tôi biết rốt cuộc gã Cố Kiếm kia là ai.

                  Chắc bởi có quá nhiều chuyện xảy ra đột ngột trong vòng buổi tối khiến đêm hôm đó giấc ngủ tôi chập chờn, mộng mị. Tiếng kèn của ai đó dập dìu trong giấc mơ, gọi tôi xích lại gần. Sương mù giăng mắc bốn bể mênh mông, để tôi nhìn mặt người thổi kèn. Chàng đứng đó, cách tôi tưởng gần mà xa. Lòng tôi biết song đôi chân chẳng tìm ra lối. Loanh quanh trong sương khói miết cũng tìm thấy chàng, hớn hở chạy về phía đó, tôi chợt sẩy chân rơi xuống vực sâu thăm thẳm.

                  Trong khoảnh khắc tuyệt vọng, bỗng có người đón tôi ở lưng chừng vực thẳm. Tiếng gió vụt vù lướt qua vành tai, tôi nằm gọn trong vòng tay chàng, người lao dần xuống vực.. Chàng cứu tôi, trong làn gió đêm xoáy xiết, tôi nép mình vào ngực chàng... Theo gió vẫn xoay... xoay mãi... Sao sáng đầy trời tưởng giọt mưa sa. Giữa đất trời bao la, hai mắt chàng vẫn đắm đuối nhìn vào mắt tôi.

                  Mình say mất, say rồi. Được nằm trong vòng tay chàng, đúng người đó rồi... Tôi biết chàng mình tha thiết và tình tôi trao chàng cũng đủ đắm say. Chỉ khi có chàng ở bên, tôi mới thấy lòng mình bình yên trở lại.

                  Tôi choàng tỉnh cơn mê lúc trời sáng , giấc mơ ấy tìm về biết bao nhiêu lần, và lần nào choàng tỉnh, lòng cũng nghe thất vọng não nề. Từ thuở nào đến giờ, chưa lần tôi nhìn tỏ mặt người cứu tôi. Tôi biết chàng là ai, mỗi lần mộng mị tôi thường cố nhìn cho tường nhưng chưa lần thành công. Tôi trở mình, thấy bên gối đặt nhành hoa ngậm sương sớm long lanh, tỏa hương thơm ngát. Tôi giật bắn mình, A Độ nằm án ngữ bên cửa sổ, kẻ nào có thể lọt qua tai mắt của muội ấy, trừ gã Cố Kiếm nọ. Tôi mở tung cửa sổ, song thấy bóng dáng áo trắng kia đâu, gã Cố Kiếm lặn mất tăm từ lúc nào.

                  Tôi cắm hoa vào bình, thấy tinh thần phấn chấn lên đôi chút, tiếc thay, vui được bao lâu Vĩnh Nương đến bẩm báo với tôi chuyện hôm qua Lý Thừa Ngân uống say cả đêm, giờ vẫn bí tỉ, làm mình làm mẩy ở bên đó.

                  Tôi khinh thường gã đàn ông này. Nếu là tôi, tôi lén lút thăm Triệu Lương đệ, sao phải chuyện bé xé ra to? Vả chăng ả vẫn còn sống sờ sờ ra đấy, thế nào chẳng có cách để hai người tái hợp. Rừng xanh còn đó, lo gì thiếu củi đốt!

                  Tôi bảo Vĩnh Nương, mặc xác Lý Thừa Ngân, cứ để say chết cho người.

                  Tuy vậy song ba ngày sau đó, Lý Thừa Ngân vẫn triền miên trong những cơn say túy lúy, sang đến ngày thứ tư lăn đùng ra ốm.

                  Lần nào say cũng đuổi hết cung nữ ra khỏi điện, cấm ai được lại gần. Chẳng trách sau đó trúng ngay phong hàn, thoạt đầu chỉ đau họng, ho khan, sau sốt cao. Tẩm điện của tôi cách chỗ quá nửa Đông cung, tin tức cũng thiếu nhạy bén, ốm nặng nằm liệt giường rồi tôi mới biết tin, vậy mà trong cung vẫn hề hay biết.

                  - Điện hạ chịu uống thuốc, cũng cấm loan tin vào cung. - Vĩnh Nương thầm. - Vì Triệu Lương đệ mà Điện hạ giận lây Hoàng hậu nương nương.

                  Tôi vừa bực mình vừa tức cười:

                  - định trả thù cho Triệu Lương đệ bằng cách tự hành xác sao?

                  Vĩnh Nương thưa:

                  - Điện hạ trời sinh bản tính nhân hậu, lại được Bệ hạ và Hoàng hậu nương nương hết mực thương, khó tránh khỏi có chút...

                  Vĩnh Nương tiện xấu Lý Thừa Ngân bèn đến đó rồi bỏ ngỏ.

                  Tôi đành phải thăm Lý Thừa Ngân, khéo ốm quá lại lăn ra chết khổ. chết mặc kệ , nhưng tôi chưa muốn làm quả phụ.

                  Trước kia, mỗi lần tôi đặt chân vào tẩm điện của , lại xua tôi ra như xua loài chuột bọ. Thế mà hôm nay tôi mon men lại gần giường, thấy nổi khùng xem ra ốm cũng nặng đây. Cung nữ vén màn, tôi thấy sắc mặt Lý Thừa Ngân đỏ gay như con cua luộc, nhắc đến cua mới nhớ tôi từng muối mặt vì nó. Chẳng là hồi chưa đến Thượng Kinh, tôi đâu có biết mặt mũi con cua ra làm sao, tết Trùng dương [4] năm đầu tiên, trong cung thết yến có món cua hấp, tôi nhìn đĩa cua đỏ au mà lúng túng biết phải ăn kiểu gì. Có thế thôi mà Lý Thừa Ngân chì chiết tôi mãi, lần nào nhắc lại chuyện đó cũng kháy con Tây Lương đến con cua cũng biết.

                  [4] Ngày mùng Chín tháng Chín hằng năm là ngày tết Trùng cửu truyền thống của người Trung Quốc. Từ thời cổ đại, người ta quan niệm số chín là con số dương. Ngày mùng Chín tháng Chín là ngày dương, tháng dương và số chín được lặp lại hai lần, vì thế, ngày này còn được gọi là tết Trùng dương hay tết Trùng cửu.

                  Tôi đưa tay sờ trán Lý Thừa Ngân, nóng giãy.

                  Tôi gọi: “Này! Lý Thừa Ngân!” mấy tiếng liền, vậy mà vẫn lặng thinh.

                  Xem ra sốt cao rồi, vẫn nằm giường thở khò khè từng cơn, môi khô và nhợt nhạt.

                  Tôi toan rụt tay lại nhưng kịp, lòng bàn tay bỏng giãy như tấm thép nung của nắm chặt tay tôi. thở dồn từng cơn, giọng lơ mơ gọi:

                  - Mẹ... mẹ ơi...

                  Lạ ở chỗ gọi “mẫu hậu”, mà từ trước tới nay tôi chưa bao giờ nghe chữ “mẹ” thốt ra từ miệng . Suy cho cùng, Hoàng hậu vẫn là Hoàng hậu, còn lại là Thái tử, từ xưa đến nay hai người luôn quen giữ vẻ khách sáo. Giờ ngẫm lại mới thấy, so với tôi, Hoàng hậu đối với cũng chẳng thân thiết hơn là bao, ngoài mấy câu “bình thân”, “ban ngồi”, “lui xuống ”,... người toàn mang hàng tá điển tích, điển cố ra để giáo huấn .

                  Ngẫm thấy Lý Thừa Ngân cũng tội nghiệp.

                  Làm Thái tử phi cũng mệt lắm rồi, cái này được, cái kia nên, hằng năm trong cung tổ chức bao nhiêu lễ lạt, cả ngày khoác áo chim trĩ, đội mũ phượng, hết quỳ lại đứng, vai tưởng rụng, lưng tưởng gẫy... May mà Hoàng hậu cũng châm chước cho tôi phần nào, người bảo tôi tuổi, lại xuất giá từ Tây Lương xa xôi, thế nên chẳng mấy khi trách móc nặng nề. Nhưng làm Thái tử còn mệt hơn làm Thái tử phi gấp nhiều lần. Tôi lướt qua vài cuốn sách đủ đau hết cả đầu, vậy mà Lý Thừa Ngân thuộc làu làu chẳng sót quyển nào. những giỏi thơ họa, còn phải thông thạo bắn cung, cưỡi ngựa... Tôi nghĩ, chắc chắn có được những ngày tuổi thơ vui vẻ như mình. Học nhiều thế, đầu làm sao chịu nổi!

                  Lý Thừa Ngân nắm tay tôi rất chặt, để tôi rụt tay lại. Vĩnh Nương đón bát thuốc cung nữ vừa mang vào, thào bẩm:

                  - Bẩm Thái tử phi, thuốc đây ạ!

                  Tôi đành phải gọi:

                  - Này Lý Thừa Ngân! Dậy uống thuốc này!

                  vẫn lặng thinh, tay giữ khư khư tay tôi. Vĩnh Nương sai người chèn thêm vài cái gối lên đầu giường rồi để nội quan đỡ Lý Thừa Ngân dậy, ngả người tựa vào đó. Vĩnh Nương cầm thìa ngọc bón thuốc cho , ngặt nỗi hai môi mím chặt, đút được thìa có tới nhân nửa men theo khóe miệng trào ra ngoài.

                  Tôi thấy bực liền bảo:

                  - Để ta làm cho!

                  Tay phải tôi vẫn nằm gọn trong tay , bèn cầm bát thuốc bằng tay trái, tôi quay sang gọi A Độ:

                  - Muội bịt mũi !

                  A Độ vâng lệnh tiến lên, bịt mũi Lý Thừa Ngân, chẳng bao lâu sau, miệng há ra vì nghẹt thở, tôi tranh thủ dốc cả bát thuốc vào miệng . Mũi bị bịt, đành nuốt ừng ực mấy ngụm thuốc, mấy lần ho sặc sụa, mắt khẽ chớp mở:

                  - Nóng... nóng quá...

                  Thà chết vì bỏng còn hơn chết vì ốm nhé!

                  Tôi ra hiệu bảo A Độ thả lỏng tay. Lý Thừa Ngân vẫn siết chặt tay tôi, song chẳng buồn nhìn tôi lấy cái, chẳng mấy chốc nhắm nghiền mắt, lịm dần vào giấc ngủ mê man.

                  Vĩnh Nương kê cái đôn phủ nệm thêu để tôi ngồi bên cửa sổ. Cánh tay cứ phải dang ra suốt nên chỉ được lúc thấy bứt rứt, khó chịu. Tôi bèn sai A Độ dịch đôn ra chỗ khác, khom lưng ngồi phịch xuống ghế kê chân. Ngồi vậy cần phải cúi lom khom nữa, thoải mái hơn nhiều, lý Thừa Ngân cầm tay tôi từ bấy đến giờ, làm cánh tay tê rần, mấy lần tôi định hất ra, ngặt nỗi chỉ cần hơi nhúc nhích là siết chặt hơn. A Độ tuốt đao múa máy ướm thử vào cổ tay , tôi vội lắc đầu ý bảo được. Bây giờ mà chặt đứt tay , phụ hoàng dẫn binh tiến đánh Tây Lương mới là lạ.

                  Tự nhiên tôi thấy nhớ Triệu Lương đệ, chí ít nếu có ả ở đây, tôi phải chăm sóc Lý Thừa Ngân thế này. Lúc ấy, dù đổ bệnh nằm liệt giường cũng chẳng thèm nắm tay tôi chứ đừng đến chuyện giữ khư khư thế này.

                  Qua canh giờ, tay tôi tê rần còn chút cảm giác, tôi bắt đầu nghĩ đến việc làm thế nào để cứu Triệu Lương đệ ra rồi trả lại tất cả những chuyện này cho ả.

                  Hai canh giờ sau, nửa người tôi tê liệt hoàn toàn, còn cảm giác gì nữa. Tôi sắp nhịn được rồi, bèn lí nhí gọi Vĩnh Nương. Bà ấy bước lại gần, cúi đầu lắng nghe tôi bảo:

                  - Vĩnh Nương ơi... Ta... muốn... ... nhà cầu...

                  Vĩnh Nương lập tức thưa:

                  - Nô tì sai người mang bô đến ngay bây giờ đây ạ!

                  rồi, bà ấy thẳng ra ngoài, để tôi kịp gọi với theo. Vĩnh Nương sai nội quan khép tấm bình phong lại, đuổi tất cả cung nữ lui ra, rồi đóng chặt cửa tẩm điện. Mặt tôi nhăn nhó:

                  - Vĩnh Nương ơi... Làm thế này... được đâu...

                  - Để nô tì hầu hạ nương nương...

                  Tôi chực òa khóc:

                  - được! Chỗ này tiện! Lý Thừa Ngân nằm đó mà...

                  - Thái tử Điện hạ đâu phải người ngoài... huống hồ Điện hạ còn đương giấc. - Vĩnh Nương an ủi tôi. - Vả chăng Điện hạ và Thái tử phi là phu thê, phu thê với nhau, còn lạ gì nữa...

                  Tôi đủ kiên nhẫn để nghe bà ấy thao thao bất tuyệt thêm nữa, quả thực chịu được nữa, nhưng khổ nỗi Lý Thừa Ngân sờ sờ ở đó, trước mặt đàn ông mà tôi lại... Tôi khóc đây, tôi muốn khóc lắm rồi...

                  - Vĩnh Nương ơi, ngươi mau nghĩ cách ... Mau nghĩ cách !

                  Tôi thúc giục trong lúc Vĩnh Nương vắt óc suy nghĩ, cuối cùng cũng chẳng nghĩ ra cách nào khả quan hơn, mà quả tôi thể nhịn thêm được nữa, đành liến thoắng :

                  - Thôi được rồi, được rồi. Chỗ này cũng được, ngươi che cho ta.

                  Vĩnh Nương liền lách người chắn giữa tôi và Lý Thừa Ngân. Song vì Lý Thừa Ngân nắm chặt tay tôi, mà bà ấy lại là người tuân thủ cung quy, thể quay lưng về phía tôi hoặc Lý thừa Ngân, nên chỉ che được chút. Vừa tháo dải áo tôi vừa run rẩy, chốc chốc lại ló đầu liếc Lý Thừa Ngân. A Độ giúp tôi gỡ dải áo, rồi nâng vạt váy giúp tôi.

                  Số thơ từ tôi thuộc tất cả chỉ có ba câu, câu từng khoe với Bùi Chiếu, chính là câu: “Để giải ưu sầu chỉ có Đỗ Khang.”

                  Còn câu kia là:

                  “Dây to nhường đổ mưa rào.

                  Nỉ non dây như trò chuyện riêng.

                  Tiếng cao thấp lần chen liền gảy,

                  Mâm ngọc đâu bỗng nảy hạt châu.” [5]

                  [5] Trích Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị. Bản dịch thơ của Phan Huy Vịnh.

                  Tại sao tôi lại thuộc mấy câu thơ này ấy à? Là bởi năm đó học tiếng của người Trung Nguyên, mỗi lần đọc đến đó thường bị líu lưỡi nên tôi cứ đọc đọc lại, rồi cũng thuộc lòng.

                  “Dây to nhường đổ mưa rào... Nỉ non dây như trò chuyện riêng... Tiếng cao thấp lần chen liền gảy... Mâm ngọc đâu bỗng nảy hạt châu...” Quả nhiên... cả người... sảng khoái quá!

                  lúc lâng lâng, tôi khó tránh được hả hê, nghĩ bụng thấy mình nhớ được mấy câu thơ khó thế này, giỏi quá. Bấy giờ Lý Thừa Ngân bất ngờ động đậy, rồi choàng mở mắt.

                  - Á! - Tôi hét lên thất thanh.

                  Ngay tức A Độ nhảy lên, tuốt đao nhanh như chớp. Vĩnh Nương nghe tiếng tôi thét cũng giật bắn mình, chưa gì bị A Độ đẩy sang bên, thanh đao của A Độ kề ngay cổ Lý Thừa Ngân. Tôi luýnh quýnh chân tay, vừa kéo váy vừa thét:

                  - Đừng! A Độ, đứng im đó!

                  Tôi hấp tấp thắt lại dải áo, nhưng váy áo Trung Nguyên vốn rườm rà, rắc rối, hằng ngày có cung nữ Thượng y [6] hầu tôi thay xiêm y, chứ chính tôi cũng biết mặc thế nào. Trong lúc luống cuống tôi thắt nhầm nút chết, song cũng kệ, tôi lập tức kéo A Độ lại:

                  [6] chức quan thuộc thượng y giám, chuyên lo công việc hầu hạ áo quần cho vua và hoàng tộc trong cung.

                  - A Độ! Đừng! chỉ làm ta giật mình thôi!

                  A Độ thu đao về. Lý Thừa Ngân trợn tròn mắt nhìn tôi, tôi cũng trừng trộ nhìn lại. Nom vẻ mặt thoáng sửng sốt, ánh mắt ngây dại nhìn tấm bình phong đằng sau tôi, đoạn ngó sang Vĩnh Nương đứng trơ như phỗng, rồi trông xuống chiếc bô cạnh giường, liền đó ánh mắt dừng lại bàn tay nắm gọn tay tôi, cuối cùng, nhìn chằm chằm vào nút thắt lộn xộn eo tôi, khóe miệng bỗng giật giật.

                  Thể diện của tôi ơi... Hỏng cả rồi! Ba năm qua, tôi chưa hề lép vế Lý Thừa Ngân, dù là cãi nhau hay đánh lộn, thế mà hôm nay, thể diện của tôi ra rồi. Ba máu sáu cơn nổi lên, tôi gắt:

                  - Có giỏi cứ cười , ta bảo A Độ chém chết ngươi bây giờ!

                  Khóe miệng càng co giật mạnh hơn, tôi vẫn gườm đây mà còn cười ngặt nghẽo. Chưa bao giờ tôi thấy cười kiểu đó, cả tẩm điện vang vọng tiếng cười của . Vừa bực mình vừa xấu hổ, tôi bèn giật phắt thanh đao tay A Độ. Vĩnh Nương giật mình hét lên, tôi lật ngược sống đao, chém tới tấp về phía Lý Thừa Ngân:

                  - Tưởng ta dám đánh hả? Tưởng mình có bệnh là ta tha hả? để ngươi hay, chẳng qua ta sợ phụ vương ngươi dẫn quân đánh cha ta, nếu hôm nay ta chém chết ngươi bằng được thôi!

                  Vĩnh Nương định xông vào can ngăn bị A Độ nhanh chân chặn lại. Tuy tôi dùng sống đao nhưng đập lên người cũng rất đau. Trái với thường lệ, Lý Thừa Ngân lĩnh trọn vài cú mà hề buông lời mắng mỉa, nhưng cũng chẳng phải loại vừa, vùng lên giằng lấy thanh đao. Chúng tôi quần nhau ngay giường, tay tôi lăm lăm thanh đao sáng lóa, chém vào khí vun vút. Vĩnh Nương luýnh quýnh, nhảy dựng lên:

                  - Thái tử phi ơi là Thái tử phi, chớ làm Thái tử Điện hạ bị thương! Điện hạ, Điện hạ cẩn thận!

                  Lý Thừa Ngân vật lộn toan cướp thanh đao tay tôi. lúc giằng co, tôi vẫn quên dặn A Độ:

                  - Lôi Vĩnh Nương ra ngoài mau!

                  đưa bà ấy , vụ này sao có thể giải quyết tới cùng được?

                  A Độ mau chóng kéo Vĩnh Nương ra ngoài. Tóc tôi xổ tung, chiếc thoa kim phượng cài đầu bỗng tuột xuống mắc bên mai. Mới phân tâm chút mà Lý Thừa Ngân tranh thủ giằng lấy thanh đao tay tôi.

                  Tôi tức mình, lao tới toan cướp lại thanh đao. Lý Thừa Ngân liền bật dậy, đứng lên giường, giơ cao thanh đao. Người dong dỏng, cao hơn hẳn tôi, tôi kiễng chân tới bèn nhảy lên toan chụp chuôi đao. đổi tay, tôi lại nhảy, lại đổi... Tôi nhảy lên nhảy xuống bốn năm lần liền, lần nào cũng hụt. đắc thắng bảo:

                  - nhảy ! Nhảy nữa xem nào!

                  Tôi bực mình, thấy chỉ mặc bộ đồ ngủ màu vàng bằng vải lĩnh [7] , bên dưới lộ ra dải thắt lưng màu đỏ son, tôi bỗng kéo dải thắt lưng ấy. Lý Thừa Ngân hốt hoảng kêu lên:

                  [7] Vải lĩnh là vải dệt bằng sợi dài và đầy hơn bình thường, bề mặt bóng loáng. Chỉ những gia đình giàu có, quyền quý mới có tiền để mua vải lĩnh.

                  - ... làm gì đấy?

                  Tay luống cuống giữ chặt đai quần, tôi tranh thủ vung chân đạp vào đầu gối cú. Cú đạp khá mạnh, gập gối ngã lăn, tôi chồm lên chộp lấy cổ tay , thế là thanh đao thuộc về tôi.

                  A Độ quay vào, vén màn đúng lúc tôi nằm đè lên người Lý Thừa Ngân, tay giằng kéo dải rút quần của . Mặt A Độ thoắt đỏ lựng, loáng cái chạy mất hút.

                  - Này A Độ!

                  Tôi nhảy dựng lên toan gọi A Độ lại, Lý Thừa Ngân chớp thời cơ cướp mất thanh đao. Chúng tôi sáp vào nhau, lăn từ giường xuống đất. ngờ trông thế này mà cũng biết đánh nhau. Trước đây, thỉnh thoảng chúng tôi cũng động tay động chân nhưng thường dừng lại rất đúng lúc, nhiều khi chưa đánh có người nhảy vào can ngăn. Hôm nay đúng là ngoại lệ, mặc dù ốm, song sức đàn ông lúc nào cũng khỏe, sức mạnh vô biên y như lạc đà. Tuy tôi có khiếu đánh lộn, nhưng bất lợi là sức bền, giằng co qua lại lúc đuối sức. Sau cùng, thanh đao lọt vào tay Lý Thừa Ngân, tôi đánh liều bẻ ngoặt tay , nới lỏng tay quẳng thanh đao sang bên rồi vung chân đá văng ra xa, phen này ai với được đao nữa.

                  Tôi thở hồng hộc, Lý Thừa Ngân vẫn vặn siết cánh tay tôi, chúng tôi như hai cái khóa móc vào nhau rồi cùng ngã lăn thảm. Trán mướt mồ hôi, đấy nhé, quần nhau lúc làm cả người toát mồ hôi, bệnh phong hàn chẳng mấy mà khỏi. Cả hai giằng co quyết liệt, đến nước này mà chịu buông tay tôi cũng chẳng còn sức mà giẫy. Sau cùng, Lý Thừa Ngân để ý dải lụa thắt ngang ngực tôi, liền đưa tay rút dải lụa ấy. Tôi giật thót tim:

                  - Ngươi định giở trò gì đấy?

                  giật phắt đai áo rồi trói tạm hai tay tôi lại. Tôi hoảng hốt, chỉ sợ trói mình vào để đánh đập, hành hạ. Tôi hét lên:

                  - Này! Quân tử đánh nhau ghi thù, ngươi dám đánh ta, ta gọi A Độ đến chém chết ngươi bây giờ!

                  - Im !

                  - A Độ! - Tôi gào toáng lên. - Mau đến đây, A Độ!

                  Tôi đoán Lý Thừa Ngân sợ tôi gọi A Độ vào, vì ta còn lâu mới đọ được A Độ. ngoái đầu dáo dác tìm đồ, tôi nghĩ chắc muốn tìm thứ gì đó để bịt miệng mình đây mà, nhưng giường lộn xộn thế kia, gối chăn văng xuống đất, cập rập thế tìm sao được thứ gì? Tuy hai tay bị trói nhưng chân vẫn động đậy được, tôi giẫy giẫy như con cá mắc cạn, tranh thủ gào to:

                  - A Độ! Mau đến cứu ta! A Độ!

                  Lý Thừa Ngân cuống cuồng nhào đến lôi tôi dậy, thế rồi bịt miệng tôi bằng chính bờ môi mình.

                  Tôi sững sờ.

                  người có mùi mồ hôi, có hương trầm, có vị thuốc và mùi gì đó mà tôi thể nào đoán được. Bờ môi ấy mềm mềm, nóng rực, giống đôi vịt nướng vừa lửa, xem ra còn mềm hơn cả thịt vịt nướng. Tôi chết đứng, thực chết đứng. Tôi tròn mắt, gương mặt Lý Thừa Ngân chiếm trọn tầm nhìn, , là con ngươi của mới đúng.

                  Chúng tôi thi nhau trợn mắt.

                  Tôi có cảm giác, vì mải trừng mắt với mà tôi quên mất thở lấy hơi.

                  Hình như cũng quên hít thở, cứ nhìn tôi trừng trừng.

                  Tiếp đó tôi hơi hé miệng định gào toáng lên, liền siết chặt vòng tay, kéo tôi sáp lại gần. Tôi toan mở miệng, đầu lưỡi của tranh thủ luồn vào trong.

                  Buồn nôn quá mất!

                  Toàn thân tôi sởn gai ốc, lông tơ dựng đứng cả lên. ngặm môi tôi! Aaaa...! Này, đấy là môi tôi! phải móng giò, cũng phải gà nướng, càng phải đùi vịt đâu nhé! ôm tôi rồi gặm ngon lành... Vừa gặm vừa lần mò quần áo. May mà có nút chết eo váy, bằng xé mất đai ngực rồi, giờ đến váy cũng rách dưới tay tôi thà chết cho xong.

                  Tức! Quá! ! Thôi!

                  Tôi liều mạng cắn , rồi lên gối thụi cho cú để đời!

                  trúng đòn, còn làm gì được nữa. Tôi bật dậy, lao đến nhặt thanh đao của A Độ, cứa hai, ba nhát cho đứt phăng đống dây dợ lằng nhằng tay, xong xuôi tôi kề đao vào cổ :

                  - Lý Thừa Ngân kia! Hôm nay ta liều mạng với ngươi!

                  Lý Thừa Ngân uể oải liếc tôi cái rồi cúi xuống nhìn thanh đao. Tôi kề đao vào cổ , đe dọa:

                  - Cấm ngươi được tiết lộ chuyện hôm nay, bằng , ngay tối nay ta sai A Độ đến giết ngươi!

                  Lý Thừa Ngân chống tay, chễm chệ ngồi đó, như thể bên cổ chẳng hề có thanh đao sắc, bỗng trở nên đáo để:

                  - Ta được phép tiết lộ chuyện gì... hôm nay cơ?

                  - Chuyện ngươi hôn ta, còn nữa... còn... Hừ! Tóm lại, chuyện hôm nay cấm ngươi được nhắc đến! Bằng ta chém chết ngươi!

                  tự đưa cổ mình lại gần lưỡi đao:

                  - Giỏi giết ... làm thế là mưu sát chồng đấy nhé! Mà này, chỉ cần dám động đến sợi lông của ta, phụ hoàng ta lập tức dấy binh đánh Tây Lương của !

                  ! Khốn! Nạn!

                  Tôi tức tới nỗi biết phải làm gì, phân vân biết nên đâm phát chết ngay hay đợi buổi tối sai A Độ đến tẩn cho trận!

                  :

                  - Có điều... Nếu tâm trạng thoải mái ... ta mới tiết lộ chuyện hôm nay.

                  Tôi nhìn vẻ đầy cảnh giác:

                  - Thế nào ngươi mới thoải mái?

                  Lý Thừa Ngân xoa cằm:

                  - Để ta nghĩ ...

                  Tôi hằm hè bảo:

                  - Nghĩ cái gì mà nghĩ? Tóm lại, ta trước, nếu ngươi dám tiết lộ, ta lập tức sai A Độ đến chém chết ngươi!

                  - Trừ phi ... hôn ta!

                  - Hả?

                  - hôn ta, ta kể với ai nữa...

                  Tôi nhìn đầy vẻ ngờ vực. Lý Thừa Ngân của ngày hôm nay ràng giống Lý Thừa Ngân của thường ngày. Trước kia chúng tôi với nhau chưa quá ba câu cãi lộn. Lý Thừa Ngân là loại người đáng hận, đáng giận, đáng ghét... nhưng hôm nay tự nhiên lại trở nên vô lại, khốn nạn, lưu manh...

                  Tôi quyết tâm đánh liều phen:

                  - Ngươi hứa rồi đấy nhé?

                  - Quân tử nhất ngôn, tứ mã nan truy.

                  Đành vậy, tôi thả đao xuống, nhắm tịt mắt, cắn phập vào mặt . Tôi nghiến lấy nghiến để cho đến khi hằn lên vết răng khiến đau đến rùng mình. Tôi hôn xong, toan xách đao bỏ bỗng vươn tay kéo tôi vào lòng.

                  lại gặm môi tôi! Aaaa...

                  gặm chán chê mới chịu buông tôi ra, còn tôi ngạt thở đến suýt chết, môi bỏng rát. Nhất định gặm sưng môi tôi rồi!

                  chìa ngón tay vuốt ve môi tôi rồi :

                  - Thế này mới gọi là hôn, biết chưa?

                  Tôi chỉ muốn đâm chết cho rồi. Chẳng qua tôi lo hai nước giao tranh, dân chúng lâm vào cảnh lầm than, máu chảy thành sông, xương chất thành núi... nên mới nín nhịn. Tôi ngoác miệng bảo:

                  - Đội ơn Điện hạ chỉ bảo thần thiếp!

                  - cần cám ơn. Bây giờ biết rồi, vậy hôn ta .

                  Tôi nhảy chồm lên vì tức:

                  - Vừa nãy hôn rồi còn gì! Ngươi định lật lọng hả?

                  - Vừa nay là ta hôn , nào có hôn ta!

                  Vì hòa bình hai nước, nhịn nào!

                  Tôi níu chặt vạt áo , bắt chước kiểu gặm môi của . Đùi gà, đùi gà, đùi gà này... cứ coi như gặm đùi gà vậy! Tôi gặm! Này gặm! Gặm, gặm, gặm!

                  Gặm chán chê, tôi bèn buông tay, bỗng nhiên thấy phần cổ và mang tai của đỏ lựng, thậm chí mắt cũng vằn đỏ, thở hổn hển.

                  - Điện hạ lại sốt à?

                  chối:

                  - ! có thể được rồi.

                  Tôi sửa sang lại váy áo, vuốt lại mái tóc, cầm chắc thanh đao rồi hùng dũng bỏ ra ngoài.

                  Bên ngoài vắng tanh, tôi thẳng về tẩm điện của mình mới thấy mặt đám cung nữ. Thấy tôi, đứa nào đứa nấy ngẩn mặt đứng nhìn, chẳng ai nhớ là phải hành lễ với tôi. Đám cung nữ ấy do tay Vĩnh Nương chọn lựa, ai nấy vẻ y chang Vĩnh Nương, nhất nhất tuân thủ cung quy.

                  Lúc tôi soi gương mới hiểu, chẳn trách bọn họ lại nghệt mặt như thế.

                  Trông tôi nào có khác ma quỷ... Đầu bù tóc rối, váy áo xộc xệch, mồm miệng sưng vù. Y như rằng, tên Lý Thừa Ngân khốn nạn ấy gặm khiến môi tôi sưng vều. Đám cung nữ xúm quanh hầu tôi thay áo, chải đầu, may mà kẻ nào dám thắc mắc, bọn chúng mà biết tôi còn mặt mũi nào để sống ở Đông cung này nữa. cơn hậm hực, đột nhiên có tiếng từ ngoài cửa truyền vào, Lý Thừa Ngân phái thái giám mang đồ tới cho tôi. Đúng là chuyện lạ từ trời rơi xuống, ai cũng biết Lý Thừa Ngân ghét bỏ tôi như xúc đất đổ , làm gì có chuyện tặng quà chứ!

                  Tôi lấy làm lạ, bình thường cãi nhau với Lý Thừa Ngân, phớt lờ tôi đến mấy ngày trời. Hôm nay vừa mới đánh nhau trận to, lại sai người mang quà đến, chuyện này lạ quá mất!

                  Nhưng tôi sợ, liền bảo:

                  - Truyền vào!

                  tay gã thái giám được phái tới là cái khay phủ vải lĩnh đỏ, biết bên trong là gì. Tên thái giám đó đứng trang nghiêm đọc khẩu dụ:

                  - Điện hạ , trong lúc nôn nóng xé hỏng đai áo của Thái tử phi, Điện hạ lấy làm áy náy, nay ban riêng cho Thái tử phi đôi lụa uyên ương. Điện hạ , đáng lẽ phải đích thân thắt cho Thái tử phi, ngặt nỗi vừa rồi quá sức, lại đổ mồ hôi, e nhiễm lạnh, đành cáo lỗi đến được. Điện hạ còn , Điện hạ tuyệt đối tiết lộ chuyện hôm nay cho người khác biết, xin Thái tử phi yên tâm.

                  Tôi suýt ngất xỉu vì ức. Trong đám cung nữ có kẻ ngẩng mặt nhìn trời, có kẻ cúi gằm nhìn thảm, có kẻ mím chặt môi, cũng có kẻ mặt nhăn như bị, lại có kẻ cơ mặt co giật như cố nín cười... Tóm lại là chẳng ai dám nhìn tôi, tất cả đều tỏ ra lơ đễnh, nghe thấy gì.

                  Lý Thừa Ngân, ngươi giỏi lắm! Ngươi dám bảo để người khác biết à? Ngươi chỉ thiếu điều bố cáo cho toàn thiên hạ biết thôi! Lại còn cố tình úp úp mở mở... cho thêm phần nhập nhằng! Người ta nghĩ linh tinh mới lạ!

                  Tôi nghiến răng ken két, hồi lâu mới nặn ra nụ cười:

                  - Thần thiếp tạ ơn Điện hạ!

                  Lúc này, tiểu thái giám mới khúm núm quỳ xuống lạy tôi, dâng khay quá đỉnh đầu. để cung nữ mó tay, đích thân tôi lật tấm lĩnh lên, quả nhiên có đôi lụa tuyệt đẹp thêu hình uyên ương, trông rất phô trương. Tôi tức mình suýt ngã vật ra ngất xỉu. Cung nữ hầu cận liền rảo bước lại gần, đỡ cái khay giúp tôi.

                  Tôi biết loại người như Lý Thừa Ngân bao giờ để tôi được sống yên ổn, nhưng ngờ lại đến mức chơi trò đốn mạt này. Chập tối, A Độ kéo Vĩnh Nương quay về. Chưa quá nửa tuần trà có người đem chuyện lụa uyên ương kể cho bà ấy nghe. Vĩnh Nương dám gì nhưng mặt mày hớn hở, thấy môi tôi sưng vếu còn sai người chuẩn bị bữa canh đêm. Tôi dám chắc người của Đông cung bây giờ ai nấy đều biết chuyện tôi bước ra từ tẩm điện của Lý Thừa Ngân với bộ dạng xộc xệch, đến đai áo biến đằng nào cũng chẳng hay, thế rồi Lý Thừa Ngân còn ban tặng tôi đôi lụa uyên ương.

                  Lụa uyên ương à, mới nghĩ tới ba chữ ấy thôi, tôi nổi da gà. Thà Lý Thừa Ngân ban ba thước lụa trắng, tôi còn thấy quý, đằng này lại ban lụa uyên ương, ràng mưu gì đó.

                  Nhưng người trong Đông cung nào có nghĩ vậy, nhất là đám cung nữ hầu hạ tôi. Họ tưởng tôi thu phục được Lý Thừa Ngân nên bây giờ lấy làm mát lòng mát dạ.

                  - A di đà Phật, cuối cùng Điện hạ cũng hồi tâm chuyển ý!

                  - Ả tiện nhân họ Triệu kia ắt bỏ bùa Điện hạ rồi, ả vừa bị nhốt, Điện hạ lập tức quan tâm tới Thái tử phi.

                  - Phải đấy! Nương nương nhà ta trời sinh dung mạo mỹ miều, làm gì có chuyện được Điện hạ sủng ái!

                  - Muội có để ý vẻ mặt nương nương lúc thấy đôi lụa đó , má ửng hồng thẹn thùng đấy nhé...

                  - Nếu là tỷ, tỷ cũng thẹn ấy chứ! Điện hạ là mạnh dạn... Giữa thanh thiên bạch nhật lại sai người ban tặng nương nương...

                  - Còn bạo hơn ấy chứ... Tỷ thấy nương nương lúc trở về à, đầu bù tóc rối, đến y phục cũng bị xé... Xem ra Điện hạ nôn nóng lắm đây... Hi hi...

                  ...

                  Tôi lồm cồm bò dậy, nghe cung nữ gác đêm rủ rỉ to , chỉ muốn gào lên to rằng, đấy phải , phải đâu! Tôi tức quá mới đỏ mặt đấy chứ! Áo váy bị rách là do đánh nhau cơ mà! Tóm lại, chuyện này hề giống như mấy người bọn họ tưởng tượng.

                  Vả chăng Lý Thừa Ngân chẳng lòng thích tôi, mà đúng ra, rắp tâm đặt điều xấu.

                  ngờ ngoài trò bôi nhọ tôi ra, còn cố tình ngậm máu phun người.

                  Hai hôm sau, Hoàng hậu gọi tôi vào cung. Tôi vái chào xong, người sai cung nữ đỡ tôi dậy như thường lệ, cũng ban ngồi. Hoàng hậu ngồi ngự tọa, độc thoại bài dài lê thê. Tuy lời lẽ vẫn nhã nhặn, khách sáo như mọi ngày nhưng nghe là biết người khuyên răn tôi.

                  Tôi chỉ còn nước cứ thế quỳ dưới sàn, lắng nghe từng câu răn đe.

                  Lần này đúng là chuyện hy hữu xưa nay chưa từng có. Trước kia, thỉnh thoảng người cũng mắng mỏ tôi, thường là vì những chuyện quá trớn tôi làm, ví dụ đểnh đoảng, thiếu phép tắc trong đại lễ, hoặc vô ý buông lời xui xẻo lúc lễ tổ... Nhưng bắt tôi quỳ ở đây rồi mắng trận thế này, quả là lần đầu tiên.

                  Người bắt đầu dẫn chứng nào là Nữ huấn, Nữ giới, sau lấy gương Hoàng hậu Chương Tuệ nổi tiếng hiền đức của bản triều... Người thao thao bất tuyệt, giảng giải bằng lời lẽ nho nhã, trưởng giả, tôi nghe mà rầu ruột thối gan, thậm chí đầu gối bủn rủn cũng dám đưa tay xoa nắn. Thực ra, Hoàng hậu thừa biết người như tôi thể hiểu được lời lẽ bóng gió xa xôi của người, quả nhiên, để chốt lại bài diễn thuyết ấy, Hoàng hậu thở dài não nề, bảo:

                  - Con là Thái tử phi, là chính thất của Đông cung, là mực thước cho thiên hạ. Ngân Nhi tuổi trẻ bồng bột, đáng lý con phải ở bên khuyên nhủ, vì đâu lại hùa theo Ngân Nhi làm điều càn quấy? Chẳng cớ gì hoàng tộc ta, mà người vợ bình thường cũng phải biết chừng mực, khép nép...

                  Thoáng nhận ra ý của người, tôi lập tức phân bua:

                  - phải thế đâu ạ! Tại Điện hạ...

                  Hoàng hậu nhìn lướt qua tôi, ngắt lời, bảo:

                  - Ta biết lỗi là ở Ngân Nhi, vấn đề ở chỗ hoàng nhi bệnh, chẳng lẽ con lại biết đường từ chối? Vừa ốm dậy biết kiêng cữ, ngộ nhỡ đổ bệnh nặng hơn phải làm sao? Tương lai con đăng cơ hoàng hậu, con là tấm gương cho hậu cung, là người đứng đầu lục cung, nếu cứ thế này, mai kia con người khác thế nào đây?

                  Tôi vừa tức vừa thẹn, chỉ mong có cái lỗ nẻ để chui xuống. ràng Hoàng hậu mắng tôi vô ý vô tứ, biết Lý Thừa Ngân bệnh mà còn... làm... chuyện... đó. Đúng là chỉ trời mới biết, chúng tôi có làm gì đâu... hề mà!

                  Oan ức quá! ràng tôi bị oan!

                  Hoàng hậu thấy tôi ngân ngấn nước mắt chắc mẩm mình khuyên răn đủ rồi, liền :

                  - Đứng lên ! Ta chỉ muốn tốt cho con thôi, con biết chuyện này mà truyền ra ngoài khó nghe thế nào ? Vợ chồng son thân mật là chuyện bình thường nhưng cũng phải lựa lúc, lựa nơi. Trung Nguyên chúng ta bì được với Tây Lương, câu bỗ bã chẳng khác nào con dao, nhất là trong cung cấm, những chuyện gièm pha đủ để giết người đấy.

                  Vành mắt tôi đỏ hoe:

                  - Con xứng với ngôi vị Thái tử phi này... Con làm nữa đâu.

                  Hoàng hậu làm như nghe thấy, quay sang dặn dò Vĩnh Nương:

                  - Chăm sóc Thái tử phi cẩn thận, còn nữa, Thái tử còn bệnh, Thái tử phi trẻ người non dạ, trách nhiệm lại nhiều, Thái tử phi phải thuốc thang hầu hạ Thái Tử, để Thái tử phi chép phạt Nữ huấn mười lần.

                  Tôi thầm tức tối, cứ như tôi là hồ ly tinh cần đề phòng ấy! Cuối cùng tôi vỡ lẽ, ra Lý Thừa Ngân dựng màn kịch này để tôi chui đầu vào rọ.

                  Lụa uyên ương cái gì chứ? Hại nhau còn hơn cả lụa trắng, lại phải chép phạt mười lần Nữ huấn, thế này giết tôi rồi còn gì!

                  Vừa trở về Đông cung, tôi muốn xách đao tìm Lý Thừa Ngân, sống mái phen. dám bày mưu hại tôi, chán sống rồi! Nhưng Vĩnh Nương cứ kè kè ở bên, thậm chí còn bố trí cung nữ giúp tôi mài mực, trải giấy, tôi đành nuốt hận chép Nữ huấn. Chữ Trung Nguyên vốn khó viết, hễ viết xong chữ nào, tôi lại chửi thầm Lý Thừa Ngân lượt. Chép được mấy dòng, tính tổng cộng tôi chửi Lý Thừa Ngân quá trăm bận.

                  Trời tối, rồi chờ mãi đến nửa đêm, nhân lúc đêm khuya, tôi rón rén choàng áo. Nghe tiếng tôi lục sục, A Độ cũng bật dậy, tôi thào :

                  - A Độ, cho ta mượn thanh đao của muội.

                  Tuy chưa hiểu tôi muốn làm gì nhưng A Độ vẫn giao thanh đao cho tôi. Tôi gì, chỉ giấu thanh đao vào áo, rồi khoác thêm áo gấm. có A Độ giúp đỡ, tôi qua mặt được đám cảnh vệ Vũ lâm quân trong Đông cung, thôi đành dẫn A Độ theo vậy. Chúng tôi rón rén mở cửa bên hông tẩm điện, băng qua cây cầu, nhắm thẳng hướng tẩm điện của Lý Thừa Ngân. Chúng tôi vừa đặt chân lên cầu, A Độ bỗng sững lại.

                  ra đúng lúc này, Vĩnh Nương xách lồng hương tới, phen này bị bắt tại trận rồi.

                  Mà cũng trùng hợp , tự nhiên tôi quên khuấy mất đêm nay là đêm rằm, rằm nào Vĩnh Nương chẳng vái trăng. Tôi lưỡng lự toan bảo A Độ đánh ngất bà ấy, bà ấy lại hét toáng lên gọi Vũ lâm quân tới áp giải chúng tôi quay về hay chút nào. Ai ngờ Vĩnh Nương thấy hai đứa tôi, thoạt đầu nghệt mặt, sau lại ngoái đầu nhìn ánh đèn thoắt thoắt phía tẩm điện của Lý Thừa Ngân, đoán nơi chúng tôi sắp tới.

                  Tôi nhân cơ hội quay sang nháy mắt giục A Độ mau hạ gục Vĩnh Nương. ngờ Vĩnh Nương khẽ buông tiếng thở dài trước khi tôi kịp nháy mắt, bà ấy chẳng chẳng rằng lách qua chúng tôi, rồi xách lồng hương thẳng.

                  Vĩnh Nương được vài bước, chợt ngoái đầu với tôi câu. Bấy giờ tôi rất bối rối, khó xử.

                  - Trời khuya trở gió lạnh, Thái tử phi thăm Điện hạ xong nhớ về sớm, chớ để nhiễm lạnh.

                  Tôi vô cùng tức tối, ra bà ấy tưởng tôi gặp riêng Lý Thừa Ngân!

                  Chuyện này... chuyện... này...

                  Thôi vậy!

                  Tôi dẫn A Độ tiến về phía tẩm điện của Lý Thừa Ngân, ngày nào chưa cho trận ngày đó tôi khó mà sống được với mối nhục này.

                  Dừng trước bờ tường bao ngoài tẩm điện, A Độ nhàng kéo tôi nhảy vọt lên chóp tường. Cả hai loay hoay giữ thăng bằng, bỗng có tiếng quát lớn:

                  - Có thích khách!

                  Liền đó là tiếng binh khí sắc lẹm chém vào khí, tiếng cung nỏ lên dây... Mưa tên ào ào bắn đến, chẳng khác gì đàn châu chấu bay kín trời kín đất, còn tôi vẫn ngơ ngác. Đèn đuốc vụt sáng chỉ trong nháy mắt, A Độ che trước mặt tôi, vung đao chặn đứng làn tên bay. Chỉ e A Độ cũng trụ được bao lâu, vào lúc túng quẫn, tôi loay hoay toan nhảy tường quay về, tránh làm A Độ bị thương. Ai ngờ chỉ sau cái sảy chân, tôi ngã nhào xuống.

                  Bờ tường cao chót vót!

                  Gió vun vút lướt qua tai, phen này... Ngã phen này thể nào cũng tan xương nát thịt.

                  Tôi ngã ngửa ra sau, vẫn đủ để thấy vẻ mặt hốt hoảng của A Độ. Muội ấy phi thân lao xuống toan đỡ tôi, sau lưng muội ấy là vòm trời đen kịt điểm vài đốm sao thưa thớt như hạt vừng rơi vãi, mỗi lúc cao, xa, chẳng mấy chốc vầng trăng mất hút sau góc điện...

                  Bụng bảo dạ A Độ kịp bắt mình rồi, tôi ngã bất ngờ mà chóng váng quá. Đúng lúc tôi tuyệt vọng, đột nhiên có người ôm lấy eo tôi, tốc độ rơi chậm dần, người ấy xoay người ôm gọn cơ thể tôi vào lòng. Búi tóc đầu bị gió đánh sổ tung, lòa xòa trước mặt, tôi chỉ nhìn thấy bộ giáp bạc của chàng phản chiếu ánh lửa bập bùng, chúng lướt qua như những bông hoa xinh nở rộ thân áo. Hoa lửa li ti phản chiếu trong đôi mắt chàng, đôi mắt ấy chăm chú nhìn tôi.

                  Đúng là cảnh hùng cứu mỹ nhân như bao lần tôi từng mơ, chàng ôm lấy tôi cùng làn gió đêm xoay vòng... xoay vòng... xoay rồi cứ xoay... Sao điểm đầy trời tưởng giọt mưa sa... Giữa đất trời bao la, hai mắt chàng vẫn đắm đuối nhìn vào mắt tôi.

                  Đôi mắt ấy đong đầy bóng hình tôi...

                  Mình say mất, say rồi. Được nằm trong vòng tay chàng, đúng là chàng rồi...

                  - Bẩm Thái tử phi!

                  Chân tôi đáp xuống mặt đất, tôi ngỡ ngàng bừng tỉnh nhìn người trước mặt. Người đó mặc bộ giáp bạc, mặt mày sáng sủa, khí phách hiên ngang, lẽ nào chính là chàng? Chính chàng là người bao lần xuất trong giấc mơ của tôi, là người hùng kiệt xuất bao lần cứu tôi khỏi hiểm nguy?

                  Bốn bề ngừng bắn tên, Bùi Chiếu thả tôi xuống đất, đoạn khom người hành lễ, bấy giờ tôi mới để ý tay mình vẫn níu chặt tay . A Độ lao đến kéo tay tôi, cẩn thận kiểm tra xem tôi có bị thương chỗ nào . Tự nhiên tôi thấy lúng túng, khó xử. Người hùng tôi thường mơ thấy lẽ nào là Bùi Chiếu? Thế nhưng... sao đến chính tôi cũng nhớ nhỉ? Mà Bùi Chiếu cũng khôi ngô, võ công cũng thuộc dạng cao cường, chỉ là... sao lại có thể là gã nhỉ? Tai tôi nóng bừng, đoạn liếc mắt về phía đó.

                  Tối nay xuất quân đúng là thất bại, thoạt đầu đụng phải Vĩnh Nương, sau lại chạm mặt Bùi Chiếu.

                  Bùi Chiếu khẽ phẩy tay, cung thủ và thị vệ của Vũ lâm quân nháy mắt rút lui mất dạng. Tôi thấy mình cũng nên gì đó, nghĩ đằng lại khen nẻo:

                  - Khá khen Bùi Tướng quân dụng binh như thần...

                  - Mong Thái tử phi trách mạt tướng manh động. - Bùi Chiếu chắp tay vái lễ. - Mạt tướng biết Thái tử phi vượt tường vào, xin Thái tử phi thứ tội.

                  - Cái này trách ngươi được, tại ta trèo tường vào, khiến các ngươi tưởng lầm có thích khách.

                  - đêm hôm khuya khoắt, Thái tử phi đến đây có việc gì ạ?

                  Tôi có phải kẻ ngốc đâu, dại dột gì mà lại khai ra tôi đến tìm Lý Thừa Ngân tính sổ. Tôi bèn cười giả lả:

                  - Lý do ta đến, cho ngươi biết được.

                  Vẻ mặt Bùi Chiếu vẫn lạnh tanh, gã cúi đầu thưa:

                  - Vâng ạ!

                  Tôi dẫn A Độ ngông nghênh tiến về phía trước, bỗng bị Bùi Chiếu gọi giật lại:

                  - Bẩm Thái tử phi!

                  - Gì thế?

                  - Tẩm điện của Điện hạ ở đằng này, phải bên đó ạ!

                  Tôi thẹn quá hóa giận, bèn ném cho gã cái lườm, vậy mà gã vẫn cung kính đứng đó như thể nhận thấy cái lườm của tôi. Tôi đành quay lại, theo con đường gã vừa chỉ.

                  Dừng trước cửa tẩm điện của Lý Thừa Ngân, tôi dặn A Độ:

                  - Muội ở ngoài canh cửa, cấm cho kẻ nào lại gần.

                  A Độ gật đầu dùng tay làm dấu, ý bảo tôi cứ an tâm.

                  Tôi tiến vào tẩm điện, cung nữ trực đêm vẫn thức chơi đố chữ dưới ánh đèn, tôi rón rén luồn qua lưng họ, ai phát ra tôi, rồi tôi mon men mò vào trong nội điện.

                  Góc phòng thắp ngọn đèn, ánh nến hư ảo, mịt mùng đổ bóng lên tấm màn, tựa sóng nước dập dềnh khẽ vỗ. Tôi nín lặng, từ từ bước đến bên giường, khẽ vén màn lên, cẩn thận để gây ra bất kỳ tiếng động nào. Bỗng tiếng “vút” ập đến, tôi nghiêng mặt né theo bản năng, làn gió lạnh sượt qua mặt, chà vào gò má ran rát. Tôi bị ghì chặt giường, chỉ kịp thấy đất trời nghiêng ngả. Trước khi kịp thốt lên bất cứ câu nào, lưỡi đao sắc lẹm kề sát cổ, chỉ e lát nữa thôi cái thứ ấy rạch toác họng mình. Tóc gáy tôi dựng đứng cả lên.

                  Trong bóng tối, tôi thấy Lý Thừa Ngân với vẻ mặt rắn đanh lạ lùng như vừa biến thành kẻ nào đó chứ phải là thường ngày. Ánh mắt đóng đinh vào tôi, có nằm mơ tôi cũng chẳng ngờ Lý Thừa Ngân lại thủ đao bên mình, thậm chí ngủ giường mà cũng đề cao cảnh giác.

                  - Là à?

                  Lý Thừa Ngân thu lại thanh đao, dáng dấp trở về với tác phong quen thuộc. hỏi tôi, dáng vẻ uể oải:

                  - Nửa đêm nửa hôm mò tới đây làm gì?

                  - Hả... làm gì cả.

                  Tất nhiên tôi thể mình mò đến để gói thành cái bánh chưng, rồi giã cho trận tơi bời, hòng trả mối thù bị hãm hại kia.

                  cười mà như , rồi liếc mắt nhìn tôi:

                  - À, ta biết rồi, nhớ ta nên mò tới thăm chứ gì?

                  Tôi tức tối, lập tức nhớ lại chuyện dùng lụa uyên ương hãm hại tôi, khiến tôi bị Hoàng hậu mắng trận tơi bời rồi còn phạt chép sách. Này chép sách! Tôi căm thù chép sách! Tôi rút phắt thanh đao giấu trong áo ra, nghiến răng nghiến lợi bảo:

                  - Điện hạ đoán đúng rồi đấy, thần thiếp nhớ Điện hạ quá!

                  vẫn vênh mặt, thậm chí còn khẽ cười:

                  - Hóa ra con Tây Lương thường xách đao tìm người thương!

                  - Đừng luyên thuyên. - Tôi kề đao vào cổ . - Giao nộp đao của ngươi ra đây.

                  sáp lại gần:

                  - bảo ta phải đưa chắc?

                  - Này, đừng có qua... Á...

                  Nửa câu sau của tôi bị đẩy trôi tuột xuống bụng, rồi vai bị ghì chặt. để tôi kịp trở tay, gặm môi tôi!

                  ... quá đáng!

                  Lần này gặm khá từ tốn, như thể giải quyết con cua. Hồi trước tôi từng thấy Lý Thừa Ngân ăn cua, phải là... quá giỏi. Ăn xong phần thịt ở mai, còn có thể ghép lại y nguyên hình dáng ban đầu của con cua, lợi hại hơn cả đám con thạo thêu thùa ở Trung Nguyên. Tôi khoa tay múa may thanh đao sau lưng , chỉ hận thể xọc cho nhát. tôi cũng chẳng sợ gì, chỉ sợ có chiến tranh, cha già lắm rồi, chỉ e đủ sức đánh nhau với Trung Nguyên, lúc đó Tây Lương khó mà thắng nổi. Mình phải nhịn... phải nhịn... gặm chán chê rồi mới chịu rời môi tôi, nhưng để tôi kịp thở lấy hơi, liền rà môi xuống cổ. Xong rồi, xong rồi, nhất định tính gặm sạch mình như gặm cua đây mà. gặm nhấm làm cổ tôi ngưa ngứa, buồn buồn, khó chịu sao kể hết. Sau đó, lại mon men lên tai, phen này chết mất thôi, tôi sợ nhất có người chọc tôi buồn. cứ thở bên tai tôi như thế, chỉ thiếu điều tôi cười lên sằng sặc, toàn thân bủn rủn, thậm chí thanh đao tay cũng bị giành mất. quẳng thanh đao sang bên, rồi lại lần tìm môi tôi.

                  Tôi thấy là lạ, rồi biết từ lúc nào, tay luồn vào lớp áo trong của tôi. Cánh tay siết chặt eo đến nỗi tôi cựa quậy được, bèn la toáng lên:

                  - Ngươi... Ngươi... Bỏ tay ra! ta gọi A Độ bây giờ!

                  Lý Thừa Ngân cười, bảo:

                  - Cứ gọi ! có gọi cả Đông cung đến, ta cũng chẳng bận tâm. Nửa đêm nửa hôm chính mò vào giường ta cơ mà.

                  Tôi tức đến suýt ngất xỉu. Quá... quá... quá đáng ghét! Miệng hở ra câu nào là chướng tai câu nấy. Mò vào giường cái gì chứ? Tôi... tôi... tôi phen này có nhảy xuống sông Hoàng Hà cũng rửa được nhục.

                  Đúng lúc tôi tức tối tính xọc cho nhát đao đột nhiên có luồng gió từ ngoài mành xộc thẳng vào. Nhanh như cắt, Lý Thừa Ngân vội đẩy tôi văng vào góc giường, bấy giờ mới nhìn kĩ, ra là thanh trường kiếm. Nhờ cú đẩy của mà tôi thoát, còn trúng nhát kiếm xuyên qua ngực phải. Tôi hét lên thất thanh, A Độ liền sộc vào, gã thích khách rút kiếm chĩa vào Lý Thừa Ngân. Đao của A Độ đưa tôi cầm rồi còn đâu, lúc ấy tình thế gấp rút, muội ấy chỉ kịp rút chân nến bàn phi về phía thích khách. Cánh tay của A Độ rất khỏe, giá nến như cây trâm dài xé gió lao vút trong khí, song tên thích khách vẫn kịp né. Tôi liền gọi:

                  - Người đâu! Có thích khách!

                  Ngay lập tức, Vũ lâm quân trực đêm phá cửa lao vào. A Độ vẫn mải vật lộn với gã thích khách. Tiếng la hét vang vọng khắp nơi ngoài tẩm điện, trước sân nhốn nháo. Người ùa tới ngày càng nhiều, gã thích khách thấy tình thế bất lợi liền nhảy vọt qua cửa sổ, A Độ lập tức đuổi sát theo sau.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :