1. QUY ĐỊNH BOX XUẤT BẢN :

       

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]

    ----•Nội dung cần:

    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)

    - Tác giả

    - Dịch giả

    - Đơn vị phát hành

    - Số trang ( nên có)

    - Giá bìa (nên có)

    - Ngày xuất bản (nên có)

    --- Quy định

    1 . Thành viên post có thể tự type hoặc copy từ nơi khác (để nguồn)

    2 . Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn

    3. Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ

    Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Bến Xe - Thương Thái Vi

Thảo luận trong 'Sách XB Hoàn'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      Bến xe
      [​IMG]
      Tác giả: Thương Thái Vi

      Dịch giả: Greenrosetq

      Giá bìa: 79.000 ₫

      Công ty phát hành: Đinh Tị

      Nhà xuất bản: NXB Thời Đại

      Kích thước: 16 x 16 cm

      Số trang: 304

      Ngày xuất bản: 01/11/2013

      Chụp pic: chubbycheeks

      Type

      Hạnh Nga: 1-8

      darknessflower98: 9-14

      arie_2106: 15-hết

      Beta: Tang Tử

      Làm ebook: Dâu Lê


      Giới thiệu



      Trong cuộc sống thực, khi mỗi con người cất tiếng khóc chào đời, rồi lớn lên, rồi trưởng thành, rồi gặp được người trong định mệnh…Tất cả những giai đoạn đó, đều tuân theo quy luật được định sẵn, quy luật đó mang tên “Vận mệnh”. Khi đọc “BếnXe” của tác giả Thương Thái Vi, tôi mới thấm thiết cái quy luật mang tên “Vận mệnh” đó lại tàn nhẫn và bất công đến mức khiến tôi cảm thấy sợ hãi, ai có thể tự lựa chọn vận mệnh cho mình, chúng ta có thể là thiên tài nổi trội cũng có thể là con người bình thường trong dòng dòng xã hội. Tuy nhiên, chúng ta có thể dùng nghị lực để thách thức rồi đối đầu với chính vận mệnh đó, và cuộc đời của thầy Chương Ngọc cùng với học trò của thầy trong “Bến Xe” là ví dụ như vậy.

      ~~~~~~~~~~~~~

      Bến xe của tác giả Trung Quốc Thương Thái Vi là câu chuyện tình cảm động giữa thầy giáo dạy Văn khiếm thị Chương Ngọc và học trò cấp ba Liễu Địch.

      Chương Ngọc là người tài hoa và có nhân cách cao đẹp, đám cháy lớn cướp của tất cả tài sản và đôi mắt. Chương Ngọc xin về làm giáo viên dạy Văn tạm thời tại trường trung học. Mang trong lòng nỗi mặc cảm và kiêu hãnh, Chương Ngọc tạo cho mình vỏ bọc lạnh lùng, khác người, chấp nhận bất kỳ giúp đỡ thương hại nào của bạn bè, đồng nghiệp.

      Liễu Địch là học trò hồn nhiên, trong sáng, văn chương và có tấm lòng nhân hậu. Những bài giảng của thầy giáo mù Chương Ngọc cho biết ước mơ, dạy biết hướng tới lý tưởng sống cao đẹp. Cảm động trước những bài học của thầy, Liễu Địch kiên quyết muốn giúp đỡ thầy giáo trong cuộc sống. tình nguyện làm trợ lý cho thầy ở trường, đưa thầy từ trường ra bến xe, chấm bài giúp thầy. Nhờ Liễu Địch, Chương Ngọc tìm lại ánh sáng cho tâm hồn mình từ khi mất đôi mắt.

      Hai tâm hồn, tính cách, thế hệ cách xa nhau nhưng tìm thấy ở nhau đồng điệu. Ở họ, ngoài tình thầy trò còn nhem nhóm tình thầm, cao cả, thánh thiện. "Bến xe" là dụ về điểm dừng trong cuộc đời mỗi con người, khi người ta nhìn lại những điều qua và lạc quan chờ đợi những gì tới.
      Last edited by a moderator: 31/7/14

    2. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

                  Chương 1


      Liễu Địch lại đứng trước cánh cửa văn phòng đó.

      Vừa qua mười hai giờ trưa, cả tòa nhà vắng vẻ, tĩnh mịch, chỉ có tiếng ve sầu kêu râm ran biết mệt mỏi những tán cây ngoài sân trường. Liễu Địch lau mồ hôi trán, điều hòa nhịp thở dồn dập do chạy mạch tới đây. giơ tay, gõ lên cánh cửa hai tiếng.

      “Mời vào!” Bên trong vọng ra giọng trầm thấp, lịch nhưng lạnh nhạt. Liễu Địch đẩy cửa, vào phòng.

      Đây là văn phòng làm việc đơn giản như thể đơn giản hơn. Trong phòng chỉ có cái bàn làm việc, hai chiếc ghế đặt đối diện nhau. bàn có chiếc bình giữ nhiệt với vỏ ngoài bằng sắt, hai tách trà sứ màu trắng, chiếc cặp da đen, lọ mực đỏ có cắm chiếc bút. Bên cạnh đó là đống vở bài tập xếp ngay ngắn.

      người đàn ông ngồi chiếc ghế tựa vào cửa sổ. mặc bộ đồ đơn giản, áo sơ mi trắng, quần đen, gọn gàng, sạch nhưng có vẻ cứng nhắc, giống hệt văn phòng của .

      Thần sắc người đàn ông nhợt nhạt, vậy mà gương mặt đó còn có cặp kính đen cỡ lớn, tựa hồ chiếc đầu lâu được khảm hai hốc mắt đen sì, mang lại cảm giác u ám, đáng sợ.

      điều kỳ lạ là người đàn ông ngồi ngược sáng, gương mặt càng trở nên tăm tối. giống xác chết biết , khiến người đối diện có cảm giác lạnh lẽo và rờn rợn. Căn phòng này cũng trầm lặng giống như chủ nhân của nó. Thứ có sinh khí duy nhất là chậu hoa nhài bệ cửa sổ. Những nụ hoa trắng muốt hé nở, theo làn gió nhè , tỏa hương thơm thấm vào lòng người.

      Thầy giáo chỉ tay vào chiếc ghế đối diện. Liễu Địch liền đến rồi ngồi xuống. lấy quyển vở đầu tiên trong đống vở bài tập bàn cách thành thạo, sau đó hắng giọng, bắt đầu đọc to: ““Phụ thân”. Lưng của người lại còng rồi…”

      “Dừng!” Thầy giáo quả quyết ngắt lời Liễu Địch. “Đổi chữ “lại” thành chữ “càng”.” Liễu Địch cầm bút sửa lại, có thói quen phục tùng thầy giáo từ lâu. Thầy giáo có nhạy cảm đến mức cực đoan đối với chữ nghĩa. Điều này khiến Liễu Địch tâm phục khẩu phục.

      Sửa xong, Liễu Địch lại đọc tiếp…

      Sau khi đọc xong bài văn, thầy giáo trầm tư lát rồi lên tiếng: “Em hãy viết nhận xét: Nếu câu từ chuẩn xác, trang nhã, chẳng khác nào quần chưa kéo khóa lên sân khấu biển diễn.”

      Liễu Địch đỏ mặt nhưng vẫn viết câu đó. biết phong cách phê bình của người thầy trước mặt, chỉ , hai câu ngắn gọn nhưng như con dao sắc nhọn, cắm sâu vào chỗ hiểm cách quả quyết và chuẩn xác, khiến bạn rất đau đớn, nhưng lại có thể giúp bạn tìm được điều gì đó trong nỗi đau.




      Liễu Địch vẫn còn nhớ cảnh tượng lần đầu tiên thầy giáo nhận xét bài văn của cả lớp. Lúc phát vở bài tập, gần như các bạn trong lớp bị đả kích nặng nề bởi những lời nhận xét chỉ có khuyết điểm, có ưu điểm của thầy. Có người òa khóc ngay tại chỗ, có người chửi ầm lên. Thầy giáo chỉ yên lặng đứng bục giảng, coi như nghe thấy. Kể từ giây phút đó, mỗi lần làm văn, các bạn đều hết sức cẩn thận, dè dặt trong việc chọn đề tài và bố cục. Họ cũng thận trọng đặt câu, chỉ sợ lại bị thầy nhận xét cay nghiệt. Vậy mà cả lớp vẫn bị phê bình, mức độ ngày càng gay gắt. Nhận đả kích hết lần này đến lần khác, các bạn dần phát , trình độ làm văn của mình tiến bộ nhanh chóng.

      Liễu Địch là học sinh duy nhất chưa từng bị thầy phê bình. Bài văn của có lời nhận xét, chỉ có điểm số, điểm cao nhất lớp. Mặc dù lúc chấm điểm, thầy bao giờ hỏi ai viết bài văn này, Liễu Địch cũng bao giờ tiết lộ tên , nhưng đến khi trả bài, thầy luôn : “Liễu Địch, em hãy đọc bài văn của em cho cả lớp nghe.”

      Viết xong, Liễu Địch lại cầm quyển vở thứ hai lên…

      Lúc này bên ngoài cửa sổ, tiếng huyên náo dần át tiếng ve kêu. Phê xong quyển bài tập thứ mười, Liễu Địch nhìn đồng hồ đeo tay, giờ hai mươi lăm phút, thế là đứng dậy, cất giọng nhàng: “Thầy Chương, sắp đến giờ lên lớp rồi.”

      Thầy Chương cũng chầm chậm đứng dậy. Liễu Địch đến đỡ thầy, hai thầy trò cùng rời khỏi văn phòng.

      Ngôi trường cấp ba trọng điểm hàng đầu của tỉnh này có hai tòa nhà. Lớp 11-1 của Liễu Địch nằm ở tầng hai dãy phía nam, trong khi văn phòng của thầy Chương nằm ở tầng bốn dãy phía bắc. Hai thầy trò phải leo cầu thang khá cao, qua sân thể dục tương đối rộng. Tòa nhà phía bắc cũ kĩ, cầu thang lên xuống xập xệ. Liễu Địch vừa cẩn thận từng bước đề phòng mấy cậu nam sinh chạy hùng hục có thể lao vào mình. Mặc dù vậy, vẫn bị nam sinh cao lớn chạy lên tầng va phải vai. Liễu Địch vội vàng lắc đầu, ra hiệu cho cậu nam sinh im lặng. Sau đó, tiếp tục về phía trước như có chuyện gì xảy ra. Tuy bờ vai nhói đau nhưng vẫn buông tay khỏi thầy Chương.

      Giữa sân thể dục, đám học sinh nam lớp 12 đá bóng. Liễu Địch chau mày quan sát. sợ nhất là qua nơi này, sợ “đạn pháo” hai màu trắng đen bay bay lại đập trúng người, sợ những “cỗ xe tăng” đâm phải thầy Chương. Cũng như mọi hôm, rảo bước nhanh. May mà xảy ra cố, hai thầy trò ra khỏi “khu vực nguy hiểm” cách an toàn.

      Đến khu vực tòa nhà phía nam, khí dễ chịu hơn hẳn. Tòa nhà phía nam là dãy phòng học mới xây dựng chưa được hai năm. Các phòng học rộng rãi, sáng sủa, trông có vẻ giống những ngôi trường đại. Lúc này, Liễu Địch mới thở phào nhõm. đỡ thầy Chương vào lớp, tới chỗ bục giảng. Sau đó, mới quay về chỗ ngồi của mình.

      Liễu Địch khát khô cổ họng, bụng nhâm nhẩm đau do ăn cơm trưa quá vội. vuốt bụng theo thói quen, lặng lẽ rút quyển sách Ngữ văn. Tiếng chuông báo hiệu giờ lên lớp reo vang, thầy Chương cất giọng trầm trầm: “Chúng ta bắt đầu học.”

                  Chương 2


      Liễu Địch vĩnh viễn bao giờ quên cảnh tượng lần đầu tiên gặp thầy Chương Ngọc.

      Lúc đó, mới thi đỗ vào ngôi trường cấp ba trọng điểm có lịch sử lâu đời với thành tích đứng đầu toàn thành phố. Tuy nhiên, thành tích của khiến người khác vui mừng, còn bản thân hề cảm thấy tự hào. Liễu Địch nhanh chóng chán ngán tình cảnh gặp ai cũng được khen ngợi và chúc mừng. Mọi người đều gọi là “thiên tài”, trong khi đó rất ghét bị gọi là “thiên tài”.

      Liễu Địch còn nhớ, năm lên bốn tuổi, khi được bế đứng ghế, cất giọng non nớt đọc thuộc làu hai câu: “Xuân giang triều thủy liên hải bình. Hải thượng minh nguyệt cộng triều sinh” [1] trước mặt học giả, nhìn thấy ánh lệ lấp lánh trong mắt vị học giả đó. Kể từ lúc đó, Liễu Địch được gọi là “thiên tài”.

      [1] Hai câu thơ trong bài Xuân quang hoa nguyệt dạ (Đêm trăng hoa sông xuân) của Trương Nhược Hư, nhà thơ đời Đường, Trung Quốc. Dịch thơ: “Triều lên ngang mặt sông xuân. Biển đêm, trăng cũng sáng ngần sóng xô” (bản dịch của Nguyễn Lãm Thắng).

      Năm tuổi, Liễu Địch có bài thơ đầu tiên đăng tạp chí. Biên tập viên của tạp chí còn đến tận nhà chúc mừng . Nhìn chú biên tập viên mặt nhễ nhại mồ hôi, biết mình có chút tài năng. Sau đó, Liễu Địch đoạt giải nhất cuộc thi viết văn toàn quốc năm chín tuổi, tác phẩm của thường xuyên xuất báo và tạp chí, ngừng được thiên hạ gắn mác “thiên tài”.

      Chỉ là nghe quá nhiều, Liễu Địch lại đồng tình, thậm chí bắt đầu nghi ngờ bản thân rốt cuộc có phải là “thiên tài” hay ? Nhìn gương mặt thiếu nữ ngày càng xinh xắn trong gương, đột nhiên cảm thấy danh hiệu “thiên tài” mà giành được là dựa vào dung nhan này. Những xinh đẹp chỉ cần có chút tài hoa là dễ dàng được người khác phái ưu ái và coi trọng. thế giới, điều này là luật bất thành văn.

      Mỗi khi nghĩ đến nguyên nhân đó, Liễu Địch lại cảm thấy vô vị và chán nản. nhìn quá đủ những gương mặt tươi cười của người khác khi họ khen ngợi . Những gương mặt đó thể nhiệt tình quá mức, thành ra tự nhiên, Liễu Địch kết luận bằng hai từ “giả tạo”. cho rằng, ánh lệ trong ánh mắt vị học giả và mồ hôi trán chú biên tập viên mới là chân thực, mới là khẳng định từ “thiên tài” cách chuẩn xác nhất. Nhưng đó là chuyện từ ngày xửa ngày xưa, tại mười sáu tuổi, còn dám vỗ ngực tự xưng là “thiên tài” hay sao? Vì vậy Liễu Địch ngày càng ghét hai chữ “thiên tài”.

      Xét ở khía cạnh khác, là thiên tài sao chứ? vẫn có quyền lựa chọn cuộc sống của mình. thích văn học nhưng vẫn phải cắm đầu học các môn Toán, Lý, Hóa. May mà ông trời ban tặng cho bộ óc thông minh, cần chăm chỉ cũng có thể học tốt ba môn đó.

      Liễu Địch hiểu phải học những định luật, công thức và nguyên lý đó để làm gì. Trong tương lai, tuyệt đối sống dựa vào mấy môn học khô khan này. Nhưng Liễu Địch biết , nếu học mấy môn chán ngắt đó, thể thi đỗ đại học, được tiếp nhận nền giáo dục chính quy mang tính hệ thống. May mà năm lớp 11, trường bắt đầu phân ban, Liễu Địch có thể “bye bye” với môn Vật lý và Hóa học. Điều này khiến cảm thấy được an ủi phần nào.

      Từ trước đến nay, Liễu Địch muốn sống trái với ý nguyện của bản thân. Vì vậy tham gia đoàn thể, làm cán bộ lớp, thậm chí bỏ lỡ vô số cuộc thi văn do trường tổ chức. Nhưng vẫn phải ép mình học các môn tự nhiên. Trong cuộc sống, bạn vĩnh viễn có cách nào làm mọi việc theo ý mình, dù bạn có là thiên tài chăng nữa.

      Học ở ngôi trường trọng điểm, Liễu Địch mong bản thân được bạn bè để ý và quý, cũng hy vọng các thầy đề cao . tâng bốc ai, lấy lòng ai. chỉ cần cuộc sống chân thực, tự do, độc lập. hy vọng sau khi qua đời, bia mộ khắc câu của nhà văn người Pháp Stendhal [2] : “Từng sống, từng , từng sáng tác, từng phát biểu…”

      [2] Stendhal (1783-1842): trong những nhà văn nổi tiếng nhất của chủ nghĩa thực với các tiểu thuyết như Đỏ và đen, Tu viện thành Pama.

      Mang tâm trạng đó, Liễu Địch gặp thầy Chương Ngọc ở tiết ngữ văn đầu tiên của năm lớp 10.

      Liễu Địch vẫn còn nhớ , lúc thầy Chương Ngọc vào lớp, hiểu tại sao cả phòng học vốn ồn ào đột nhiên yên tĩnh hẳn. Ai nấy đều cảm thấy có điểm gì đó bất bình thường nhưng biết diễn tả ra sao. Thầy Chương dè dặt bước từng bước lên bục giảng trong khí yên lặng đó.

      Bộ dạng của thầy Chương nghiêm túc đến mức thâm trầm. Thầy cao gầy, sống lưng thẳng tắp, sắc mặt trắng bệch vô cảm, bờ môi mím chặt. Đặc biệt là cặp kính đen như hai hốc mắt hộp xương sọ, mang lại cảm giác lạnh lẽo, u, thê thảm. Chỉ liếc qua thầy, Liễu Địch bất giác rùng mình. có cảm giác phải mình nhìn thầy giáo, mà như vào ngôi cổ mộ tĩnh mịch, chết chóc, vừa vào bị bao vây bởi nỗi kinh hoàng đáng sợ.

      có màn tự giới thiệu, có lời mở đầu, thầy Chương bắt đầu giảng bài.

      “Các em, hôm nay chúng ta học tản văn Ánh trăng bên hồ sen của Chu Tự Thanh [3] . Mời các em mở sách giáo khoa, tôi đọc bài văn lần.”

      [3] Chu Tự Thanh (1898-1948-): tự là Bội Huyền, người tỉnh Chiết Giang, tốt nghiệp khoa Văn-Triết trường Đại học Bắc Kinh (1920), từng là thầy giáo dạy Văn. Ông là nhà văn nổi tiếng Trung Quốc, sáng tác ở nhiều thể loại và có số lượng tác phẩm đồ sộ.

      Lớp học bỗng xôn xao, nhưng nhanh chóng yên tĩnh trở lại. Liễu Địch đưa mắt về bục giảng, hai tay thầy Chương trống . Thầy hề cầm sách.

      “Mấy ngày gần đây, trong lòng yên tĩnh. Tối nay ngồi ở trước sân hóng mát, tôi đột nhiên nhớ tới hồ sen tôi vẫn ngày ngày qua. Dưới ánh trăng sáng ngời, nó có dáng vẻ khác biệt. Trăng dần lên cao, tiếng nô đùa của bọn trẻ đường phố bên ngoài bờ tường dần biến mất. Bà xã ở trong nhà ru Nhuận Nhi ngủ… ngâm nga câu hát ru. Tôi thầm mặc áo khoác, mở cửa ra ngoài…”

      Trời ạ! Cả lớp ngẩng đầu, há hốc miệng, ánh mắt kinh ngạc đổ dồn lên bục giảng nhìn người thầy ngẩng cao đầu, chắp hai tay sau lưng, đọc thuộc bài tản văn khá dài. Thầy cần nhìn sách cũng có thể đọc cách ràng, giọng vô cùng truyền cảm. Trong giọng của thầy có thơ, có họa, có tình, có cảnh, giống ảo ảnh mơ hồ, giống tiếng hát vang vọng. Thầy như đưa cả lớp tới hồ sen nhuộm ánh trăng bàng bạc đó. Trước mắt mọi người ra hình ảnh bông sen lay động dưới ánh trăng, tỏa hương thơm dìu dịu.

      điều kỳ diệu hơn, thầy Chương thể được tâm trạng vi diệu rất khó phát giác của tác giả Chu Tự Thanh, đó là yên tĩnh mà ông theo đuổi trong suốt cuộc sống thực ồn ào. Cả lớp say mê lắng nghe. Lúc này, thầy Chương cũng như chìm trong mộng cảnh do thầy tạo ra. Vẻ mặt nghiêm túc và thâm trầm của thầy có vẻ ôn hòa, khiến thầy như có sinh khí hơn.

      “Tối nay, nếu có người ngắt sen, hoa sen ở đây cũng được coi là “quá đầu người”. Chỉ thấy bóng nước lay động là được. Điều này khiến tôi nhớ về Giang Nam. Mải chìm trong suy tư, đến lúc ngẩng đầu, tôi phát đứng trước cửa nhà mình. Tôi lặng lẽ đẩy cửa vào, trong nhà tiếng động. Bà xã ngủ say từ lâu.” Thầy Chương đọc hết bài tản văn, sai chữ. Lớp học im phăng phắc, các bạn gần như nín thở, giọng truyền cảm của thầy vẫn phảng phất bên tai. Sau đó, biết ai đó vỗ tay đốp đốp, tiếp theo, cả lớp cùng vỗ tay nhiệt liệt.

      Thầy Chương lấy lại vẻ lạnh nhạt và nghiêm túc. Thầy tỏ ra thờ ơ trước tràng vỗ tay tán thưởng và khâm phục của đám học sinh, đến khóe miệng cũng nhếch lên. Thái độ lạnh nhạt kỳ lạ của thầy khiến cả lớp càng ngạc nhiên trước việc thầy đọc thuộc bài tản văn cách chính xác vừa rồi. Cả lớp bảo nhau mà cùng nghĩ đến từ “đọc”, thầy phải “đọc sách” mà là “đọc thuộc lòng”. Tiếng vỗ tay thưa dần.

      Sau khi lớp học trở lại yên tĩnh, thầy Chương bắt đầu giới thiệu về tác giả. Về Chu Tự Thanh, thầy chỉ vài câu: “Chu Tự Thanh là giáo sư của Đại học Thanh Hoa kiêm viện trưởng Viện Văn học. Ông là học giả nổi tiếng, tác gia có ảnh hưởng lớn văn đàn, đồng thời cũng là người Trung Quốc có khí tiết. Thời tiểu học, các em được tiếp xúc với tản văn Màu xanh của ông. Thời cấp hai, các em từng học hai tản văn Bóng sáng sau lưngMùa xuân. Ngoài ra, phải kể đến các tác phẩm như Vội vàng, Truyện ký chọn bạn đời…”

      “Thầy ơi, thầy có thể “đọc” tác phẩm Truyện ký chọn bạn đời ?”

      Cả lớp quay đầu về nơi phát ra tiếng . Đó là nam sinh cao gầy, cậu đỏ mặt, ánh mắt thách thức, giọng đầy mùi thuốc súng. Thế là các bạn lại đổ dồn ánh mắt về phía thầy Chương, trong đó ít người có tâm trạng xem trò vui. Đám học sinh xuất sắc ở ngôi trường xuất sắc, tật xấu lớn nhất là “tự cho mình là giỏi”, chúng ghét nhất thái độ ra vẻ ta đây của người khác. Thầy Chương bị chúng liệt vào hạng người “ra vẻ ta đây, khoe khoang tài năng”. Đọc thuộc lòng bài Ánh trăng bên hồ sen chẳng có gì là giỏi, nếu có thể đọc thuộc cả tác phẩm Truyện ký chọn bạn đời mà mọi người hầu như biết mới được coi là có bản lĩnh . Các bạn đều ngẩng đầu, chờ câu trả lời của thầy Chương với tư thế của kẻ bàng quan. Chỉ có người cúi thấp đầu, đó chính là Liễu Địch.

      Đúng vậy, Liễu Địch nhìn thầy Chương. chưa từng đọc Truyện ký chọn bạn đời, thậm chí tên tác phẩm cũng là lần đầu tiên nghe tới. khi biết tản văn này, cả lớp chắc chẳng có ai biết. Bắt thầy Chương đọc thuộc tản văn quá nổi tiếng, ít người biết đến trước mặt cả lớp là thử thách lớn. Liễu Địch cảm thấy hơi lo cho thầy Chương. Có lẽ là học sinh duy nhất quan tâm đến thầy, bởi vì hề có ý nghĩ thầy “ra vẻ ta đây” hay “khoe khoang tài năng”. Tuy nhiên, Liễu Địch biết làm thế nào để ngăn cản việc diễn ra. Điều duy nhất có thể làm là bày tỏ kháng nghị bằng cách cúi đầu.

      Sắc mặt thầy Chương vẫn vô cảm. “Tôi thử xem sao.” Câu của thầy khiến cả lớp nổi lên những tiếng bàn luận. Nhưng thầy nhanh chóng cất tiếng: “Bản thân là con cháu đích tôn, vì vậy chưa đến mười tuổi, tôi được nghe nhắc đến chuyện chọn vợ…”

      Thầy Chương đọc hết câu này đến câu khác. Thầy vẫn ngẩng cao đầu, chắp hai tay sau lưng, bộ dạng thong dong, từ tốn. Liễu Địch vô cùng kinh ngạc. ngẩng đầu, phát các bạn thầm bàn tán. Chúng cũng ngạc nhiên như .

      thực tế, ai có thể chứng thực tản văn thầy Chương đọc thuộc lòng rốt cuộc có phải là Truyện ký chọn bạn đời hay .

      “Thưa thầy!” giọng vang lên cắt ngang lời thầy Chương. “Thầy có thể đọc Jane Eyre, tác phẩm tiêu biểu của Charlotte Bronte [4] ạ?” Cậu nam sinh vừa lên tiếng nhanh chóng rút quyển sách từ cặp sách ra, đó chính là quyển Jane Eyre.

      [4] Charlotte Bronte (1816-1855): nữ nhà văn người , tác giả của những tiểu thuyết được xếp vào hàng kinh điển của văn học .

      “Chương mấy?” Thầy Chương tựa hồ nhìn thấy hành động mang tính chất sỉ nhục đó.

      “Chương ạ!”

      “Ngày hôm đó vốn thể tản bộ. sai, buổi sáng chúng tôi dạo tiếng đồng hồ trong rừng cây trụi lá…”

      “Chương ba.”

      “Trong ký ức của tôi, việc tiếp theo là tôi cảm thấy giống như tỉnh dậy sau cơn ác mộng kinh hoàng…”

      “Chương mười.”

      “Cho đến bây giờ, tôi ghi chép tường tận số chuyện nhặt đáng kể trong cuộc sống…”

      “Chương hai mươi lăm.”

      tháng sau khi tỏ tình, mấy tiếng cuối cùng có thể đếm được đầu ngón tay…”

      “Chương ba mươi mốt.”

      “Cuối cùng tôi cũng tìm thấy nhà…”

      Vẻ kinh ngạc của cậu nam sinh cho cả lớp biết thầy Chương đọc sai chữ.

      “Chương ba mươi sáu.” Cậu nam sinh chịu khuất phục, lại lên tiếng. “Thưa thầy, xin thầy hãy đọc câu tiếp sau câu này: “Là nỗi đau khổ như thế nào mà người này tựa hồ hạ quyết tâm trì hoãn?”

      Tay phải của thầy Chương đột nhiên cuộn lại thành nắm đấm, người thầy hơi lảo đảo. Thầy im lặng hồi lâu. Liễu Địch nhìn thấy giọt mồ hôi trán thầy.

      Các bạn trầm mặc, trao đổi ánh mắt đắc ý và vui vẻ của kẻ chiến thắng. Liễu Địch thở dài. hiểu vì sao nhìn những gương mặt cười cợt nỗi đau của người khác, trong lòng hơi khó chịu.

      Cuối cùng, thầy Chương cũng lên tiếng, thầy đọc câu tiếp theo bằng ngữ điệu đau đớn: “Hai mắt ông bị mù. Đúng vậy. Edward Rochester hoàn toàn trở thành người mù…”

      Cậu nam sinh buông quyển sách, lặng lẽ tuyên bố thất bại của mình. Các bạn khác như bùng lòng hiếu kỳ, nhanh nhảu nên tên loạt tác phẩm nổi tiếng chợt xuất trong đầu, dù số tác phẩm, bọn họ cùng lắm chỉ biết tên:

      Anna Karenina.”

      “Hồng lâu mộng.”

      “Phục sinh.”

      “Hoàng Hà chảy về phía đông.”

      “Ông già và biển cả.” [5]

      [5] Anna Karenina, Phục sinh: hai tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn người Nga Lev Tolsoy. Hồng lâu mộng: tiểu thuyết nổi tiếng của Tào Tuyết Cần, Trung Quốc. Ông già và biển cả: tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn người Mỹ Ernest Hemingway. Hoàng Hà chảy về đông: tiểu thuyết của Lý Oa.

      ...

      Cho đến khi còn ai đứng dậy đề nghị thầy Chương đọc thuộc tác phẩm nữa, cuộc khảo vấn mới kết thúc. Cả lớp ai thắng được người thầy lặng lẽ đứng bục giảng kia.

      Cả lớp cuối cùng cùng bị chinh phục hoàn toàn. Vẻ bất mãn, ngông cuồng và thách thức mặt chúng hoàn toàn biến mất, thay vào đó là khâm phục và sùng bái. Lần đầu tiên trong đời, chúng biết thế nào là “ uyên bác”, là cảm giác bé và bi ai của con ếch ngồi dưới đáy giếng ngước nhìn bầu trời bao la.

      Về phần Liễu Địch, biết thế nào là “thiên tài” thực .

      Thế nhưng, trước vô số ánh mắt sùng bái, thầy Chương vẫn lạnh lùng, vô cảm. Thầy cất giọng bình thản: “Các em còn cần tôi đọc tác phẩm nào nữa ?” [6]

      [6] Thầy Chương dùng từ “độc” có nghĩa nhìn vào sách hay văn bản để đọc.

      “Đọc”? Lại là “đọc”? Những đứa trẻ mười sáu, mười bảy tuổi này, dù sùng bái người đến mấy, cũng thể chịu được ngông cuồng và miệt thị từ ngữ. Lớp học lại ồn ào. Trong thanh tạp loạn, giọng trong trẻo vang lên: “Thưa thầy, tại sao thầy luôn gọi “thuộc lòng” thành “đọc”? Lẽ nào thầy lớn lên với kiểu “đọc” sách đó?” [7]

      [7] Đáng lẽ thầy Chương phải dùng từ “bội” tức đọc thuộc lòng. “Độc” và “bội” là hai từ có cách đọc, cách viết và ý nghĩa hoàn toàn khác nhau.

      Đây là lời chất vấn của bạn cùng bàn Liễu Địch. Câu này dẫn đến loạt tiếng nhao nhao chỉ trích. Mọi người bàn luận, trách cứ thầy, như thể đó phải là người thầy chúng sùng bái vài phút trước mà là tên tội phạm.

      Chỉ có Liễu Địch lên tiếng. Đúng ra là im lặng từ đầu đến cuối, đặt câu hỏi với thầy, cũng lên tiếng phê bình thầy.

      Về phần thầy Chương, trước công kích của đám học sinh, thầy vẫn trầm mặc, tựa hồ những lời trách cứ bên dưới liên quan đến mình.

      Liễu Địch ngước nhìn gương mặt vô cảm của thầy bằng ánh mắt nghi hoặc, muốn tìm ra nguyên nhân của trầm mặc đó. Trong đầu vụt qua ý nghĩ. Liễu Địch giật mình bởi ý nghĩ này, cuốn sách Ngữ văn trong tay rơi bộp xuống đất. so vai, cố gạt bỏ ý nghĩ đó nhưng nó càng lúc càng ràng trong đầu . Thầy mang giáo án, thầy dò dẫm từng bước lên bục giảng, thầy luôn gọi “thuộc lòng” là “đọc”, thầy đeo cặp kính đen...

      Trời ạ! Liễu Địch đột nhiên cảm thấy ý nghĩ này vừa chân thực vừa sợ hãi. Tai ù ù, ra sức lắc đầu, dường như chỉ làm vậy mới có thể gạt bỏ suy nghĩ điên rồ đó. Cuối cùng, lại ngước nhìn gương mặt thầy. Thầy dường như phải đối diện với vô số gương mặt sống sờ sờ mà đối diện với sa mạc mênh mông, thậm chí là đêm tối vô tận.

      Tiếng ồn ào trong lớp học dần lắng xuống. Các bạn nhanh chóng phát , bất kể chúng chỉ trích thế nào, cũng thể chọc giận người thầy đứng bục giảng. Đến khi phòng học còn tiếng động, thầy Chương mới từ tốn : “Các em, tôi sai, đúng là tôi “đọc”. Bởi vì tôi chỉ có thể “đọc” những cuốn sách in sâu trong đầu óc tôi.”

      Cả lớp ngẩn ngơ. Liễu Địch là người đầu tiên có phản ứng. Trong đầu vang lên câu , thầy “đọc” bằng ngữ điệu đau đớn: “Hai mắt ông bị mù. Đúng vậy, Adward Rochester hoàn toàn trở thành người mù...”

      Liễu Địch thể kiềm chế tiếng kêu khe khẽ: “Trời ơi!”

      “Thực ra...” Thầy Chương tiếng. “Môn Văn ở cấp ba cần thiết phải đọc mẫu. Cứ đọc ra rả theo sách, đến bản thân tôi cũng cảm thấy tẻ nhạt, vô vị. Ngữ văn là môn bồi dưỡng học sinh có cảm giác với ngôn từ và con chữ. Nếu biến nó trở thành tiết học mổ xẻ nội dung giáo dục tư tưởng, chi bằng ở bên dưới các em lén lút đọc tiểu thuyết còn hơn. Vì vậy, từ nay về sau tôi đọc mẫu. Có điều...” Ngữ khí của thầy trở nên nặng nề. “Hôm nay, tôi phải đọc mẫu, tôi buộc phải làm vậy, dù có thể khiến các em hiểu nhầm tôi là kẻ ngông cuồng. Hy vọng các em hiểu lời tôi .” Ngừng lúc, thầy thêm câu: “Đúng rồi, từ nay về sau, trong tiết ngữ văn của tôi, các em có thể tự động đứng lên phát biểu, cần giơ tay.”

      cần giải thích thêm điều gì, người ngu xuẩn nhất cũng hiểu hàm ý của câu cuối cùng. Nếu là trong hoàn cảnh bình thường, câu đó chắc chắn nhận được tràng vỗ tay nhiệt liệt. Nhưng bây giờ, các bạn cúi đầu hổ thẹn, dám nhìn gương mặt nhợt nhạt của thầy Chương. Liễu Địch chống tay lên trán, nỗi đau đớn chưa từng trải qua dấy lên trong lòng. cảm thấy hổ thẹn, ngược lại chỉ muốn khóc.

    3. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

      Chương 3


      Chuông hết tiết học vang lên nhưng ai rời khỏi chỗ.

      Thầy Chương lại chậm rãi dò dẫm bước xuống bục giảng. biết cái cây lau nhà ở đâu bỗng chắn ngang trước mặt thầy. Thầy Chương tránh khỏi việc giẫm lên cây lau nhà.

      “Cẩn thận!” Vài học sinh vội lao lên đỡ thầy, trước khi thầy bị ngã.

      Nào ngờ vào giây phút đó, người thầy Chương run lên bần bật. Thầy hất tay đám học sinh, giống như gạt bỏ con rắn độc bám người.

      “Tránh ra! Tôi cần giúp đỡ!” Thầy Chương gằn giọng.

      việc xảy ra nhanh chóng và đột ngột. Mấy học sinh có lòng tốt ngây người đứng đó, nhất thời chuyện gì diễn ra. Chỉ trong giây lát, từ đáy lòng chúng dâng trào cảm giác bị tổn thương, chúng nghi hoặc nhìn nhau rồi lại quan sát gương mặt lạnh lẽo của thầy Chương. Cuối cùng, ai nấy về chỗ người nấy, hổ thẹn biến mất, ý nghĩ báo thù lại dấy lên. Chúng thầm chờ mong thầy Chương té ngã, cũng như mong đợi thầy bị mất mặt trong giờ học.

      Chỉ có Liễu Địch lặng lẽ theo thầy Chương ra khỏi phòng học.

      Đến đầu cầu thang, học sinh biết từ góc nào lao tới, xô vào thầy Chương. Liễu Địch chạy vội đến đỡ thầy. Lần này, Liễu Địch nắm tay thầy rất chặt, thầy Chương hất tay ra.

      “Cảm ơn em! Nhưng mời em cho!” Giọng thầy Chương vẫn lạnh lùng nhưng khá lịch . Có lẽ thầy ngờ, người đỡ thầy là học sinh vừa bị thầy trách mắng.

      “Để em đưa thầy về văn phòng.” Liễu Địch buông tay.

      ! Tôi cần giúp đỡ.” Giọng của thầy trở nên nghiêm khắc, gần như mất kiên nhẫn. Vài học sinh từ trong phòng học thò đầu ra xem.

      “Để em đưa thầy về văn phòng.” Liễu Địch vẫn buông tay.

      “Tôi nghĩ tôi ràng rồi.” Thầy Chương cố kìm nén cơn giận dữ, nhưng thầy vẫn cao giọng: “Nếu em còn chưa nghe , tôi có thể lại lần nữa, tôi cần giúp đỡ. Bây giờ em nghe chưa?”

      “Em nghe rồi.” Giọng của Liễu Địch rất bình tĩnh và kiên quyết. “Nhưng... xin thầy cho phép em đưa thầy về văn phòng.”

      “Nếu tôi cho phép em sao?” Giọng thầy Chương khàn khàn, lông mày nhíu chặt, tựa hồ chuẩn bị nổi nóng.

      “Nếu thầy cho phép, em buông tay ngay lập tức.” Liễu Địch thấy run sợ trước thái độ của thầy, cất giọng trầm tĩnh, thẳng thắn và trong trẻo: “Có điều em theo thầy đến văn phòng. Trong khoảng thời gian đó, nếu thầy gặp phiền phức, em vẫn giúp thầy.”

      giúp đỡ tốt nhất của em đối với tôi là tránh xa tôi ra.” Giọng của thầy Chương như bốc hỏa. “Tôi cần người nào đóng vai Thượng đế ở bên cạnh tôi.”

      “Em phải Thượng đế, cũng chẳng muốn đóng vai gì.” Liễu Địch cất giọng nhanh, chậm, cao, thấp nhưng vang vọng khắp hành lang, truyền đến tai các bạn. “Em chỉ là học sinh của thầy. Với tư cách học trò, em muốn nhìn thấy người thầy em tôn kính và ngưỡng mộ bị xô ngã. Có lẽ thầy chịu đựng được điều này nhưng em thể, giống như em thể chịu đựng tư tưởng cao quý bị người đời bôi nhọ.”

      Thầy Chương đột nhiên trầm mặc.

      Liễu Địch nhướng mắt, muốn nhìn gì đó từ gương mặt của thầy Chương. Đáng tiếc, thầy Chương vẫn giữ nguyên vẻ mặt vô cảm. thực tế, gương mặt thầy từ đầu đến cuối bộc lộ sắc thái tình cảm nào, kể cả lúc thầy nổi giận.

      lúc sau, thầy Chương lên tiếng: “Em là bé thích lo chuyện bao đồng.”

      ngờ thầy ra câu này, Liễu Địch mỉm cười. “ phải em thích lo chuyện bao đồng, đưa thầy về văn phòng tuyệt đối phải chuyện bao đồng.”

      Người thầy Chương khẽ run rẩy. Nếu phải Liễu Địch đỡ tay thầy, cảm nhận được chấn động này.

      “Em rất cố chấp.” Sắc mặt thầy Chương vẫn vô cảm. “Đúng vậy, rất cố chấp, có thể là cố chấp như tôi.”

      Liễu Địch lại cười. “Có lẽ vậy, nếu cũng được coi là cố chấp như thầy đó là vinh hạnh của em.”

      “Vậy... ngoài cố chấp ra, em có thể đảm bảo em phải là người nhiều lời?”

      “Em xin dùng danh dự để đảm bảo.” Liễu Địch lên tiếng, giọng rất chân thành, kiên quyết và ràng. “Em đảm bảo hỏi câu thừa thãi, câu tán gẫu liên quan, cùng người khác bàn tán bất cứ vấn đề gì liên quan đến thầy.”

      Thầy Chương lặng lẽ thở dài. “Nếu em có thể giữ lời hứa, vậy ... xin em...” Thầy mím môi. “Hãy đưa tôi về văn phòng.”

                  Chương 4


      Kể từ hôm đó, tên của Liễu Địch gắn liền với thầy Chương.

      bắt đầu phụ trách việc đưa thầy Chương lên lớp và về văn phòng, đưa thầy tới bến xe buýt đợi xe mỗi khi tan học. Sau khi trở thành đại diện khối Văn, bắt đầu giúp thầy Chương phê bài tập làm văn vào mỗi buổi trưa. Sau kỳ thi giữa kỳ và cuối kỳ, còn tranh thủ thời gian rảnh rỗi thay thầy Chương viết những lời phân tích và nhận xét khách quan mỗi bài thi môn Ngữ văn. trở thành người bận rộn nhất khối, người ra vào văn phòng của thầy Chương nhiều nhất.

      Tuy nhiên, chỉ dựa vào những điều này, Liễu Địch vẫn chưa thể bước vào thế giới của thầy Chương. Thầy Chương phải là người dễ tiếp cận. Thầy tránh xa tất cả mọi người, làm gì cũng lặng lẽ, mình. Về điểm này, chỉ cần gặp thầy lần, người ngu ngốc thế nào cũng có thể nhận ra. Thầy suốt ngày mặc bộ đồ có hai màu đen trắng đơn điệu, sống lưng luôn thẳng tắp, gương mặt vô cảm, hốc mắt trống . Tất cả những điều này tạo thành hình ảnh lạnh lùng, vô tình, vô cảm thay đổi. Vì vậy, dù có người muốn tiếp cận thầy và giúp đỡ thầy, cũng đều bị vẻ lạnh nhạt của thầy đánh bại.

      Trong trường của , hai người tốt bụng, vì đồng tình và thương hại, từng thử tìm cách giúp thầy Chương. Thầy từ chối bằng thái độ lịch nhưng vô cùng lạnh lùng, xóa bỏ hoàn toàn ý định của họ. thời gian sau, mọi người đều biết, “giúp đỡ” vĩnh viễn là từ cấm kỵ trong từ điển của thầy Chương. Do đó, người nào dám nhắc đến từ đó trước mặt thầy, bao gồm cả Liễu Địch.

      Có lẽ chỉ ở bục giảng, mọi người mới cảm thấy thầy Chương vẫn còn chút sức sống và niềm hứng thú. Thầy Chương ở bục giảng khiến người khác có cảm nhận thầy đúng là “tài hoa xuất chúng”. Thầy quả nhiên “đọc mẫu” thêm lần nào nữa, nhưng cũng còn người nào dám nghi ngờ khả năng thuộc lòng các tác phẩm nổi tiếng cổ kim, trong và ngoài nước của thầy.




      Thầy luôn có cách nhìn độc đáo về các tác phẩm. Bài giảng của thầy vô cùng hấp dẫn. Những phân tích sâu sắc và cách trình bày vấn đề thấu đáo của thầy kích thích đám học sinh ở bên dưới thảo luận từ lớp học ra đến sân thể dục, từ trong trường học ra ngoài đường, từ hôm nay đến ngày mai.

      Dần dần, vẻ lạnh nhạt của thầy Chương cũng ít nhiều thay đổi. Tuy rằng lúc học sinh cười ầm ầm, thầy vẫn điềm nhiên như , nhưng vẻ mặt thầy trở nên ôn hòa hơn. Thỉnh thoảng thầy vẫn bộc lộ tán thưởng và vui mừng. Điều này khiến cả lớp cảm thấy thầy thêm gần gũi.

      điều đáng quý là thầy bao giờ gò ép hay hạn chế tư tưởng của học sinh, mà thường để những người “ cùng chính kiến” mạnh dạn bày tỏ quan điểm của mình.

      lần, hiệu trưởng Cao và thầy giáo khác trong tổ Văn tên Doãn Hồng dự tiết dạy của thầy Chương. Cả lớp tranh luận về văn phong của Lỗ Tấn [1] rất hăng say. Đặc biệt, ngôn từ của “bên phản đối” có vẻ rất kịch liệt, đến mức nhà văn Lỗ Tấn mà nghe được chắc đội mồ chui lên để tranh luận cùng chúng.

      [1] Lỗ Tấn (1881-1936): nhà văn đặt nền móng cho văn chương đại Trung Quốc, bậc thầy của thể loại truyện ngắn, nổi tiếng với ngòi bút thực sắc lạnh và sâu cay.

      Thầy Chương nghiêm túc lắng nghe ý kiến của hai bên, sau đó thầy đưa ra quan điểm của mình: “Có lẽ nhà văn Lỗ Tấn cũng thích văn phong khô khan như vậy, nhưng ông buộc phải sử dụng nó. Bởi lối hành văn này do thời đại ép buộc. Nếu Lỗ Tấn có tinh thần trách nhiệm với thời đại và dân tộc, cứ sống nhàn nhã, thoải mái như Hồ Thích [2] hay Lâm Ngữ Đường [3] , có lẽ văn phong của ông đến nỗi lạnh lùng, nghiêm túc như các em nhận xét. Nhưng ông làm vậy, văn đàn thiếu người chiến sĩ dùng ngòi bút thay giáo gươm. Xin hỏi, ở thời đại nhiễm nhương đó, chúng ta cần dũng sĩ đối mặt trực tiếp với nhân sinh thê lương hay cần văn nhân phong hoa tuyết nguyệt?”

      [2] Hồ Thích (1891-1962): tên là Hồng Tân, nhà văn, nhà triết học Trung Quốc thời cận – đại, người truyền bá chủ nghĩa thực dụng ở Trung Quốc, cho rằng thực tại chỉ là các mối quan hệ về cảm giác giữa con người, ông theo thuyết duy tâm chủ quan, tuyên truyền tư tưởng tự do cá nhân, dân chủ và khoa học.

      [3] Lâm Ngữ Đường (1895-1976): nhà văn nổi tiếng Trung Quốc, người có công đầu trong việc giới thiệu văn hóa, văn học Trung Quốc ra thế giới.

      Thầy Chương vừa dứt lời, hiệu trưởng Cao đập bàn khen hay, đám học sinh cũng cảm thấy nhận thức của mình trở nên sâu sắc hơn. Sau tiết học, thầy Doãn chỉ trích thầy Chương “thả lỏng học sinh” ngay trước mặt hiệu trưởng và cả lớp. Thầy Chương chỉ lãnh đạm câu: “Tôi cho rằng hạn chế tư tưởng là hành vi bóp chết tài năng.” Câu của thầy Chương nhận được tràng vỗ tay hưởng ứng nhiệt liệt, khiến thầy Doãn đỏ mặt tức giận.

      Sau kiện đó, thầy Doãn hết sức dèm pha, bôi nhọ quan điểm của thầy Chương, mọi nơi, mọi lúc. Nhưng thầy ta thể phủ nhận , trong mỗi kỳ thi, dù thầy ta có giở trò với bài thi như thế nào, thành tích trung bình của lớp 1 bao giờ cũng cao hơn lớp 2 , hai điểm. Các thầy đều đánh giá học sinh lớp 1 rất có năng lực, các em đều có khả năng cảm thụ ngôn từ rất tốt.




      Sau khi hồi chuông hết tiết vang lên, mọi vẻ ôn hòa, tán thưởng, vui vẻ gương mặt thầy Chương hoàn toàn biến mất như có phép thuật. Học sinh trong lớp thể chấp nhận thay đổi bất thình lình đó, giống như thể chấp nhận chuyện thiên đường rơi phát xuống nơi thiêu xác đầy khói lửa. Học sinh cấp ba mười bảy, mười tám tuổi, ai sùng bái tri thức và học vấn, nhưng bọn họ càng hy vọng thầy giáo của mình có tình người hơn. Về phần thầy Chương, khi thầy nhắm mắt giảng bài, tình người thể rất . Khi thầy mở mắt, tình người bay nửa. Đến khi thầy rời bục giảng, tình người biến mất hoàn toàn. Hơn nữa, hành vi cự tuyệt giúp đỡ trong ngày đầu tiên lên lớp của thầy khiến lòng tự trọng của đám học sinh bị tổn thương. Vì vậy, chúng có cách nào có cảm tình với người thầy có tình người như vậy. Chúng chỉ hoan nghênh thầy Chương trong giờ học, còn sau khi tan học, chúng đối với thầy luôn “kính nhi viễn chi” [4] .

      [4] Câu của Khổng Tử trong Luận ngữ, có nghĩa là bề ngoài tỏ ra kính nể người nào đó nhưng thực tế muốn tiếp cận, gần gũi với người đó.

      Về phía các đồng nghiệp, thầy Chương càng tránh khỏi việc bị đối xử lạnh nhạt. Đồng nghiệp thường đố kỵ nhau, tài hoa của thầy Chương đủ khiến thầy trở thành “oan gia” của tất cả các thầy giáo trong tổ Văn. Hơn nữa, các phần tử trí thức làm sao có thể chịu nổi thái độ “tự cho mình là thanh cao”, chẳng bận tâm đến người khác của người mù?

      Do đó, các thầy giáo khác cũng trở thành “oan gia” của thầy Chương. Nhưng thầy Chương dường như để ý xem thầy có bao nhiêu “oan gia”, bởi thầy qua lại với bất cứ người nào. Việc thầy mình văn phòng là minh chứng rệt nhất. Bất kể các “oan gia” bàn ra tán vào ra sao, thầy Chương cũng hề có phản ứng. Cuối cùng, bọn họ coi thầy như tồn tại.

      thầy giáo luôn tránh xa tất cả mọi người nhưng lại cho phép Liễu Địch ở bên cạnh khiến ai nấy đều trố mắt kinh ngạc. Bàn đến nguyên nhân của việc đó trong lúc tán gẫu, mọi người đều kết luận: “Có lẽ do Liễu Địch chăm sóc thầy ta quá chu đáo.”

      Quả thực Liễu Địch chăm sóc thầy Chương rất chu đáo. Ngày thứ ba sau khi nhập học, phát bình nước giữ nhiệt trong văn phòng thầy Chương thường có gì, thế là sáng sớm hôm sau, lấy nước nóng cho thầy. Hai ngày đầu, bình nước vẫn còn nguyên. Đến ngày thứ ba, Liễu Địch phát gói trà ướp hoa bên cạnh bình nước. mở nắp, nước trong bình cạn sạch. Dần dần, Liễu Địch nhận ra thầy Chương nghiện trà như người ta nghiện thuốc lá. Thế là sau khi lấy nước nóng, lại chủ động pha cốc trà cho thầy Chương. Tất cả những việc này, Liễu Địch nhắc từ, thầy Chương cũng bao giờ hỏi đến.

      Đến kỳ dọn dẹp vệ sinh, Liễu Địch lại mình tới văn phòng của thầy Chương quét dọn. Nhà trường cử thêm người giúp đỡ nhưng đều từ chối, bởi biết thầy Chương thích yên tĩnh. nhàng quét dọn phòng, lau bàn làm việc và cửa kính, cố gắng hết sức để phát ra tiếng động.

      Thầy Chương chỉ mím môi, chống tay lên đầu, ngồi trầm tư, hỏi han Liễu Địch câu. Trầm tư là sắc thái duy nhất gương mặt thầy. Liễu Địch biết, khi rơi vào trạng thái trầm tư, thầy Chương ngồi bất động mấy tiếng đồng hồ, người nào có thể cắt đứt mạch suy nghĩ của thầy. Vì vậy, sau khi kết thúc công việc, Liễu Địch thầm rời khỏi văn phòng.

      tháng sau, thầy Chương đột nhiên với Liễu Địch: “Xin em hãy đến phòng Tài vụ lĩnh lương giúp tôi.” hiểu tại sao, khi thầy Chương đến từ “giúp”, Liễu Địch xúc động đến phát khóc.

      Xem bảng tiền lương, Liễu Địch mới biết thầy Chương là giáo viên dạy thay, trắng ra là người dạy hợp đồng, phải nhân viên chính thức. Trong lòng nổi lên phẫn nộ, bất bình, cứ như việc này phải sỉ nhục thầy Chương mà là sỉ nhục chính vậy. Nhưng có thể làm gì? trường điểm chịu để người mù dạy học vốn khoan dung. Liễu Địch chỉ còn cách giao lại khoản tiền lương ít ỏi cho thầy Chương. Thầy nhận tiền rồi lập tức bỏ vào túi áo. Kể từ lần đó, hằng tháng, đợi thầy Chương nhắc nhở, Liễu Địch đều chủ động lĩnh lương giúp thầy.

      chỉ có chuyện lĩnh lương, Liễu Địch còn thay thầy Chương tham gia các cuộc họp giáo viên. Sau đó, truyền đạt lại nội dung cuộc họp với thầy. Có lúc Liễu Địch mang về số bản khai. Thầy Chương đọc, Liễu Địch điền vào. Trong ô “học lực”, thầy Chương toàn bảo điền “tốt nghiệp phổ thông trung học”.

      Liễu Địch tin người học rộng hiểu nhiều, tài hoa xuất chúng như thầy Chương mới chỉ học hết cấp ba. còn nhớ học kỳ hai năm lớp 10, đoàn đại biểu của Pháp đến thăm trường, đúng lúc người phiên dịch có việc đột xuất thể có mặt, thầy Chương chuyện bằng tiếp Pháp trôi chảy, hoàn thành xuất sắc công việc phiên dịch, nhận được tán thưởng của đoàn khách người Pháp. Lẽ nào tiếng Pháp của thầy cũng học từ thời cấp ba? Liễu Địch vô cùng hiếu kỳ, nhưng nhớ đến lời cam kết, đành nghiến răng, kìm nén nghi vấn trong lòng.




      Khi mùa đông đến, thầy Chương bị nhiễm virus cảm cúm, thế là Liễu Địch mang đến cho thầy hộp thuốc cảm. “ ngày ba lần, mỗi lần hai viên.” Liễu Địch bao giờ nhắc đến từ “cho” hay “tặng”.

      Thầy Chương nhận hộp thuốc, lặng lẽ lấy ra hai viên, bỏ vào miệng. Rồi thầy Chương ho khù khụ, thậm chí thể lên lớp giảng bài. Buổi trưa, Liễu Địch lấy gói thuốc bột chữa ho, pha vào cốc trà cho thầy. Lúc phê bài tập làm văn, thầy Chương phát “nước trà” đúng vị, thế là thầy thưởng thức từng ngụm như thường lệ mà uống hơi hết sạch. Nhìn thầy do dự uống hết cốc “trà”, Liễu Địch quên cả việc đọc bài văn. cảm động khó diễn tả thành lời trào dâng trong lòng khiến viền mắt ngân ngấn nước. đột nhiên nhận ra : thầy Chương tin tưởng , chỉ tin tưởng mình .

      Cứ thế, Liễu Địch trở thành người duy nhất thầy Chương tín nhiệm ở trường. Thầy chỉ nhận giúp đỡ của mình Liễu Địch. Phàm là những việc ngoài khả năng, thầy bảo làm. Thầy phản đối, cũng kiêng dè người khác đặt tên Liễu Địch cạnh tên thầy. Thậm chí, trở thành cầu nối duy nhất giữa thầy và thế giới bên ngoài. Những người khác muốn tìm thầy Chương phải thông qua .

      Nhiều lúc Liễu Địch tự hỏi: “Tại sao thầy Chương lại tin tưởng mình như vậy?” biết, phải vì chăm sóc thầy chu đáo, bởi đối với người khác, thầy cho họ cơ hội chăm sóc thầy. Có lẽ bởi luôn giữ lời hứa lúc ban đầu với thầy. Đúng là như vậy, dù trong lòng luôn đầy nghi hoặc, cũng bao giờ hỏi câu liên quan đến vấn đề riêng tư của thầy, càng chuyện với người khác về thầy, Liễu Địch luôn dùng nụ cười để ứng phó.

      ra, Liễu Địch chẳng có gì để . Mặc dù thường xuyên tiếp xúc với thầy Chương nhưng ngoài những câu cần thiết, thầy lời thừa. Liễu Địch chưa gặp giáo viên nào từ đáng ngàn vàng” như thầy Chương. Trong công việc, nếu có thể dùng từ biểu đạt vấn đề, thầy tuyệt đối từ thứ hai. Về hoàn cảnh của thầy, Liễu Địch cũng biết nhiều hơn người khác, bởi thích chủ động tìm hiểu chuyện riêng tư của người khác. biết, xé toạc vết thương trong tâm hồn người là việc làm tàn nhẫn. Có lẽ thầy Chương cũng vì muốn bảo vệ bản thân nên mới biến mình thành tảng băng gai góc. Liễu Địch có thể tiến lại gần tảng băng nhưng đụng vào, càng tìm cách xâm nhập hay làm tan chảy tảng băng đó.

      Khi mùa xuân đến, Liễu Địch đặt chậu hoa nhài nho lên bệ cửa sổ trong văn phòng thầy Chương. Đến mùa hè, cây hoa nhài lớn với tốc độ đáng ngạc nhiên, nở những bông hoa trắng muốt. Thế là cốc trà của thầy Chương bắt đầu tỏa hương nhài dìu dịu. Mỗi lần nhìn thấy thầy Chương trầm ngâm suy nghĩ trong căn phòng đầy hương thơm thanh nhã, Liễu Địch đều cảm thấy dưới lớp vỏ bọc lạnh lùng, vô tình của thầy, nhất định là những tình cảm mà thầy bộc lộ với bất cứ ai.

    4. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

      Chương 5


      Đúng vậy, thầy Chương là người giàu tình cảm nhưng biểu lộ ra ngoài. Liễu Địch lĩnh hội sâu sắc điều này trong quá trình đưa thầy ra bến xe buýt và cùng thầy đợi xe mỗi ngày.

      Tiễn thầy Chương ra bến xe là việc làm thanh thản và dễ chịu nhất của Liễu Địch trong ngày. Khi chuông báo tan học vang lên, Liễu Địch nhanh chóng thu dọn sách vở, cho vào cặp. là người đầu tiên lao ra khỏi phòng học, chạy mạch đến văn phòng của thầy Chương.

      Mỗi lần tới văn phòng của thầy Chương, Liễu Địch đều chạy như bay, bản thân cũng hiểu tại sao phải vội vàng như vậy. Sau đó, nhàng gõ cửa mà vào luôn. Đợi lát, thầy Chương cầm cặp da màu đen ra ngoài. Liễu Địch dắt tay thầy Chương, hai thầy trò cùng rời khỏi trường, về phía trạm xe buýt số 2.

      Đoạn đường từ trường học tới trạm xe buýt rất ngắn, chỉ khoảng trăm mét. Nhưng Liễu Địch cảm thấy con đường dài trăm mét này tràn ngập khí ấm áp và dễ chịu, khó diễn tả thành lời.

      Ánh hoàng hôn kéo dài hình bóng của hai thầy trò. Cơn gió mát rượi, thỉnh thoảng còn mang theo mùi thơm của thức ăn khiến người khác thèm đến chảy nước miếng. Từng tốp học sinh đeo cặp sách ngang qua hai thầy trò, cười vui vẻ. Tan học là thời khắc vui vẻ nhất của học siinh. Lặng lẽ nghe tiếng bước chân đều đặn vỉa hè, Liễu Địch cảm thấy vô cùng thư thái. Bao mệt nhọc của ngày hoàn toàn tan biến đoạn đường ngắn.

      Trạm xe buýt số 2 là bến xe rất . Ở đây có mái che, cũng có ghế ngồi, chỉ có tấm biển báo bằng sắt độc đứng vỉa hè. Bên cạnh biển báo là cây dương liễu rất lớn, cành lá mềm mại rủ xuống mặt đất. Vào mùa xuân, cành cây mọc đầy chồi non, non đến mức có thể nước, nhìn từ xa chỉ thấy màu xanh lục dịu dàng. Cách biển báo xa là bồn hoa , Liễu Địch thường đỡ thầy Chương ngồi ở bệ xi măng của bồn hoa nghỉ ngơi. Trong bồn hoa trồng mấy khóm đinh hương. Khi chồi non của cây dương liễu nhú thành những chiếc lá màu xanh lục, đinh hương cũng nở từng đóa hoa tím. Chúng như vô số những ngôi sao màu tím đan xen giữa những phiến lá hình trái tim.

      Liễu Địch luôn tin vào truyền thuyết đẹp đẽ về cây đinh hương, do đó, thành kính tìm kiếm bông hoa đinh hương năm cánh. Nếu tìm được, lén bỏ vào chiếc cặp da của thầy Chương, hy vọng nó có thể mang hạnh phúc đến cho thầy. Còn thầy Chương thường ngồi im lặng ở đó, bứt ngọn cỏ đưa lên mũi, ngửi mùi hương pha trộn mùi bùn đất của lá cỏ, dần chìm vào trạng thái trầm tư.

      Mùa hè là mùa mưa. Sáng sớm, Liễu Địch đều theo dõi bản tin dự báo thời tiết. Nếu dự báo có mưa, mang theo hai cái áo mưa. điều trùng hợp là thầy Chương cũng thường cầm theo hai cái ô. Mỗi lúc như vậy, hai thầy trò mỗi người mặc cái áo mưa và cầm ô ra bến xe.

      Nếu gặp ngày mưa bão, thầy Chương và Liễu Địch tới mái hiên ở gần đó trú mưa. Liễu Địch sợ nhất là sấm sét. lần, tiếng sấm kinh thiên động địa đột nhiên vang lên bên tai, kinh hãi hét lên tiếng, vùi đầu vào lòng thầy Chương, ôm chặt thắt lưng thầy, tựa hồ thầy trở thành thần hộ vệ của .

      Người thầy Chương run run nhưng thầy hề né tránh, cũng giơ tay ôm Liễu Địch. Thầy chỉ câu bâng quơ: “Đừng sợ, Liễu Địch. Là ông trời gầm gừ mà thôi. Thế gian này có quá nhiều chuyện bất bình, ông trời thỉnh thoảng cũng vừa mắt.”

      Giọng của thầy vẫn lãnh đạm và bình tĩnh nhưng lại có sức mạnh an ủi rất lớn. Liễu Địch ngẩng đầu, lúc này mới ý thức được mình ôm chặt người thầy. đỏ bừng mặt, lập tức buông tay. Liễu Địch muốn lên tiếng giải thích nhưng thầy Chương lắc đầu, tựa hồ “nhìn” quẫn bách và bối rối của . Liễu Địch hoảng hốt nhìn thầy Chương. Gương mặt thầy có bất cứ biểu cảm nào, dường như bị tiếng sấm hay bất cứ nhân tố nào khác làm nhiễu loạn.




      Đến mùa thu, cây dương liễu cao lớn bắt đầu rụng lá, đinh hương cũng úa tàn. Đầu tiên, những phiến lá mỏng rơi xuống lối , phủ đầy nền xi măng. Con người giẫm lên những chiếc lá rụng, phát ra những tiếng lạo xạo. Thầy Chương thường dừng bước, chăm chú lắng nghe bản nhạc lá rụng dưới chân. Ánh hoàng hôn nhuộm màu vàng óng lên tóc thầy, cùng với lá vàng dưới mặt đất, tạo thành hình ảnh bi tráng đầy ấn tượng.

      Có lần, thầy Chương nhặt phiến lá dưới đất, nhàng đưa lên mũi ngửi. tầm sáu, bảy tuổi chạy tới, hiếu kỳ hỏi thầy: “Chú ơi, lá rụng có thơm ạ?”

      Liễu Địch chưa từng nhìn thấy thầy Chương có biểu ôn hòa như vậy. Thầy ngồi xổm xuống, tay lần lần đặt lên hai vai bé , cất giọng dịu dàng: “Lá thơm nhưng mỗi chiếc lá rụng đều có mùi của mặt trời.”

      Trong lòng Liễu Địch đột nhiên trào dâng cảm động. Cổ họng tắc nghẹn, viền mắt ươn ướt. biết bao lâu sau, sờ lên khóe mắt, mới phát nơi đó có giọt lệ.

      Mùa đông, gió lạnh từ phương Bắc thổi tới khiến cả thành phố chìm trong giá rét. Cây dương liễu như bị đông cứng, khóm đinh hương cũng vậy, đến tấm biển sắt của trạm xe buýt cũng như bị đông cứng. Liễu Địch ngừng xoa hai tay, giậm chân để lấy hơi ấm. Thầy Chương chỉ mặc áo khoác màu đen nhưng thầy thường vô tình hay hữu ý đứng trước Liễu Địch để chắn gió lạnh cho .

      Hai thầy trò thích nhất vẫn là những ngày tuyết rơi, mặc dù lúc đó người đợi xe buýt rất đông, xe buýt chen chúc, chật chội. Hoa tuyết trắng rơi xuống, che mọi thứ xấu xí, khó coi khiến thế giới trở nên thuần khiết và đẹp đẽ. Liễu Địch thích ngắm cảnh hoa tuyết bay bay dưới ngọn đèn đường, trông giống những con đom đóm của ngày hè. Còn thầy Chương đứng bất động ở đó, để mặc hoa tuyết rơi đầy áo khoác đen, tạo thành mảng trắng xóa. Thỉnh thoảng thầy tháo găng tay, thò cả hai tay vào lớp tuyết dày, lúc lâu mới rút ra, ngón tay của thầy lạnh cóng đến ửng đỏ.

      Đúng vậy, quãng thời gian từ trường đến trạm xe buýt là khoảnh khắc đẹp đẽ, đợi xe buýt cũng là khoảnh khắc đẹp đẽ, đáng nhớ. Mặc dù trong khoảng thời gian đó, hai thầy trò hầu như trò chuyện, nhưng họ đều cảm thấy ấm áp thể thành lời. Chỉ có những lúc như vậy, thầy Chương mới vô tình để lộ tình cảm mà thầy cố ý che giấu bấy lâu. Mỗi khi thầy bộc lộ tình cảm, Liễu Địch đều cảm thấy trái tim xích lại gần thầy thêm chút.

      Tuy nhiên, xe buýt trước sau gì cũng đến. Mỗi khi xe buýt số 2 tới nơi, bao giờ thầy Chương cũng phát ra trước Liễu Địch. Thầy có thể nhận ra thanh của các loại ô tô, bao giờ nhầm lẫn. Liễu Địch đành đỡ thầy lên xe. Cánh cửa xe buýt khép lại, mang theo tâm tình dễ chịu và thanh thản, để lại khoảng trống khiến Liễu Địch thẫn thờ hồi lâu.

                  Chương 6


      Lại buổi trưa nóng bức.

      Liễu Địch ngồi đối diện với thầy Chương, trong tay quyển bài tập làm văn chưa mở ra. Đây là quyển vở duy nhất chưa đọc và nhận xét.

      Liễu Địch ngập ngừng, do dự, trong đầu lặp lặp lại câu : “Về đề tài: “Thầy giáo của tôi”, chắc các em viết nhiều rồi. Nhưng học sinh tiểu học và học sinh cấp ba viết giống nhau. Tôi hy vọng các em viết những điều mới mẻ, thể trình độ của học sinh cấp ba. Tôi chỉ đưa ra cầu: trong bài văn này, các em được viết về tôi. Nếu vi phạm cầu đó, xin lỗi, tôi chỉ có thể cho 0 điểm.”

      Đây là câu của thầy Chương khi ra đề tài. Câu này quanh quẩn trong đầu Liễu Địch suốt tuần liền. Cả buổi trưa hôm nay, trong đầu chỉ vang vọng câu của thầy.

      Từ trước đến nay, thầy Chương luôn , hai là hai, vì vậy, trong tất cả các bài văn vừa đọc, bạn nào dám “phạm quy”. Lòng bàn tay Liễu Địch rịn mồ hôi. có dũng khí mở quyển vở cầm tay.

      “Liễu Địch!” Thầy Chương lên tiếng nhắc nhở. “Nếu tôi nhớ nhầm, trưa hôm nay em mới chỉ đọc chín bài văn?”

      Cả lớp có năm mươi học sinh, mỗi ngày cần đọc mười bài để thầy Chương nhận xét, chấm điểm. Đây là luật bất thành văn giữa Liễu Địch và thầy. đưa mắt liếc thầy Chương. Gương mặt thầy vẫn nghiêm túc, lạnh lùng, có vẻ uy lực thể kháng cự và tôn nghiêm dễ xâm phạm. Haizz... Chuyện gì đến rồi cũng đến, ai bảo ... Liễu Địch cắn môi, hít hơi sâu rồi mở quyển bài tập.

      “Câu chuyện về người thầy.” Cuối cùng, Liễu Địch cũng đọc thành tiếng. “Thầy Chương Ngọc là thầy giáo dạy Ngữ văn của tôi...”

      Thầy Chương sửng sốt, sống lưng thầy bất giác cứng đờ, cặp lông mày của thầy bắt đầu nhíu chặt, cơ mặt cứng lại. “Đừng đọc nữa, 0 điểm!” Thầy cất giọng nghiêm nghị và đanh thép.

      Liễu Địch ngừng , hai giây rồi đọc tiếp: “Thầy dạy tôi tròn hai năm...”

      “0 điểm!” Thầy Chương lặp lại lần nữa, giọng thầy lạnh lẽo đến cực điểm. Thầy mím chặt môi, lồng ngực phập phồng, tựa hồ cố gắng đè nén cơn giận dữ trong lòng.




      Liễu Địch vẫn cất giọng đều đều: “Lúc mới nhập học, tôi ngờ thầy là người khiếm thị...”

      “Được rồi, em đừng đọc nữa!” Thầy Chương đứng bật dậy như bị điện giật. Sắc mặt thầy tái mét, lồng ngực phập phồng, thầy thở dốc. “0 điểm! 0 điểm! 0 điểm!” Thầy liên tiếp bật ra ba từ “0 điểm”, giọng mỗi lúc cao, mỗi từ như quả đạn pháo bắn về phía Liễu Địch, chút nể tình.

      Liễu Địch bắt đầu thấy sợ hãi. ngờ thầy Chương lại tức giận đến vậy. chưa từng chứng kiến thầy nổi nóng hay giận dữ. Trong ký ức của , thầy Chương chưa bao giờ cao giọng, thầy luôn khiến người khác có cảm giác thầy lạnh lùng như núi băng ngàn năm tan chảy. Ai có thể ngờ núi băng này cũng có lúc phun trào ngọn lửa? Liễu Địch cảm thấy trái tim như sắp nhảy ra khỏi lồng ngực. đấu tranh tư tưởng trong vài giây, cuối cùng vẫn đọc tiếp: “Tôi càng ngờ thầy lại mang đến cho tôi chấn động và ảnh hưởng vô cùng to lớn. Thầy để lại dấu ấn vĩnh viễn phai mờ trong lòng tôi...”

      Đọc xong câu này, Liễu Địch mềm nhũn người, tựa vào ghế. còn can đảm đọc tiếp. Chỉ đọc đoạn mở đầu làm tiêu hao hết dũng khí tích tụ suốt tuần của .

      Thầy Chương đột nhiên ngẩn người, như thể có cây gậy phép thuật khiến thầy hóa đá. Thầy bất động vài giây, vẻ mặt giận dữ từ từ biến mất. Sắc mặt thầy trắng bệch.

      “Liễu Địch.” Thầy lên tiếng, giọng bình tĩnh như mọi khi. “Đây là bài văn của em, đúng ?”

      “Vâng ạ...” Liễu Địch . Đây là lần đầu tiên thầy Chương hỏi người viết bài văn.

      “Vậy ...” Thầy Chương từ từ ngồi xuống. “Em có thể đọc hết bài văn đó.”

      Trong lòng Liễu Địch đột nhiên dấy lên cảm động khó tả. lờ mờ hiểu ra, lúc đưa cầu làm bài, thầy Chương cũng có nỗi khổ riêng. Vì vậy, vào thời khắc này, cảm nhận được thầy phải có dũng khí và nghị lực lớn đến mức nào mới có thể đưa ra quyết định đó. Liễu Địch mở quyển tập làm văn, cố đè nén tâm trạng xúc động, từ tốn đọc tiếp.

      Bài văn rất dài, Liễu Địch gần như thổ lộ mọi điều kìm nén trong lòng suốt hai năm qua. kể về tiết dạy đầu tiên của thầy Chương và lần đầu tiếp xúc với thầy sau tiết học. viết, trong buổi chào cờ hát quốc ca, hơn nghìn thầy trò của toàn trường, chỉ có thầy Chương hát theo tiếng nhạc. đề cập đến chuyện thầy Chương nhận xét bài văn, cũng viết cảm nhận của trong lúc tiễn thầy ra trạm xe buýt.

      Thầy Chương lặng lẽ lắng nghe, thầy lời, gương mặt thâm trầm chẳng có bất cứ biểu nào. Cuối cùng, Liễu Địch cũng đọc đến đoạn kết của bài văn: “Đây chính là thầy Chương. Thầy là câu đố, câu đố có lời giải đáp. Tuy tôi chưa bao giờ thử tìm cách giải câu đố này nhưng tôi vẫn có nhiều nghi vấn...” Liễu Địch bỗng dừng lại, ngập ngừng nhìn thầy Chương, đọc tiếp.

      “Em cứ đọc , đừng sợ chạm đến vết thương trong lòng tôi.” Thầy Chương lên tiếng.

      Trái tim Liễu Địch rung lên nhịp. Tuy đôi mắt mù lòa nhưng thầy Chương có thể “nhìn” thấu tâm tư của . Điều này khiến kinh ngạc và chấn động. cất giọng trong trẻo: “Tại sao thầy lại bị mù? Thầy có người thân ? Tại sao thầy có kiến thức sâu rộng nhưng lại chỉ tốt nghiệp phổ thông trung học? Thầy gặp tai họa như thế nào gương mặt thầy mới vĩnh viễn mất nụ cười... Tôi tìm được câu trả lời, cũng tò mò của tôi liệu có gây thương tổn cho thầy? Có lẽ cũng vì nguyên nhân này, thầy Chương mới tạo ra lớp vỏ bọc lạnh lùng. Nhưng dù thế nào tôi cũng cho rằng tôi gặp được người thầy xuất sắc nhất. Mỗi lần tiếp xúc với thầy, tôi luôn phát ra điều mới mẻ trong con người thầy, đó là những thứ thuộc phương diện tình cảm và tư tưởng. Điều đó luôn khiến tôi kinh ngạc. Thầy sở hữu những thứ mà người khác khó lòng đạt được, đó chính là tư tưởng vĩ đại và tinh thần cao thượng. Tôi chỉ có thể tổng kết con người thầy như sau: Câu chuyện quá khứ trong cuộc đời thầy lúc lúc như đom đóm phía xa; tư tưởng của thầy sâu xa như núi cao rừng rậm; thế giới tình cảm của thầy như đại dương cuộn trào; tâm hồn thầy giống mỏ vàng trù phú...”

      Liễu Địch đặt quyển bài tập xuống, thở hơi nhõm. nhướng mắt nhìn thầy Chương, muốn thấy biểu khác lạ của thầy, nhưng gương mặt thầy vẫn vô cảm, giống như tờ giấy trắng tinh.

      Văn phòng vô cùng yên tĩnh, chỉ có chậu hoa nhài lặng lẽ tỏa hương thơm dìu dịu khắp gian.

      lúc lâu sau, thầy Chương mới lên tiếng: “Em muốn giải câu đố này? , tôi biết em rất muốn. Chỉ là em giữ lời hứa của mình, muốn động đến vết thương trong lòng tôi nên mới kìm nén hiếu kỳ suốt hai năm. hai năm trôi qua, quả làm khó em rồi.” Thầy Chương nhíu mày, khẽ buông tiếng thở dài. “Em muốn biết chuyện liên quan đến tôi, đúng ?” Thầy cất giọng nhàng như hỏi Liễu Địch, cũng là hỏi bản thân mình.

      “Được.” Sau đó thầy hạ quyết tâm. Thầy gật đầu, cất giọng vừa lạnh nhạt vừa kiên quyết: “Tôi thỏa mãn nguyện vọng của em, kể cho em nghe câu chuyện cuộc đời tôi.”

      Liễu Địch giật mình, hai mắt mở to, hốt hoảng nhìn thầy Chương. Điều này quá bất ngờ, khiến thể tin nổi.

      “Thưa thầy...” Liễu Địch lắp bắp. “Thầy cần kể... Nếu thầy cảm thấy...”

      Thầy Chương xua tay, ra hiệu cho im lặng. Thầy cầm cốc trà, chậm rãi uống ngụm như muốn thưởng thức vị đắng chát của trà. Sau đó, thầy bắt đầu kể câu chuyện cuộc đời mình. Giọng thầy rất bình thản, tự nhiên như trần thuật việc liên quan đến bản thân:

      “Tôi phải là người ở đây, quê tôi ở Tô Châu. Bố tôi là giáo viên mỹ thuật của trường phổ thông trung học. Vì thể thực ước mơ trở thành họa sĩ, ông gửi gắm mọi niềm hy vọng vào tôi. Có lẽ nhờ được thừa hưởng gien di truyền từ bố nên ngay từ khi còn , tôi rất nhạy cảm với màu sắc và ánh sáng, cũng luyện được đôi mắt biết quan sát vạn vật. Tuy nhiên, tôi lại say mê văn chương cách điên cuồng. Nhờ khả năng thiên phú về mỹ thuật, tôi rất giỏi quan sát và nắm bắt chi tiết của cuộc sống, có thể nhanh chóng đúc kết yếu tố tôi cần để lập nên cấu tứ và sáng tác. Nét đẹp và nhiệt tình đối với cuộc sống của các nghệ sĩ đốt cháy ngọn lửa sáng tác trong tôi. Chắc em cũng biết, điều này có ý nghĩa như thế nào đối với người thích văn chương và sáng tác. Tôi chìm đắm trong văn chương đến mức thể thoát khỏi nó, thế là, lúc thi đại học, tôi giấu bố tôi đăng ký khoa Trung văn của Bắc Đại [1] và trúng tuyển với thành tích đứng đầu toàn tỉnh.”

      [1] Bắc Đại tức Đại học Bắc Kinh, trường đại học hàng đầu của Trung Quốc.

      Thầy Chương đột nhiên dừng lại. Thầy cầm cốc trà nhưng đưa lên miệng. Trầm tư giây lát, thầy tiếp: “Liễu Địch, sau này thi đại học, em hãy đăng ký vào Bắc Đại. Nơi đó là thánh đường của tinh thần và tri thức nhân loại.”

      Liễu Địch ngẩn người, có thể nhận ra quan tâm sâu sắc khó nhận thấy từ câu bình thản của thầy Chương. Liễu Địch chưa kịp nghĩ sâu hơn tiếng thầy lại vang lên bên tai :

      “Tôi đến Bắc Đại, chỉ có thể hình dung bằng cụm từ “như cá gặp nước”. Tôi vùi đầu vào đại dương kiến thức, bắt đầu điên cuồng nghiên cứu. Khả năng thiên bẩm và chăm chỉ phấn đấu nhanh chóng khiến tôi trở thành người xuất sắc nhất khóa. Lúc đó, dùng từ “nổi bật” để hình dung vị trí của tôi cũng phải quá đáng. Tôi sở hữu thứ mà bất cứ người học văn nào cũng ngưỡng mộ, đó là đôi mắt biết quan sát và tâm hồn biết cảm thụ. Cứ như vậy, tôi trải qua ba năm đẹp đẽ trong cuộc đời ở Bắc Đại. Vào kỳ nghỉ đông năm cuối trước khi tôi tốt nghiệp, do bố mẹ tôi làm việc tại thành phố cách Bắc Kinh xa, tôi về ăn Tết cùng họ. ngày trước hôm tất niên, ở đó xảy ra vụ hỏa hoạn vô cùng đáng sợ...”

      Cây bút trong tay Liễu Địch rơi xuống bàn. nhìn thầy Chương chăm chú. hiểu sao rất mong thầy Chương dừng kể câu chuyện tàn khốc này. Thầy Chương đưa cốc trà lên miệng, uống ngụm. Nước trà nguội, có lẽ càng đắng chát.

      Đặt cốc trà xuống bàn, thầy Chương dừng câu chuyện như mong đợi của Liễu Địch, tiếp tục cất giọng trầm thấp và bình tĩnh: “Cho đến bây giờ tôi vẫn nhớ ánh lửa đêm đó. Ánh lửa sáng rực, chưa từng thấy... Tôi luôn nghĩ bố mẹ tôi lên thiên đường trong ngọn lửa rực cháy đó, họ nhất định vui vẻ. Tôi muốn cùng họ lên thiên đường, để xem ánh sáng và màu sắc đó, để cảm nhận những điều đẹp đẽ và vui vẻ, nhưng tôi có cơ hội... Cảnh tượng cuối cùng đập vào mắt tôi là bức tường đổ sụp xuống người tôi trong ánh lửa. Sau đó... khi tôi tỉnh lại, trước mắt tôi là bóng tối, bóng tối vĩnh viễn.”

      Cuối cùng, thầy Chương cũng kết thúc câu chuyện. Sắc mặt thầy vẫn thể chút xao động. Liễu Địch chống tay lên trán, trong lòng tràn ngập nỗi đau thể diễn tả. Lời trần thuật của thầy Chương mang sức mạnh vô hình to lớn, bóp nát lục phủ ngũ tạng của , khiến toàn bộ dây thần kinh người chấn động. Liễu Địch rơi nước mắt, khóc nổi, chỉ cảm thấy trái tim mình như từ từ rỉ máu.

      “Thế nào? Nghe xong câu chuyện của tôi, em có cảm nghĩ gì?” Giọng thầy Chương bình thản và tự nhiên, tựa hồ vừa phân tích cuốn tiểu thuyết, bây giờ hỏi cảm nhận của học trò.

      “Đau khổ!” Liễu Địch khó nhọc thốt ra hai từ.

      “Em gì?” Thầy Chương đứng dậy. Người thầy run rẩy, tựa hồ bị cơn chấn động bất ngờ.

      “Đau khổ!” Liễu Địch lặp lại. Ngoài từ này, biết phải diễn tả thế nào.

      Khóe miệng thầy Chương run run. Thầy vội vàng quay người lại, tay lần lần bám vào bệ cửa sổ, cố kìm nén cảm xúc. Vài giây sau, dường như thầy lấy lại bình tĩnh, bóng lưng thầy trở lại vẻ bình thản như mọi khi, nhưng bàn tay bám vào cửa sổ nổi các khớp và gân xanh.

      lúc lâu sau, thầy Chương vẫn đứng quay lưng về phía Liễu Địch, chậm rãi lên tiếng: “Em có biết ? Trước đây, khi tôi kể chuyện quá khứ với người khác, tôi cũng từng hỏi cảm nghĩ của bọn họ. Câu trả lời của bọn họ ngoài hai từ: “thông cảm” và “đáng thương”.”

      Liễu Địch sững sờ. Vào thời khắc này, chợt hiểu thầy Chương của hơn hai năm qua. đột nhiên thấy sáng tỏ nhiều vấn đề trước đây vẫn mù mờ. hiểu tại sao thầy Chương luôn thân mình, xa lánh mọi người, hiểu thái độ lạnh lùng của thầy Chương là bất đắc dĩ, cũng hiểu tại sao thầy Chương lại tin tưởng , chấp nhận giúp đỡ của .

      Ai muốn sống độc mình, muốn tách khỏi thế giới? Ai lại muốn được người khác biết đến, chấp nhận? Thế nhưng “thông cảm” và “đáng thương” chính là loại kỳ thị. Hành động giúp đỡ dựa “thông cảm” và “đáng thương” chính là phủ nhận và cười nhạo tôn nghiêm của thầy Chương. Vì vậy thầy mới dùng thái độ lạnh lùng và cao ngạo để che giấu bản thân. Thầy thà cự tuyệt quan tâm chân thành, chứ muốn chấp nhận giúp đỡ xuất phát từ thái độ kỳ thị của người khác. Thầy tự nguyện xa lánh cuộc đời. Mặc dù xa lánh này mang lại niềm vui và hạnh phúc cho thầy, nhưng ít ra nó cũng giúp thầy tránh xa phản ứng “thông cảm” và “đáng thương” mang tính lăng nhục. Chỉ làm vậy thầy mới có thể giữ lại tôn nghiêm của mình.

      Chuông báo vào học đột nhiên vang lên. Thầy Chương quay người, sắc mặt thầy trở lại vẻ lạnh nhạt. “Liễu Địch!” Thầy . “Vào học rồi, chúng ta thôi!”

      “Nhưng…” Liễu Địch nhìn quyển vở bàn. “Bài văn của em…”

      “0 điểm.”

      Liễu Địch ngây người mất vài giây. nhìn thầy Chương chăm chú, muốn điều gì đó nhưng biết thế nào. Sau đó, nước mắt trào ra, làm mờ tầm nhìn của . cầm bút viết số 0 lên quyển vở. Do dùng lực quá mạnh, đầu bút chọc thủng trang giấy.

      “Tôi thể làm trái nguyên tắc của mình.” Thầy Chương rành rọt từng từ . “Nhưng tôi có thể cho em biết tôi hối hận khi nghe bài văn này, cũng hối hận vì kể câu chuyện cuộc đời tôi với em.”

      Nước mắt giàn giụa gò má Liễu Địch, xối giọt lệ thất vọng và tủi thân trước đó, đôi mắt sáng lấp lánh. Thầy Chương trầm mặc, chủ động giơ tay về phía Liễu Địch. rùng mình, sau đó nhàng cầm tay thầy. Hai thầy trò sánh vai khỏi dãy nhà phía bắc, tới khu phòng học ở phía nam như thường lệ.

      Trời đột nhiên nổi trận gió lớn, cơn gió hy hữu của mùa hè. Cả sân thể dục lập tức trở thành thế giới mù mịt cát. Bóng lưng của Liễu Địch và thầy Chương dần trở nên mơ hồ trong gió cát. giọng hát trong trẻo biết từ ô cửa nào đó vang vọng khắp gian:

      hãy đưa tay,

      Để em nắm lấy,

      qua sa mạc hoang vắng,

      Tìm kiếm ốc đảo khao khát bấy lâu...”

    5. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

      Chương 7


      Năm lớp 12 đáng sợ cuối cùng cũng tới.

      Bất kể bọn trẻ vừa tham gia “nghi thức trở thành người lớn” có muốn hay , đều phải chấp nhận cuộc thử thách đầu tiên sau khi “trở thành người lớn”, đó là kỳ thi đại học. Mà phương thức chấp nhận chính là vùi đầu vào sách vở, học, học và học theo kiểu nhồi vịt.

      Trường đại học mở rộng cửa chào đón, nhưng trong mười học sinh chỉ người có thể bước qua. Để khiến mình vượt trội trong “thiên binh vạn mã”, trở thành người có thể vượt qua “cầu độc mộc”, mỗi học sinh đều cố gắng hết sức, ngày đêm học tập. Hơn nữa, chúng còn thầm đọ sức, chỉ sợ bạn khác chăm chỉ hơn mình, ngày nào đó vượt qua mình. Thế giới này vốn là vũ đài cạnh tranh quyết liệt, chỗ nào cũng tranh giành, cấu xé lẫn nhau. Chỉ là kẻ mạnh, bạn mới có cơ hội giành chiến thắng, kẻ yếu bị đào thải. Đây là quy tắc bất biến của nhân loại từ thời xa xưa.

      Nhà trường tăng thêm giờ tự học buổi tối, bắt đầu lúc sáu giờ tối, mỗi ngày hai tiết. Tiết thứ nhất thầy giáo giảng bài, tiết thứ hai làm bài kiểm tra hoặc tự ôn tập. ai than vãn, vì đây là chuyện sớm muộn gì cũng xảy ra, nếu tổ chức giờ tự học buổi tối, ít phụ huynh kêu ca, phàn nàn nhà trường.

      Liễu Địch và thầy Chương tất nhiên cũng bị cuốn vào cơn lốc tự học. Lúc đầu, nhà trường sợ thầy Chương gánh nổi nhiệm vụ dạy học nặng nề, có ý định đổi giáo viên khác cho lớp Liễu Địch. Nào ngờ ý định này bị học sinh phản đối kịch liệt. Cả lớp ký tên vào thư đề nghị để Liễu Địch nộp cho hiệu trưởng Cao và chủ nhiệm. Với tư cách đại diện cho lớp 1, Liễu Địch chỉ : “Thầy Chương gặp khó khăn trong công việc, em có thể gánh vác giúp thầy, ở bên cạnh thầy, người nào có thể thay thế vị trí của em. Trong lòng chúng em, cũng ai có thể thay thế vị trí của thầy Chương.”

      Hiệu trưởng Cao nghe xong, thở dài. Ông vuốt tóc Liễu Địch, cất giọng hiền từ xen lẫn lo lắng: “ bé, thầy thể tưởng tượng sau khi em tốt nghiệp, thầy Chương thế nào?”

      Liễu Địch ngẩn người. Sau khi tốt nghiệp, ai chăm sóc thầy Chương, ai giúp đỡ thầy? Nhưng tốt nghiệp là chuyện của năm sau, việc cần làm nhất bây giờ là giữ thầy ở bên cạnh .

      Cuối cùng, lớp Liễu Địch cũng thuyết phục được nhà trường, thầy Chương vẫn tiếp tục dạy môn Ngữ văn. Tuy nhiên, trách nhiệm đôi vai Liễu Địch càng nặng nề.

      Năm giờ chiều tan học, Liễu Địch vẫn đến văn phòng của thầy Chương như thường lệ. Nếu buổi tối có tiết của thầy, tiễn thầy ra trạm xe buýt. Nếu thầy phải dạy thêm vào buổi tối, Liễu Địch ở văn phòng giúp thầy sửa bài thi hoặc chép đáp án để ôn tập. Tiết học đầu tiên của buổi tối kết thúc vào lúc bảy giờ rưỡi. Lúc đó còn xe buýt, vì vậy thầy Chương quyết định ngủ lại trong văn phòng. Hai chiếc ghế ghép lại thành cái giường , áo khoác của bộ đội trở thành chiếc chăn bông, miếng bánh mì hoặc gói mì ăn liền chính là bữa tối. Thiết bị sưởi ấm của tòa nhà phía bắc tốt, Liễu Địch liền mang quạt sưởi ấm ở nhà đến văn phòng cho thầy. Thầy Chương đón nhận, câu: “Cám ơn!”




      Năm mới lặng lẽ đến gần trong bận rộn ngày đêm của thầy trò. Vào ngày Ba mươi mốt tháng Mười hai, từ sáng sớm tuyết rơi. Hoa tuyết dày đặc bay trong trung, chỉ lúc sau nhuộm trắng cả mặt đất, mái nhà và cây cối, khiến cả thành phố tràn ngập khí của năm mới.

      Ngày hôm đó, nhà trường phá lệ cho học sinh nghỉ học, để tất cả học sinh, đặc biệt là học sinh lớp 12 tổ chức liên hoan đón chào năm mới. Bọn trẻ thoát khỏi đống bài vở nặng nề, lập tức trở nên hoạt bát, cười đùa vui vẻ. Chúng đắp vô số quả cầu tuyết, treo những ngọn đèn lồng và vô số tấm thiệp chúc mừng năm mới lên cây sồi. ai có sáng kiến độc đáo, treo cả chuông gió lên cành cây sồi, thế là tiếng chuông gió lanh canh vang vọng khắp gian, hòa với tiếng cười vui vẻ của các cậu học trò.

      Trong phòng học càng náo nhiệt hơn. Cửa sổ được phun sơn màu hình trang trí đẹp mắt, hàng chữ tiếng “Happy New Year” nổi bật. bảng đen vẽ hình ông già Noel, hình bánh gato, chuột Mickey... Vô số dải lụa màu, bông hoa, bóng bay, vụn giấy, vô số gương mặt rạng rỡ tươi cười tạo thành bầu khí vui vẻ, rộn ràng.

      Đoán câu đố, chuyền hoa, ca hát, nhảy múa, chơi trò chơi, biểu diễn tiểu phẩm... Bọn trẻ phát huy trí tưởng tượng và sức sáng tạo thiên bẩm, thể niềm vui cách tự nhiên nhất. có ôn tập, có phụ đạo, có bài tập, có thi cử, ngày hôm nay thuộc về bọn trẻ, thuộc về tuổi thanh xuân, thuộc về nụ cười và ước mơ.

      Liễu Địch cũng bị cuốn theo đám bạn bè náo nhiệt. cùng hát, cùng nhảy múa, cùng vỗ tay, cùng cười với các bạn. Năm lớp 12 đúng là áp lực quá lớn, Liễu Địch có nhiều thời gian riêng tư. cần thư giãn để sợi dây thần kinh căng thẳng và cơ thể mệt mỏi được nghỉ ngơi.

      là người thích mình, nhưng hôm nay cùng các bạn vui chơi, cảm thấy rất vui vẻ và thỏa mãn. Cuối cùng cũng hiểu ra, người sống độc đến mức nào, từ sâu thẳm trong nội tâm cũng khao khát được giao tiếp với người khác, được mọi người biết đến. Khi hiểu ra đạo lý này, Liễu Địch càng nhận thức sâu sắc rằng thầy Chương phải có dũng khí và nghị lực to lớn thế nào mới tự nguyện lựa chọn cách sống độc.

      Buổi liên hoan kéo dài đến tận hai giờ chiều mới kết thúc. Các bạn học vẫn chưa thỏa mãn, lớp trưởng đột nhiên hét lớn: “Karaoke! Ai muốn KTV nào?”

      Lập tức có người cất giọng khe khẽ: “Học sinh cấp ba được phép KTV.” Người vừa lên tiếng chính là Liễu Địch.

      “Sợ đếch gì nào?” Lớp trưởng văng câu. “Chúng ta nín nhịn ba năm rồi, chỉ ngày hôm nay, còn kiêng kỵ gì chứ? Hơn nữa KTV đâu phải là nơi bẩn thỉu, nhơ nhớp. Chúng ta chỉ đến đó tụ tập liên hoan thôi mà. Ai muốn cùng tớ? Xảy ra chuyện, tớ chịu hoàn toàn trách nhiệm.”

      Ngay lập tức có hơn hai mươi người đứng về phía lớp trưởng. Liễu Địch đưa mắt quan sát, phần lớn đều là những bạn có thành tích học tập tồi. Các bạn đó có lẽ càng cảm thấy bị gò ép, cần giải tỏa áp lực hơn những người khác.

      “Liễu Địch, cậu có ?” Lớp trưởng hỏi .

      “Tớ...” Liễu Địch ngập ngừng nhìn về phía ô cửa sổ ở tầng bốn của tòa nhà phía bắc.

      “Thầy Chương phải ?” Lớp trưởng đọc ra tâm tư của , cậu ta câu giải quyết mọi vướng mắc: “Bây giờ mới hai giờ chiều. Năm giờ chắc chắn chúng ta quay về rồi, làm nhỡ việc của cậu.”

      “Nhưng...” Liễu Địch vẫn yên tâm. Tuyết rơi dày khiến nhìn ô cửa sổ đó. Trông nó rất bé và độc trong màn hoa tuyết trắng xóa.

      Cậu lớp trưởng nhìn Liễu Địch chăm chú. Thiếu nữ trước mặt cậu dù khoác chiếc áo to xù nhưng vẫn lộ vẻ đẹp ngời ngời. Lông mày thanh tú, bờ môi chúm chím, nước da trắng nõn, khuôn mặt trái xoan, còn cả đôi mắt đen láy, trong veo, đầy mơ mộng, thể vẻ ngây thơ và bình yên khó diễn tả. thiếu nữ thông minh, xinh xắn khiến nam sinh toàn trường rung động, vậy mà bình thường thèm liếc bọn chúng, chỉ suốt ngày quanh quẩn bên thầy giáo mù. Lớp trưởng đột nhiên cảm thấy bất bình, nghiến răng, lên tiếng “kích động” mọi người: “Các bạn, Liễu Địch là bạn xinh đẹp nhất lớp ta, nhưng cậu ấy bao giờ nể mặt các bạn nam chúng ta. Hôm nay, cậu ấy lại từ chối tham gia buổi liên hoan của lớp. Chẳng lẽ nam sinh lớp 1 vô dụng đến vậy sao?”

      Các bạn trong lớp lập tức ồn ào, huyên náo. Liễu Địch xua tay. “Được rồi, được rồi, tớ là được chứ gì? Tớ sợ các cậu rồi đấy.”

      Thế là mọi người khoác vai nhau, tới KTV ở gần trường. Lớp trưởng chọn phòng rộng nhất, căn phòng có cửa sổ nên khi đóng cửa ra vào, bên trong tối om. Lớp trưởng có sáng kiến thắp vài cây nến, khí lãng mạn và ấm áp lan tỏa khắp căn phòng. Đến lúc này các bạn mới hoàn toàn cảm thấy được tự do thư giãn.

      Liễu Địch hề biết trong lớp lại có nhiều nhân tài như vậy. Điệu nhảy “côn trùng ngủ gật” của Viên Hà rất tuyệt. Người cậu mềm dẻo như xương. Nhảy điệu cuối cùng, cậu còn xoay vài vòng, được mọi người vỗ tay tán thưởng nhiệt liệt.

      Lớp trưởng hát tình ca rất hay. Hết Quay đầu, lại đến ra em hiểu lòng , Tình mùa thu, Cám ơn tình của em... biết cậu ta hát bao nhiêu bài, dù sao đây phải là trường học, chẳng ai chỉ trích. Mấy nam sinh biết chơi guitar tạo thành ban nhạc, hát các bài hát về tuổi học trò. Các bạn nữ cũng chịu thua kém, nhảy điệu disco quay cuồng khiến đám nam sinh há hốc miệng.

      Liễu Địch cũng hết sức kinh ngạc. Những “thiên tài” này sao được phát nhỉ? Cũng phải, bọn họ bị giam cầm trong đống sách vở và bài tập, mang vai gánh nặng thi cử, làm gì có cơ hội thể tài năng! Nếu nhờ buổi liên hoan hôm nay, có lẽ đến khi tốt nghiệp, chúng chỉ để lại ấn tượng là những con mọt sách vùi đầu khổ học mà thôi.

      Liễu Địch cũng bị ảnh hưởng bởi khí đó, chìm đắm trong bầu khí vui vẻ và tự do. và các bạn cùng ca hát, nhảy múa, cười . Dưới cổ vũ của mọi người, Liễu Địch trình bày ca khúc tiếng Yesterday Once More của em nhà Carpenters:

      “Those were such happy times

      And not so long ago

      How I wondered where they’d gone

      But they’re back again

      Just like a long lost friend.”

      (Quãng thời gian đó tươi đẹp

      quá xa vời

      Tôi bâng khuâng thầm hỏi ngày thơ ấu giờ trôi về đâu

      Nhưng rồi những ngày xưa đó quay về

      Giống như người bạn thân xưa cũ.)

      Điệu nhạc chậm rãi, mang tâm trạng hoài niệm và buồn bã lập tức lây nhiễm các bạn học. Mọi người hẹn cùng cất cao tiếng hát với Liễu Địch:

      “All my best memories

      Come back clearly to me

      Some can even make me cry

      Just like before

      It’s yesterday once more.”

      (Tất cả những ký ức ngọt ngào

      Trở về trong tôi ràng

      Có những kỷ niệm khiến tôi òa khóc

      Vẫn giống như ngày xưa

      Những ngày xưa ấy quay về lần nữa.)

      Khi bài hát kết thúc, tất cả đều rơi lệ.

      Trong hoàn cảnh và bầu khí như vậy, Liễu Địch khỏi cảm động. Tuổi thanh xuân là chân thành, đầy sức sống và vui vẻ. Liễu Địch đắm chìm trong khí đó. quên cả thời gian, quên cả nơi mình có mặt, quên hết tất cả. Tất nhiên cũng quên mất hình bóng sốt ruột chờ ở đằng sau ô cửa sổ tầng bốn tòa nhà phía bắc.




      Cho đến khi rời khỏi phòng KTV, bắt gặp gió tuyết bay trong đêm, Liễu Địch mới chợt nhớ ra. nhảy dựng lên, hỏi người bên cạnh: “Trời ạ! Mấy giờ rồi?”

      “Tám giờ rưỡi.” bạn nhìn đồng hồ.

      “Gì cơ?” Đầu óc Liễu Địch nổ tung. Tám giờ rưỡi? mải chơi nên quên cả thời gian, tám rưỡi tối rồi? Liễu Địch thể khống chế cơn run rẩy và quả tim đập thình thịch trong lồng ngực.

      Sao có thể quên mất thầy Chương. Thầy Chương, giờ thầy Chương ở đâu? Thầy về nhà chưa? Trong lòng Liễu Địch nóng như lửa đốt, vô cùng đau đớn. cảm thấy mình là kẻ tệ bạc.

      Tuyết rơi ngày càng nhiều, biết trời nổi gió từ lúc nào. Ngọn gió bắc cuốn lấy từng đóa hoa tuyết bay vào mặt Liễu Địch. mặc nhiều quần áo mà vẫn run cầm cập. lại nhớ đến thầy Chương, thầy chỉ mặc chiếc áo khoác mỏng. Trời ạ, thầy Chương, thầy ở đâu? Nếu thầy ở văn phòng, thầy làm thế nào để trải qua buổi chiều dài độc? Nếu thầy về nhà… Tuyết rơi nhiều như vậy, thầy làm thế nào để ra bến xe? Trong lòng Liễu Địch rối bời, dùng hết sức lao nhanh về phía trường học, bất chấp gió tuyết.

      Cuối cùng, Liễu Địch cũng lảo đảo chạy tới cổng trường. Ơn trời, cổng trường vẫn chưa khóa. Theo thói quen, đưa mắt về ô cửa sổ ở tầng bốn tòa nhà phía bắc. Văn phòng tối om, nhưng có thể chứng minh điều gì? Người mù vĩnh viễn cần ánh sáng. Liễu Địch cần nghĩ ngợi, chạy vội về phía tòa nhà phía bắc.

      Bên trong dãy nhà bật đèn, Liễu Địch lập tức rơi vào bóng tối. Cảm giác về phương hướng biến mất, ánh sáng cũng biến mất, chỉ có thể dựa vào trí nhớ, dò dẫm đến chân cầu thang, leo từng bậc lên tầng bốn.

      Nghe tiếng giày nện cộp cộp xuống nền nhà, bị bóng tối hư vô hỗn độn bao vây, Liễu Địch đột nhiên cảm thấy sợ hãi và độc chưa từng có. có trời đất, có trăng sao và mặt trời, có cây cỏ, có muôn loài, cả thế giới chỉ còn lại mình , như con thuyền độc, trôi dạt trong bóng tối vô cùng vô tận, biết lúc nào thịt nát xương tan. Bóng tối có lẽ là thế giới bất hạnh và đáng sợ nhất. Liễu Địch bỗng nhận ra thầy Chương cũng phải sống trong thế giới như vậy. Vụ hỏa hoạn năm năm trước định số mệnh của thầy thoát khỏi bóng tối vô tận, bóng tối bờ bến. Lúc này, Liễu Địch mới cảm nhận được tâm trạng của thầy Chương lúc thầy bị mù. Thế giới của người khiếm thị vốn rất đơn, vậy mà thầy Chương còn đẩy mình vào nơi độc hơn. Hôm nay, còn tặng thêm cho thầy nỗi độc, quả thực quá tàn nhẫn.

      Cuối cùng cũng leo lên tầng bốn, đôi mắt Liễu Địch bắt đầu quen dần với bóng tối, miễn cưỡng nhận ra đường nét của vật thể. bám theo bờ tường, về phía văn phòng của thầy Chương. Đến trước cửa phòng, dừng bước theo thói quen, ngập ngừng , hai giây rồi gõ cửa.

      có tiếng trả lời, bốn bề chỉ là yên tĩnh đến tột cùng.

      Liễu Địch lại gõ cửa, vẫn là yên tĩnh đáng sợ.

      vội vàng đẩy cửa, cánh cửa khép hờ lập tức mở toang.

      Trong phòng tối đen, Liễu Địch lần lần tới chỗ công tắc bật đèn. Ánh sáng chợt lóe lên khiến Liễu Địch lóa mắt. Sau đó, quan sát lượt căn phòng. Bàn làm việc, ghế ngồi, cốc trà, phích nước, chậu hoa nhài, quạt sưởi… vẫn ở nguyên chỗ cũ, nhưng thầy Chương thấy đâu. Mặc dù sớm đoán biết, Liễu Địch vẫn khỏi hoảng hốt và thất vọng.

      Liễu Địch lại đảo mắt vòng, chợt phát thấy mũ và găng tay của thầy Chương vẫn ở bàn. Tim thắt lại, thầy Chương mang theo mũ và găng tay, chắc chắn thầy chưa về nhà. Thầy có thể đâu?

      Sau đó, Liễu Địch nhìn thấy tờ giấy và cây bút đặt bên cạnh chiếc mũ và đôi găng tay. Đó là cây bút mực đỏ dùng để viết nhận xét bài văn. Lẽ nào thầy Chương viết lời nhắn để lại cho ? Ba năm nay, Liễu Địch chưa từng nhìn thấy thầy Chương viết. vội cầm tờ giấy lấy lên xem, bàn tay đột nhiên run run. tờ giấy có chữ, chỉ có vô số dấu chấm hỏi, to , đậm nhạt chồng lên nhau. Có mấy dấu hỏi, do người viết ấn bút quá sâu, thậm chí chọc thủng cả giấy, chứng tỏ tâm trạng của người viết vô cùng nôn nóng và sốt ruột.

      Tim Liễu Địch nhói đau, nước mắt chảy giàn giụa, rơi cả xuống tờ giấy, làm nhòe dấu hỏi màu đỏ tờ giấy trắng. Trong lòng Liễu Địch tràn ngập nỗi đau đớn và ân hận. Thầy Chương, thầy muốn hỏi ai? Thầy muốn hỏi điều gì? Có phải thầy muốn hỏi tại sao em đến đón thầy? Tại sao con bé đó lại để thầy mình ở đây, để nỗi độc gặm nhấm tâm hồn thầy? Thầy có biết , em quên mất thầy, quên mất thầy…

      Trong tầm nhìn trở nên mơ hồ vì nước mắt, Liễu Địch lại thấy chiếc mũ và đôi găng tay bị bỏ quên bàn làm việc. Thầy Chương đội mũ và đeo găng tay mà ra ngoài. Trong đêm gió tuyết này, thầy có thể đâu? Lẽ nào thầy tìm ? Trời ạ, thầy làm sao có thể “tìm”?

      Lòng Liễu Địch đau như cắt, trán rịn mồ hôi lạnh. lập tức quay người lao ra khỏi văn phòng, chạy như bay xuống cầu thang, bất chấp bóng tối bao vây.

      Liễu Địch chạy mạch đến phòng bảo vệ ở cổng trường. vừa đập cửa phòng bảo vệ vừa hét to: “Ông Lý! Ông Lý!”

      Ông Lý chậm chạp ra cửa. Liễu Địch túm lấy tay ông. “Ông Lý, thầy Chương đâu rồi? Ông có nhìn thấy thầy Chương ạ?”

      “Thầy Chương à? Ờ, ông có nhìn thấy.” Ông Lý cất giọng già nua chậm rãi. “Lúc năm giờ chiều đến chỗ ông, hỏi ông có nhìn thấy cháu ra ngoài . Ông thấy. Nhiều người lại như vậy, ông nhìn thấy cháu. Sao hôm nay cháu về cùng thầy Chương?”

      Trong lòng Liễu Địch càng rối bời và chua xót.

      “Nghe ông vậy, thầy Chương quay người về phía lớp học của cháu xem thế nào.”

      “Sao ạ? Thầy tới lớp học của cháu ư?” Liễu Địch kinh ngạc hỏi.

      “Đúng vậy.” Ông Lý thở dài. “Ông khuyên thầy đừng nhưng thầy nghe. Tính của thầy chắc cháu hiểu hơn ai hết. Ông dám giúp thầy, chỉ có thể đứng nhìn thầy dò dẫm từng bước tới tòa nhà phía nam. Tuyết dày như vậy, thầy lại chẳng nhìn thấy gì, ông thấy thầy bị trượt ngã, rồi thầy đứng lên, sau đó lại bị ngã…” Ông Lý thở dài, lắc đầu. “ đấy, ông biết thầy ngã bao nhiêu lần. Thầy còn đội mũ…”

      “Được rồi, ông Lý, ông đừng nữa!” Trong lòng Liễu Địch dấy lên nỗi đau xé tim gan. Tất cả đều là lỗi của ! “Sau đó sao ạ?” sốt ruột hỏi.

      “Sau đó ông đành lòng nhìn thầy nữa nên quay về phòng bảo vệ.”

      “Sao đó sao ạ? Rốt cuộc thầy Chương đâu?”

      “Ông biết.” Ông Lý .

      Liễu Địch thất vọng thở dài. Hỏi thăm hồi, vẫn biết tung tích của thầy Chương. Thầy Chương có thể đâu? Liễu Địch tự hỏi. Trong đầu đột nhiên vụt qua ý nghĩ. Bến xe, đúng rồi, là bến xe. Sao có thể quên mất bến xe? Liễu Địch nghĩ ngợi, lao nhanh ra trạm xe buýt.

      Tuyết rơi thưa dần từ lúc nào. Mọi người về nhà đón năm mới từ lâu. đường phố chỉ thấp thoáng vài bóng người và xe cộ. Đèn đường tỏa ánh sáng mờ mờ xuống nền tuyết trắng, tạo thành vẻ tịch thê lương. Liễu Địch bất giác chậm lại. Vỉa hè vắng lặng, bước chân ngày càng nặng nề.

      Trạm xe buýt mỗi lúc gần. Liễu Địch cảm thấy nỗi sợ hãi thành lời. Thầy Chương liệu có ở bến xe? Chuyến xe cuối cùng chuyển bánh từ lâu, thầy ở bến xe đấy chứ? Liễu Địch cắn môi, bước chân trở nên chậm chạp. muốn nhanh đến bến xe nhưng lại sợ hãi. Trong tâm trạng đầy mâu thuẫn đó, cuối cùng Liễu Địch cũng đến gần tấm biển sắt độc ở trạm xe buýt. Dưới tấm biển là thân hình cao lớn bất động. Nhờ ánh đèn đường, Liễu Địch nhận ra đó là thầy Chương của .

      Chính là thầy Chương. Thầy vẫn mặc chiếc áo khoác mỏng màu đen, đội mũ và đeo găng tay. Thầy đứng bên cạnh tấm biển, tay nắm chặt cột sắt của biển báo. Thầy đứng ở đó rất lâu, bởi Liễu Địch nhìn thấy lớp tuyết người thầy. Hai chân thầy vùi dưới tuyết. Thầy cứ đứng đó, dưới ánh đèn mờ mờ, trông thầy như bức tượng đá hoa cương.

      Liễu Địch ngây người, đầu óc trống rỗng, thậm chí có cảm giác mình thể thở được trong giây lát. cảm thấy trái tim mình thắt lại, đau đến mức lòng bàn tay túa mồ hôi. Nước mắt lại trào ra nơi khóe mi. Qua làn nước mắt, thầy Chương trở thành hình bóng mơ hồ. Liễu Địch lau nước mắt, rồi ấn tay vào lồng ngực đau đớn. Sau đó, nhàng đến bên bức “tượng điêu khắc”, cất giọng nghẹn ngào: “Thầy Chương!”

      “Bức tượng điêu khắc” khẽ cử động. “Liễu Địch, là em phải ?” Giọng trầm thấp của thầy che giấu vui mừng. Nhưng chỉ trong chốc lát, thầy lấy lại bình tĩnh thường ngày. “Tôi biết.” Thầy , giọng run run. “Tôi biết, nếu em xảy ra chuyện gì, nhất định em ra bến xe tìm tôi.”

      “Thầy Chương!” Liễu Địch nấc nghẹn. cảm thấy cả cơ thể, trái tim và tâm hồn đều run rẩy. Thầy Chương vẽ nhiều dấu chấm hỏi như vậy, thầy đội gió tuyết tìm . Thầy đứng ở bến xe, đợi trong giá lạnh biết bao lâu. Vậy mà thầy còn lo xảy ra chuyện.

      Trong lúc thầy Chương mình lo lắng cho , lại cùng người khác chơi, ca hát, ném thầy ra khỏi đầu. Giây phút này, cảm thấy mình đê tiện, ích kỷ và vô tình. tháo găng tay, từ từ nắm lấy bàn tay bám lấy cây cột sắt của thầy Chương. Thầy Chương run rẩy, vội vàng thu tay về, nhưng do ở ngoài trời quá lâu, bàn tay thầy cứng đờ, thể cử động. Liễu Địch nhàng xoa bóp bàn tay cứng đờ đó. có muôn vàn điều muốn nhưng cổ họng tắc nghẹn, thể thốt thành lời. Cuối cùng, vẫn là thầy Chương lên tiếng trước: “Liễu Địch, em bỏ tay ra , đừng để mình bị lạnh cóng.”

      Chỉ câu ngắn gọn khiến tất cả hối hận, áy náy, cảm động, tự trách… dấy lên trong lòng Liễu Địch. Nhiều cảm xúc đến cùng lúc làm tâm hồn bé của Liễu Địch ngừng run rẩy. Cuối cùng thể khống chế bản thân, vùi đầu vào lòng thầy Chương, òa khóc nức nở. Tâm trạng đau đớn, hối hận, áy náy, cảm động cùng trào ra theo tiếng khóc của . Liễu Địch ôm chặt thầy Chương, : “Thầy Chương, thầy hãy trách mắng em , trừng phạt em ! Em sai rồi, em sai rồi! Em quên mất thầy, em nhớ đến thầy…”

      Liễu Địch vừa khóc vừa lẩm bẩm, nhưng bản thân cũng biết mình gì. Sau đó, cảm thấy cách ràng bàn tay lạnh giá của thầy Chương nhàng vỗ lưng . Giọng của thầy vang lên bên tai , lần này, giọng thầy vô cùng ôn hòa: “Liễu Địch, em đừng khóc. Em làm sai điều gì. Em vì tôi mà mất quá nhiều thời gian… Đừng khóc nữa, được em?” Giọng đó dịu dàng như cơn gió xuân tháng Ba, chút lạnh lẽo. Liễu Địch dần ngừng khóc trong tiếng thầm dịu dàng đó. đột nhiên cảm thấy trái tim mình như búp hoa còn đọng giọt sương mai, kỳ ảo, đẹp đẽ và thuần khiết.

      Tuyết lặng lẽ ngừng rơi. Vầng trăng chui ra khỏi mây, chiếu ánh sáng nhàn nhạt khắp gian. Ánh trăng và tuyết trắng phảng phất khiến gian như được khoác chiếc áo cưới lung linh, mộng ảo.

      Tất cả trở nên thánh thiện vô cùng…

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :